Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!
undefined
undefined

  Trung Nghĩa 

(Hoàng Ngọc Lễ)  

 

 A:- Đôi hàng lịch sử:  

Làng cũ quê tôi bên sông Cầu

Những hàng liễu rũ thổi thương đau

Bến đò xưa cũ nằm soi bóng

Dòng nứơc trong xanh mây trắng treo

(Quê tôi - Hoàng Ngọc Lễ)

 

Theo một số tài liệu còn giữ ở làng Xuân Đại, huyện Sóc Sơn, Hà Nội cũng như qua các cụ cao niên của làng Đại và  Trung Nghĩa còn sống ở miền nam thì trước năm 1800 xứ Trung Nghĩa chưa đựơc thành lập và ngừơi Trung Nghĩa lúc đó cũng chưa đón nhận ánh sáng đức tin công giáo. Mãi cho tới đầu thế kỷ 18 do bởi  sự giao du thân mật với những ghe thuyền đánh cá và thương lái neo đậu ở vùng tả ngạn sông Cầu nên lần hồi ngừơi Trung Nghĩa đã đón nhận ánh sáng Chúa KyTô và lần hồi theo đạo.

Vào đầu thế kỷ 18 việc truyền đạo ở vùng châu thổ sông Hồng và các tỉnh phía Đông Nam của Bắc Ninh và Hà Nội tương đối thuận lợi nên những ghe chài và thương lái từ các tỉnh miền nam đi ngựơc lên vùng sông Cầu làm ăn như Hải Dương, Ninh Bình, Bùi Chu, Nam Định...đều mang theo sách kinh, sách bổn và mỗi tối họ thừơng neo đậu ghe thuyền liền nhau để đọc kinh tối và chia sẻ lời Chúa.

Do bởi sự giao du thân tình và có nhiều tình cảm với những ngừơi đến từ các vùng xa xôi nên lần hồi giáo dân Trung Nghĩa đã theo đạo và tập hợp nhau tại bến Xây gần khu gò Xác nằm trên khúc sông Cà Lồ, một nhánh của sông Cầu để dễ bề sống và hành đạo.

Như vậy là từ thuở xa xưa khi mà địa phận Bắc Ninh chưa đựơc thành lập (1883) thì ngừơi Trung Nghĩa đã đựơc đón nhận ánh sáng Chúa Ky Tô và đã theo đạo. 7 năm sau khi theo đạo thì giáo dân Trung Nghĩa đã tạo dựng đựơc một ngôi nhà nguyện nhỏ mái tranh một gian, 2 trái để làm nơi thờ phựơng kính mến Chúa. Mãi cho đến khi địa phận Bắc Ninh đựơc thành lập thì đức cha Lễ mới chính thức nâng Trung Nghĩa thành họ đạo và khi đó đã có thêm một số gia đình từ các nơi khác tới ngự cư và tham gia họ đạo. Có gia đình đến từ Phú Yên, có gia đình đến từ làng Đại....Do sự khuyến khích và giúp đỡ của đức cha, sau đó giáo dân Trung Nghĩa đã xây dựng đựơc một ngôi thánh đừơng gồm 1 gian cung thánh và 6 gian cho giáo dân ngay trên bờ sông Cà Lồ giáp với bến đò Ngọc Hà. Quanh năm gío mát trăng thanh và cảnh vật thiên nhiên hết sức xanh tươi, hài hòa và hữu tình.

Theo lịch sử giáo phận Bắc Ninh thì năm 1905 đức cha Lễ cho thành lập thêm mấy xứ mới trong đó có xứ Nội Bài và họ Trung Nghĩa đựơc sáp nhập vào xứ Nội Bài kể từ ngày ấy. Năm 1925 do bởi vùng Sóc Sơn, Đông Anh và Yên Phong đã có nhiều ngừơi theo đạo và đã có nhiều họ đạo đựơc thành lập nên đức cha Phúc (Theodoro  Gordaliza 1925 – 1931) đã nâng Trung Nghĩa lên hàng giáo xứ gồm các họ đạo Đồng Nhân, Lương Xuân, Đông Xuyên.....

Theo “Giáo phận Bắc Ninh” của ông Đinh Đồng Phương thì trong giai đoạn này, cha gìa Châu có đoạn viết như sau:  

Đức cha Phúc nhận chính quyền

Bảy năm coi giữ đàn chiên hiền hòa

Thêm mừơi hai xứ biệt ra “*”

Bỗng dưng lâm bệnh vội qua cõi trần

“*” Các xứ: Đình Tổ, Trung Nghĩa, Ngăm Giáo, Đồng Chương, Văn Thạch, Bắc Cạn, Đại Từ, Qủa Cảm, An Tràng, Trung Lai, Nghĩa Hạ, Tân An.

Theo lịch sử giáo phận Bắc Ninh ghi năm 1938 thì xứ Trung Nghĩa lúc ấy thuộc hạt Nội Bài, huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên.  

Nâng lên hàng giáo xứ:

(Trước kia còn thuộc xứ Nội Bài thì họ Trung Nghĩa do Các cha dòng Đa Minh Tây Ban Nha và sau đó là cha P. Tốn và cha Chất coi sóc)

Chánh xứ            Cha Thomas Tri

Thày giảng  :         2

Trừơng học         1

Học sinh             29

Giáo dân             1.135

Năm 1948-1949 do lệnh "tiêu thổ kháng chiến" và vì nằm trong một vị trí chiến lựơc nên TN phải tản cư đến Núi Đôi, Xuân Dục rồi về Hậu Thôn. Do bởi đa số dân Hậu Thôn chạy theo kháng chiến nên dân Trung Nghĩa đã tạm có nơi cư trú cho tới ngày di cư vô nam.

Trong thời gian này, cha gìa Châu viết như sau:

....

Độ hơn một tháng chưa yên,

Do qiân đội pháp cứơp luôn Sàigòn

Năm sau thôn tính Hải Phòng

Rồi lên Hà Nội độ trong mấy tuần,

Cụ Hồ tuyên bố dân quân

Trừơng kỳ kháng chiến mọi phần đấu tranh

Lệnh truyền đâu đấy thi hành,

Các nhà mái gạch, đồn thành hủy tiêu.

Thánh đừơng chùa miếu tuân theo

Vừơn không nhà trống, thay đều như nhau “*”

.........................

 

“*”: Các nhà thờ bị phá trong giai đoạn này: Thái Nguyên, Thác Oánh, Nhã Lộng, Tân An, Yên Lễ, Bỉ Nội, Châu Sơn, Khánh Khê, Hoàng Mai, Trung Nghĩa, Yên Mỹ. Lập Chí, Tòa Giám mục và nhà dòng Rousselet.

Do tình thế thay đổi và do nhu cầu mục vụ do bởi giáo dân xứ Trung Nghĩa tạm cư tại Hậu Thôn giáp ranh với Đồng Nhân và vì lúc ấy Hậu Thôn không có nhà thờ nên đức cha Chỉnh (Eugenio Artaraz 1932 – 1947) rồi đức cha Hoàng Văn Đoàn đã quyết định di dời xứ Trung Nghĩa tới  Đồng Nhân.

Theo lịch sử giáo phận Bắc Ninh thì giai đoạn 1947 – 1954 là giai đoạn cực kỳ xôi động, cuộc chiến tranh khi đó rất quyết liệt.  Nhiều nhà thờ bị phá hủy và giáo dân phải tản cư ly tán nên Đức cha Chỉnh rồi Đức cha Hoàng Văn Đoàn ra sắc chỉ thành lập những giáo xứ mới. Phần nhiếu những xứ mới hình thành này do hoàn cảnh giáo dân chạy loạn mà có:

 

Mỏ Thổ               Trung Nghĩa (Đồng Nhân)       Thái Đào     Thư Xá

Thạch Đà             Sơn Trang                               Trại Hà        Ngô Khê

Dũng Vi

 

Xứ Trung Nghĩa đựơc di dời về Đồng Nhân do bởi giáo dân Trung Nghĩa tản cư tới hậu Thôn.

Theo các cụ cao niên làng Đại thì trứơc khi đựơc chính thức thành lập họ đạo thì Trung Nghĩa chỉ có thưa thớt một vài nóc gia vì chủ yếu ngừơi Trung Nghĩa lúc ấy sống bằng nghề chài lứơi trên sông Cầu và đa phần thì họ sống trên thuyền chài và lâu lâu hoặc đến vụ mùa họ mới lên bờ để vừa làm vụ vừa sữa chữa thuyền bè hoặc đan vá chài  lứơi....Ngay sau khi Trung Nghĩa đựơc thành lập họ đạo thì bà con các nơi khác đổ về ngụ cư ngày một đông hơn. Đến khi Trung Nghĩa đựơc nâng lên hàng giáo xứ thì số giáo dân đã lên đến trên dứơi 1000 chưa kể số giáo dân tại các họ lẻ. Theo thống kê của địa phận vào năm 1937 thì giáo dân Trung Nghĩa đã lên đến 1125 ngừơi.

Như vậy cách đây trên 200 năm thì làng Trung Nghĩa chưa đựơc thành hình và giáo dân Trung Nghĩa không đến từ một xứ mà họ đến với nhau vì cùng chung một niềm tin vào đức Ky Tô. Họ đựơc các nhà truyền giáo địa phận Bắc (Khi ấy chưa có địa phận Bắc Ninh) khuyến khích và giúp đỡ nên họ tìm tới nhau để giúp nhau sống đạo và cùng sống đạo. Có những gia đình đến từ Bắc Giang, có gia đình đến từ Thái Nguyên, Phú Yên....Họ sống trong yêu thương và nhân ái. Kết nghĩa đệ huynh lâu đời và trải dày khắp bề dày lịch sử của giáo họ. Họ yêu thương đoàn kết và tương trợ lẫn nhau và cho tới nay tinh thần đoàn kết yêu thương thắm thiết và thân tình vẫn đựơc duy trì trên con cái cháu chắt họ.

Tinh thần thương yêu đoàn kết và tương trợ:

Theo như một số tài liệu và các cụ Làng Xuân Đại kể lại thì thuở đầu ngừơi Trung Nghĩa sống vào nghề chài lứơi nhưng vì họ biết thương yêu đoàn kết và tương trợ lẫn nhau nên không bao lâu sau khi đựơc thành lập họ đạo trực thuộc xứ Nội Bài (1905) thì họ đã mua đựơc một số ruộng và bắt đầu sống cảnh trên bến dứơi thuyền và cho đến khi Trung Nghĩa đựơc nâng lên hàng giáo xứ thì ngừơi Trung Nghĩa đã mua đựơc rất nhiều thuở ruộng tốt tươi trải dài từ Ngọc Hà cho tới ngã ba Xà.

Sông Cà Lồ là khúc sông giao nối giữa sông Hồng và sông Cầu nên cá mú khi ấy rất nhiều và vì đồng ruộng tươi tốt nên cuộc sống của giáo dân Trung Nghĩa ngày một phát đạt. Thậm chí sau này các dân vùng lân cận sang  làm công cho Trung Nghĩa. Ruộng đồng trù phú, gạo thóc dư thừa nên ngừơi Trung Nghĩa đã nghĩ tới nghề nấu rựơu. Vào những năm 1914-1918 vì cuộc chiến tranh đệ nhất thế chiến bộc phát, quân Pháp lơ là việc kiểm soát nên việc nấu rựơu khá phát triển trong vùng Yên Phong và Đa Phúc. Các con buôn từ Phù Lỗ tới cất mua rựơu rồi đưa về Hà Nội và Phúc Yên bán lại cho các nhành đại lý. Đôi khi có cả những nhà buôn từ Thái Nguyên, Lạng Sơn tới đặt mua rựơu tại Trung Nghĩa và Đồng Nhân.

Cuộc chiến thế giới kết thúc và việc kiểm soát nấu rựơu hết sức gắt gao nên ngừơi Trung Nghĩa đã phải đem dấu chum chĩnh cũng như các đồ nghề nấu rựơu chôn vùi hai bên bờ sông Cà Lồ và ngày nay ngừơi ta vẫn tìm thấy những dấu tích, những hang lỗ chôn dấu chum chĩnh ngày xưa.

Tổ chức xứ đạo và hội đoàn :

Chúng tôi có dịp tiếp xúc với các cụ cao niên như cụ giáo Minh (91t), cụ Nguyễn Hữu Qũy (96t), cụ Đặng Viết Thảo(83t), cụ cố Hừơng (78t), cụ Đặng Viết Tuế (72t), cụ Lê Văn Minh (75t) hiện đang sống ơ miền Nam thì từ xa xưa Trung Nghĩa đã có những tở chức và hội đoàn như sau:

Hàng phủ:

Một tập hợp hành chánh tôn giáo quy tụ nhà xứ cùng các họ lẻ. Hàng phủ thừơng đựơc tổ chức thừơng niên và mỗi khi có việc quan trọng của nhà xứ cũng như mỗi khi có việc bầu bán của nhà xứ.

- Các họ lẻ và nhà xứ bầu các vị trùm trửơng, quản giáo... và các vị trùm chánh, phó, của các họ sau này sẽ đương nhiên trở thành thành viên của hội đồng hàng phủ và nếu đựơc hàng phủ tín nhiệm thì sẽ đựơc bầu bầu vào các chức vị của hàng phủ (hội đồng giáo xứ).

- Tùy theo giai đoạn lịch sử và thừơng thì cứ 3 năm một lần hàng phủ sẽ bầu lại ban chấp hành hàng phủ gồm: Chánh trương - Phó trương - Thư ký - Tư mệnh. Mỗi khi có đựơc ban chấp hành mới thì hàng phủ đem ban chấp hành tới giới thiệu và chào thăm cha xứ và xin cha xứ duyệt phê Như vậy là đã từ lâu đời, xứ Trung Nghĩa đã có một thể chế dân chủ rất vững chắc trong việc tổ chức xứ đạo.

Hội Dòng Ba Đa Minh:

Giống như tuyệt đại các xứ đạo khác của địa phận do bởi chịu ảnh hửơng truyền giáo của các cha dòng Đa Minh mà hội dòng ba Đa Minh đã đựơc hình thành rất sớm và ngay từ thuở mới thành lập giáo xứ ngừơi ta đã thấy có hội dòng ba Đa Minh hoạt động.

Hội dâng hoa trái tim Đức Mẹ

Mỗi họ đạo đều có hội dâng hoa và thừơng vào tháng Đức Mẹ thì sân nhà thờ trở nên nhộn nhịp do bởi bà quản giáo dạy các cô dâng hoa. Vào thời gian này những giọng ca trong trẻo bay tận cõi trơi xanh. Cao điểm của hội dâng hoa là mùa ngắm nhân tài. Mỗi họ, mỗi thể, mỗi điệu.

Hội trắc:

Trung Nghĩa có một hội trắc khá hùng hậu gồm những lớp đồng nhi lớn thì đánh trống, sau này có thêm sáo và kèn, đồng nhi nhỏ thì đánh trắc. Cây trắc đựơc hình thành bởi hai thanh tre và cùng với tiếng trống của các anh đồng nhi lớn, các em đồng nhi nhỏ gõ nện vào nhau với nhiều cung nhịp và thể điệu khác nhau theo nhịp trống gây tạo những âm thanh hùng khí và phấn khởi.

Sau này khi di cư vào Nam, đội trắc Trung Nghĩa vẫn đựơc duy trì nhưng đựơc ăn mặc đồng phục rất đẹp mắt. Trong những năm từ 1954 tới hết thập niên 1960, đội trắc Trung Nghĩa đã đựơc mời biểu diễn ở nhiều nơi như Biên Hòa, Di An, liên trừơng Thủ Đức và các xứ đạo lân cận. Đặc biệt trong dịp Đại hội Thánh Mẫu tại liên trừơng võ khoa Thủ Đức, đội trắc Trung Nghĩa đã đựơc sánh vai với đội trống của trừơng thiếu sinh quân và phừơng kèn Michae của quân lực Việt Nam và đựơc nhiều giới chức ngợi khen nhiệt liệt.

Ngắm đứng:

Trong mùa vọng phục sinh thừơng thì nhà xứ và các họ đều có ngắm đứng. Các bài ngắm đứng theo thể điệu ngân nga và ai thán giống như các bài văn tế để diễn tả những cực hình Chúa chịu tử nạn và các chặng đừơng thánh gía Chúa đã đi qua.

Ngày kỷ niệm Chúa chịu chết thì thừơng có ngắm nhân tài và các họ thay phiên nhau cử ngừơi lên trứơc cung thánh để ngắm. Ngừơi đựơc giải thừơng đựơc hàng phủ khuyến khích khen ngợi và trao tặng một vài kỷ vật lưu niệm.

Tư mệnh:

Ban Tư Mệnh có nhiệm vụ săn sóc và giúp đỡ phần linh thiêng cho những ngừơi sắp chết. Mỗi khi trong xứ hoặc họ đạo có ngừơi sắp sinh thì thì ban Tư Mệnh có nhiệm vụ tới săn sóc ủi an và giúp họ đọc kinh cầu nguyện cũng như đọc sách linh thiêng cho họ nghe. Thừơng thì ban Tư Mệnh có mặt bên cạnh ngừơi sắp sinh thì cho tới chết để ngừơi bệnh không bị chia trí lo ra và đựơc nghe những lời thiêng liêng cho tới lúc lìa đời.

Trửơng ban Tư Mệnh đựơc coi ngang như chức trùm họ nhưng trùm Tư Mệnh chưa thể đựơc bầu vào các chức chánh phó trương nếu chưa từng làm trùm chánh, phó của họ.

Quản giáo:  

Ban quản giáo có nhiệm vụ dạy kinh hạt và giáo lý cho thiếu nhi. Thừơng thì mỗi tối tại sân nhà các ông bà quản đều vang ca tiếng học kinh, bổn và tập hát.

Ông quản, bà quản còn có nhiệm vụ chăn dắt và hứơng dẫn thiếu nhi nam nữ trong các ngày co lễ lạy, hội hè và đặc biệt là giữ cho thiếu nhi trở thành nề nếp và trật tự trong giáo đừơng cũng như các địa điểm lễ hội.

Chức quản giáo cũng đựơc coi ngang như chức tư mệnh còn bà quản giáo thì có thể làm việc để thay chức trửơng cho con học cháu.

Cụ bà quản giáo Minh (Nguyễn Thị Tấc), nay 91t là ngừơi đã từng gắn bó với giáo họ TN và  cai quản nhiều thế hệ thiếu nhi trong suốt mấy chục năm. Hiện cụ vẫn còn sống tại xứ Long Thành Mỹ. Cụ là thân mẫu của ông Lê Văn Minh (VN) và ông Lê Văn Binh (Seatle)

 

Trung Nghĩa hoài cảm  

Trời cao gió mát trong xanh qúa

Uốn khúc đò ngang bến Ngọc Hà (1)

Xa xa hàng liễu rung trong gío

Những cánh đồng xanh mựơt thiết tha

Bờ lao mờ nhạt nằm che khuất

Những dãy thôn làng mờ xa xa

Gò cao quân Tống nằm phơi xác (2)

Đền Thựơng thôn Mai, nhang khói bay (3)

Lương Xuân rẽ lối về bến cũ

Lời hịch năm xưa ngã ba Xà

Oai vang danh tứơng ngừơi họ Lý (4)

"Nam quốc sơn hà, Nam đế cư"

Xuân Đại ân tình nằm soi bóng

Xa cách đò ngang mang thiết tha

Thân tình trung nghĩa, làng Trung Nghĩa

Gá nghĩa bao đời kết đệ huynh

Hoàng Ngọc Lễ

(Trung Nghĩa 1995)

 

(1): Bến đò Ngọc Hà trên sông Cà Lồ, nối liền Trung Nghĩa và Xuân Đại

(2): Gò Xác, nơi chôn vùi hàng ngàn quân Tống

(3) Đền Mai Thựơng, khói hương nghi ngút để giải oan cho quân Tống

(4) anh hùng Lý Thừơng Kiệt  

Các cha đã từng coi xứ Trung Nghĩa:

- Các cha dòng Đa Minh Tây Ban Nha

- Cha P. Tốn

- Cha Chất

- Cha Thomas Nguyễn Trí Tri            1880

- Cha Dom. Nguyễn Văn Huyền        1990

- Cha Hoàng Văn Sự                         1902

- Cha Vinc. Đỗ Bạt Thái                     1906  

B.- Trung Nghĩa hải ngoại:

Do tình thần đoàn kết yêu thương và hỗ trợ nên ngừơi Trung Nghĩa định cư ở ngoại quốc ngày nay đông không thua gì con số hồi năm 1954 khi ngừơi Trung Nghĩa di cư vô nam. Sở dĩ có đựơc số ngừơi đông đảo như vậy sống ở hải ngoại vì ngừơi Trung Nghĩa đã biết yêu thương giúp đỡ, đoàn kết và cưu mang nhau. Có những ngừơi đã giúp phương tiện cho ngừơi khác ra đi, có những ngừơi đóng tàu rồi cho con cháu của những gia đình anh em, bạn hữu ra đi như trừơng hợp ông Lê Văn Khách, Lê Cát Lợi, Nguyễn Hữu Tươi....Có những ngừơi đi trứơc rồi cưu mang, bảo lãnh những ngừơi đi sau như ông Lê Văn Binh, Lê Quyết Thắng, Lê Văn Đăng, Đặng Viết Sắc......

Ngày nay ở hải ngoại có những làng mang nặng sắc thái Trung Nghĩa chẳng hạn như ở Zeil a Main bên tây Đức có một tên "loóng" là "Trại hèm". Nói tới Trại Hèm thì không mấy ngừơi Việt cư ngụ tại Aâu châu lại không hay biết vì ở đây quy tụ rất đông bà con Trung Nghĩa và hết sức hiếu khách, thân tình. Tới Zeil là "không say, không về!" vì vậy mà bà con thân mến đặt tên là trại hèm.

Dứơi đây chúng tôi xin liệt kê những nơi có đông ngừơi Trung Nghĩa sinh sống ở hải ngoại:

Seatle. Washington:

Seatle là một thành phố kỹ nghệ nằm ở vùng tây bắc Hoa kỳ. Nơi đây có rất nhiều chi tộc ngừơi Trung Nghĩa:

- Chi tộc ôngỉ Lê Van Binh: Ôngỉ Lê văn Binh có 7 ngừơi con và đa số đã trửơng thành và lập gia đình và riêng gia đình ôngỉ đã có tới 8 gia đình nhỏ. Ôngỉ Binh là ngừơi ngự cư ở đây và chính vì ôngỉ có lòng yêu mến và cưu mang bà con Trung Nghĩa mà nhờ đó ngày nay có đựơc một "little Trung Nghĩa" ở Seatle.

- Gia đình Lê Sơn (kỹ sư điện) hiện làm cho công ty Boeing.

- Chi tộc cụ Nguyễn Đình Hảo. Cụ Hảo có đông con cái cư ngụ ở đây và những ngừơi con cụ như ông Nguyễn Đình Hoàng, Nguyễn Đình hợi cũng đã có con cái trửơng thành và có gia đình.

- Chi tộc cụ Đặng Viết Tuân. Con cái của cụ cũng đã trửơng thành

- Gia đình ông Đặng Viết Vinh (lập trình tin học), hiện làm cho hãng Boeing.

- Gia đình ông Nguyễn Văn Kiện (kỹ sư), hiện làm cho công ty Boeing.

- Chi tộc ông Lê Quyết Thắng.Ông Thắng giàu tình cảm, nhân nghĩa và thích làm việc xã hội và nhờ ông cùng với ông Lê văn Binh tạo đựơc những sợi dây liên lạc mật thiết chẳng những giữa những ngừơi Trung Nghĩa hải ngoại với nhau mà ngay với những ngừơi đồng hương Bắc Ninh hải ngoại. Một số con cái của ông Thắng cũng đã trửơng thành và có gia đình.

- Chi tộc bà Lê Văn Lập. Con cái của bà cũng đã trửơng thành và cũng đã có gia đình.

- Rồi còn rất nhiều những chi khác như chi cụ Nghị. Chi ông Lý Danh Tửu, chi ông Lê Văn Đại, Bà Lê Thị Thôn, Lê Minh Hiếu....  

Wichita falls. TX:

Xưa kia Texas là một bang nông nghiệp chú trọng nhiều về chăn nuôi do đó thế giới điện ảnh đã có đựơc bao nhiêu bộ phim cao bồi với những tay súng bắn chậm thì chết, cữơi ngựa quăng dây bắt bò dễ như gắp cơm bỏ miệng..... Nay thì những thành phố mọc lên như nấm và các nhà trọc trời thi đua nhau mọc cao vút tầng trời xanh như ở Dallas, Houston.....

 

Bà con Trung Nghĩa ở đây cũng không thua kém gì ở Seatle bao nhiêu:

- Chi  ôngỉ Lê Văn Đối. Ôngỉ Đối cũng có con cái trửơng thành và có gia đình riêng.

- Chi ông Lê Văn Đăng. Giống như ông Bình và ông Thắng ở Seatle, ông Đăng vốn là ngừơi giàu tình nghĩa và có lòng với Trung Nghĩa nên ông đã lôi kéo đựơc nhiều gia đình TN khác về đây sinh sống. Con cái của ông cũng đã trửơng thành và có những gia đình riêng như anh Lê Văn Khanh....

- Chi bà Aâu Văn Y. Bà Y là chị ruột của ông Khách và là em ruột của ông Đối. Gia đình bà định cư ở đây ngay từ năm 1975. Bà có khá nhiều con và đa số đã trửơng thành và lập thành những gia đình riêng. Bà có lòng cứu mang và giúp đỡ ngừơi thân và con cháu nên bà con đã tuôn đổ về đây khá đông.

- Chi bà Nguyễn Văn Học. Bà Học còn có tên Lê Thị Tâm và là em ruột của ông Đối và bà Y. Cũng như bà Y, gia đình bà Học đã định cư tại đây từ năm 1975. Các con của bà cũng đã trửơng thành và có gia đình riêng. Đặc biệt bà có một con hiện là nữ tu tại Hoa Kỳ.

- Còn một số chi họ khác mà chúng tôi chưa liệt kê đựơc và xin hiệu đính nay mai

Zeil a Main:

Nằm ở Trung châu Tây Đức cũ. Như đã nói ở trên "Không say, không về!" là một thành ngữ đã trở nên quen thuộc và yêu thương  để diễn tả lòng hiếu khách của bà con Trung Nghĩa tại đây.

Lần đầu tiên chúng tôi tới thăm Zeil vào năm 1985 và vì không biết tiếng Đức nên chúng tôi không biết làm sao để có thể hỏi đừơng. Còn đang đứng lớ ngớ thì có một chiếc xe trờ tới và ngừơi ngồi trong xe to lớn như ông hộ pháp hỏi chúng tôi vài điều nhưng vì không hiểu nên chỉ đánh lúc lắc cho qua chuyện. Ngứơi lái xe ra hiệu cho chúng tôi chạy theo và sau một vòng ngoằn nghèo hết phố, ông ta dẫn chúng tôi tới một khu gồm nhiều nhà cao từng và chỉ chúng tôi là hãy vào căn nhà này. Vừa vào tới cửa chúng tôi đã ngửi thấy mùi chiên xào quen thuộc và ngay ở cửa ra vào toàn những tên Việt hết sức thân quen. Lầu trên: Nguyễu Hữu Hùng, Đặng Viết Huân. Lầu dứơi: Nguyễn Hữu Tòng, Lê Cát Lợi.....Dân Trung Nghĩa tài tình thật vì đã Việt hoá đựơc cả một khu vực rộng lớn ngay trên đất Đức nổi tiếng là kỳ thị với bọn skin head và con ngoáo ộp Nazi. Ở một xứ có truyền thống kỳ thị mà bà con đã lấy lòng, lấy đựơc thiện cảm của dân địa phương thì thật là một kỳ tích. Nếu không thì sao ông Đức lại biết chúng tôi tìm đến bà con "trại hèm" mà vui vẻ đưa tới tận nhà. Thật đáng hoan hô!

Ở Zeil a Main có những chi họ sau:

- Chi ông chánh trươngỉ Đặng Viết Sắc. Đây là một chi họ lớn và hiện ông Sắc đã có nhiều con trửơng thành và từ đó đã có thêm bao gia đình như gia đình: anh Đặng Hữu Huân, Đặng Viết Đồng, Đặng thị Kim Dung, Đặng Viết Hoá...... Ông Sắc là một vị lão niên rất có lòng và rất quan tâm tới họ Trung Nghĩa và ông cũng là một ngừơi đóng góp nhiều cho giáo họ kể cả tinh thần và vật chất.

- Chi bà Nguyễn Hữu  Phong. Cũng như gia đình ông Sắc, gia đình bà Phong cũng là một chi họ lớn vì con cái của bà đã trửơng thành và đã lập gia đình như ông Nguyễn Hữu Hùng, Nguyễn Hữu Tòng.....Bà Phong còn có một cái tên hết sức thân tình là "U".

- Chi ông Lê Cát Lợi. Ông Lợi cũng đã có con lập gia đình và đặc biệt là trửơng nữ của ông bà hiện là nữ tu của một dòng Đức. Ông Lợi rất hiếu khách và bà con đồng hương mỗi khi tới thăm ông Lợi thì không thể ra về mà chưa say.

- Gia đình anh Đặng Viết Ngọc

- Rồi còn nhiều chi, nhiều gia đình khác như chi gia đình ông Lê Văn Công, Lê văn Sơn, gia đình anh Thông........  

Thụy Sĩ:

- Gia đình ông Lê Ngọc Hoàng

- Gia đình Lê Thị Hạnh Phứơc

- Cha Lê Trung Thành

- Soeur Lê Thị Mỹ Dung (du học)

Pháp:

- Gia đình ông Nguyễn Hữu Khuê (Lương Xuân?)

- Gia đình bà Hoàng Thị Nhị (Bà thân sinh gốc Trung Nghĩa)

- Gia đình ông Nguyễn Thế Kỷ (Bà thân sinh gốc Trung Nghĩa)

- Cha Lê Văn Đoàn (du học)

Uc:

- Cụ Nguyễn Hữu Nhuận

- Chi tộc cụ Nguyễn Hữu Sự (cụ phó Sự)

- Gia đình Ông Lê Văn Mến

- Gia đình ông Nguyễn Hữu Tươi

- Gia đình các con của ông Nguyễn Hữu Điện

- Gia đình Nguyễn Hữu Lập (Lương Xuân?)

- Gia đình anh Lê Văn Dung

- Soeur (con gái ông Lê Văn Bảy, đang du học tại đây)

Canada:

- Gia đình ông Nguyễn Hữu Chung (con cụ trương Chung)

- Vũ Ngọc Chu

- Gia đình ông Nguyễn Hữu Liêm.  

Ở những nơi khác:

- Gia đình ông Lê Văn Ứng Washington state, Mỹ (Mỹ)

- Gia đình ông Nguyễn Hữu Thanh, Austin, Texas, Mỹ

Trên đây chỉ là những gia đình Trung Nghĩa truyền thống mà chúng tôi đã liên lạc đựơc. Ngoài ra còn rất nhiều ngừơi hoặc có cha hoăc mẹ là ngừơi Trung Nghĩa nhưng đã gia nhập họ đạo khác hoặc những gia đình trứơc đây thuộc các họ đạo khác như những vị sau đây:

- Gia đình anh Nguyễn Văn Thông ỏ Zeil thuộc họ Đồng Nhân nhưng mẹ anh cũng là ngừơi Trung Nghĩa rặc...

- Còn rất nhiều vị, nhiều gia đình chúng tôi chưa liên lạc đựơc. Hy vọng rồi đây sau này, chúng tôi sẽ có đựơc danh sách đày đủ để qúy đồng hương Trung Nghĩa dễ dàng liên lạc với nhau.

 

Về với nhau

Lũ chúng ta những thằng bao năm cũ

Hớt tóc móng lừa chân đất chăn trâu

Phất cờ lau giở trò chơi gươm giáo

Chém giết tơi bời giả cảnh thương đau

Lũ chúng ta những thằng quê xưa cũ

Nứơc mát sông Cầu lặn ngụp thương nhau

Trên bờ đê chơi trò chơi khăng, đáo

Dứơi đồng lầy thày giáo dạy  ê a!

Lũ chúng ta những thằng xưa tan rã

Kẻ đứng bên này kẻ ở bên kia

Chém giết nhau trên bàn tay vấy máu

Chiến địa tanh hôi, khói súng dại rồ!

Ngồi lại đây những thằng xưa quê cũ

Khóc ôm nhau tràn nứơc mắt đầy vơi

Chuyện quê xưa ngàn tiếng hát không rời

Aâu yếm qúa mà thương đau cũng qúa!

Hoàng Ngọc Lễ (Hậu Thôn 1995)  

C.- Đôi hàng tổng qúat:

Về Hà Nội mà đem tên làng Trung Nghĩa ra hỏi thì có lẽ chẳng ai biết và dù có về đến làng Đại (nay là xã Xuân Giang) nằm sát liền với Trung Nghĩa để hỏi thăm đừơng vể TN thì cũng rất có ít ngừơi biết đến tên làng vì tên làng Trung Nghĩa đã bị xóa khỏi bản đồ hành chánh từ năm 1949 sau chiến dịch tiêu thổ kháng chiến.

Lãnh thổ Trung Nghĩa không còn thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh như trứơc kia mà nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Từ phi trừơng Nội Bài tới TN rất gần. Phi trừơng nằm giáp ranh với Sóc Sơn và từ thị trấn tới TN chỉ chừng 7 cây số mà thôi. Trung Nghĩa nằm ở vĩ độ 21°14 Bắc và kinh độ 105°54 Đông.

Từ trung tâm Hà Nội tới TN khoảng 25 cây số. Lấy hứơng đi Thái Nguyên rồi tới Sóc Sơn, qua Núi Đôi chừng 3 cây số thì quẹo phải vào Xuân Giang và từ Xuân Giang tới Trung Nghĩa chỉ khỏang 1500m. Ngày xưa từ Xuân Giang (làng Đại) qua Trung Nghĩa phải đi đò nhưng nay có cầu Ngọc Hà nồi liền giữa hai làng với nhau.  

Về lại làng quê

Hãy về đây tìm dấu chân tiên tổ

Về lại đây nghe vọng tiếng ru hời

Quê hương ta cảnh đồng hoang nắng cháy

Phố vắng không nhà, đổ nát, tang hoang

Bến bờ xưa tiền nhân ngồi đan dó

Bên thềm này tiếng hát vọng canh thâu

Con đò xưa nay tìm đâu  bến đỗ

Cầu Ngọc Hà vọng khúc hát ngân sâu!

 Tìm đâu, tìm đâu mảnh đời không in dấu

Nứơc trắng sông Cầu, trắng cả màu tang

Về lại đây những mảnh đời sai  bứơc

Tìm dấu chân xưa, tìm tiếng ru hời !

Hoàng Ngọc Lễ

(Trung Nghĩa 1995)  

 

Toàn cảnh Trung Nghĩa đã bị tàn phá từ năm 1949 và ngoài nền nhà thờ ra ngừơi ta không còn nhận ra bất cứ dấu vết nào. Khi chúng tôi tới thăm Trung Nghĩa thì có một toán chừng 5,6 ngừơi đang đào xới nền nhà thờ để lấy gạch. Những viên gạch đỏ chói và rất nặng  giống như đá. Những ngừơi đào gạch kể với chúng tôi rằng nền nhà thờ rất kiên cố và họ đã đào xới nhiều lớp rồi mà vẫn chưa tới lớp cuối và chân móng thành từơng dày tới gần 3 m.

Ông chủ tịch Xuân Giang có tháp tùng chúng tôi tới thăm TN và có cho chúng tôi biết là ông đang có kế hoạch khuyến khích dân cư các nơi khác về đây sinh sống lập nghiệp.

Trung Nghĩa nằm ở một gò cao nên từ đây có thể nhìn khắp các vùng trải dài cho tới Hậu Thôn và xa xa là ngã ba Xà. Nơi xưa tứơng quân Lý Thường Kiệt đã đọc lời hịch và anh dũng đánh tan quân Tống:

Nam quốc Sơn hà, Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Đây là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc trong suốt 4000 năm dựng nứơc, bài thơ hịch này xuất hiện vào năm 1077 trong cuộc chiến tranh oanh liệt trên phòng tuyến sông Như Nguyệt (Khúc sông cầu, thuộc huyện Yên Phong) giữa quân Đại Việt và hơn 10 vạn quân Tống tàn bạo và tham tàn.

Có đến ngã ba Xà mới thấy đựơc cảnh núi non hùng vĩ, thơ mộng với ruộng đồng xanh tươi trải dài từ Trung Nghĩa tới tận vùng Núi Đôi và tới những vùng xóm bến Lương Xuân, Mai Thựơng...

Tại Mai Thựơng chúng tôi còn thấy đựơc ngôi đền nhỏ tên đề An Lạc Tự. Nghe nói ngôi đền này đựơc xây dựng từ lâu đời để giải oan cho những oan hồn quân Tống. Đền này còn có tên là gò Xác và một vị cao niên nói với chúng tôi:

- Dân Mai Thựơng rất giàu nhân nghĩa nên đã xây chùa này để cầu siêu thoát cho hàng ngàn oan hồn quân Tống do tứơng Triệu Tiết chỉ huy đã bỏ xác ở nơi đây, nơi chính gò cao này do đó chùa còn có tên là "chùa Xác".  

Làng Hậu Thôn:

Làng Hậu Thôn nay không còn là vùng quê hẻo lánh như khi dân làng bỏ ra đi vào năm 1954. Nay phố xá đã mọc kín từ cổng làng xưa cho tới chợ Yên Phụ. Chợ Núi đã bị san bằng và cái chợ cũ đã đựơc di dời xa hơn. Mặc dầu có thay đổi khá nhiều và nhà cửa đã mọc kín đất nhưng cảnh sống ở đây vẫn còn nghèo lắm so với những vùng khác. Chợ Núi nay đổi thành chợ Yên Phụ và phố xá chạy khá dài giáp ranh tới Đông Xuyên nhưng hàng hoá thì không lấy gì làm phong phú cho lắm và đa phần là những hàng quán về nông phẩm và lèo tèo một vài quán ăn không lấy gì là bề thế.  

Đồng Nhân:

Từ Hậu Thôn, chúng tôi đi ngựơc về phia cầu Đò Lo để vào Đồng Nhân. Ngay ngã ba vô Đồng Nhân, chúng tôi thấy có một cái chợ nhỏ với chừng mươi sạp hàng buôn bán mà phần đông là những sản phẩm nông nghiệp trong vùng như mía, bắp, rau.... Chúng tôi thấy lác đác có một vài sạp bán cá khô, cá tép nhỏ và ngừơi bán hàng không dùng cân mà chỉ nhúm từ nhúm nhỏ hoặc đếm từng con....

Cảnh trí Đồng Nhân không gì thay đổi so với khi xưa. Năm 1954 đa số bà con Đồng Nhân đã di cư vô Nam và sau đó một số ngừơi còn kẹt lại như đi lính, lấy chồng xa hoặc ngăn trở cách này cách khác mà đã không cùng di cư với dân làng đựơc và sau đó họ đã trở về cư ngụ tại đây. Trong suốt mấy chục năm bị phân biệt đối xử nên đa số trẻ em không đựơc đi học lên cao, ngừơi lớn không xin đựơc việc làm...nên những ngừơi còn kẹt lại Đồng Nhân phải sống trong cảnh nghèo khốn . May mắn sau này đã có nhiều gia đình vô đựơc miền Nam và lập nghiệp ở xứ Long Thạnh Mỹ và đựơc bà con địa phương gọi là khu Xóm Mới.

Tuy trong suốt mấy chục năm bị phân biệt đối xử nhưng bà con Đồng Nhân vẫn giữ đựơc đức tin và niềm tin vào Thiên Chúa.  

Em bé quê tôi

Tôi gặp em trên đê Yên Phụ

Mặt ủng da chì vẻ tả tơi

Chân em đi mệt mỏi rã rời

Mắt em liếc, liếc nhìn khờ khạo

Trên bờ đê tôi nghe em kể

Về bao ngừơi trong lớp quê tôi

Đã lên đừơng Nam tiến xa xôi

Những nấm mồ in bóng nơi nơi!

Cha em di không tin trở lại

Mẹ em gầy nứơc mắt khôn nguôi

Trên bờ đê em thôi không kể

Lệ trào dâng tiếng nấc nghẹn lời!

Hoàng Ngọc Lễ

(Yên Phụ 1995)

 

Sau hai tuần lễ thăm viếng miền Bắc đặc biệt là vùng quê Trung Nghĩa, Núi Đôi, Xuân Dục, Hậu Thôn. Chúng tôi không khỏi bùi ngùi đến lúc phải chia ly. Mồ mả tổ tiên vẫn nằm đấy mặc dù sau bao năm bom cày đạn phá và không ngừơi chăm sóc. Những hàng dương liễu lúc nào cũng rũ buồn và cất tiếng âu ca như muốn kêu gọi con cháu khắp nơi về thăm viếng, về lại với ông bà.

Từ trong quán vắng bên đừơng vang vọng bên tai giọng ca Bảo Yến:

Quê hương mỗi ngừơi chỉ một

Như là chỉ một Mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ.....  

D.-  Trung Nghĩa miền Nam

 

Làng tôi

Quê tôi Công giáo đã bao đời

Kính Chúa yêu ngừơi thương mến nhau

Từ xưa các cụ đến con cháu

Đoàn kết bao đời yêu mến nhau.

Thế rồi cuộc chiến đâu đưa tới

Nhà cửa tan tành “tiêu thổ” thôi!

Nhà thờ giựt sập, dân di tản

Chạy ngựơc chạy suôi khắp nơi nơi!

Hiệp định ban hành từ nơi xa

Dân làng di tản lệnh ban ra

Mọi ngừơi nhốn nháo rời quê cũ

Xuống tàu suôi Nam tay trắng tay!

Làng tôi lập nghiệp nơi hoang vắng

Gò mối đồng tranh ngập ngút đầu

Dân làng nhộn nhịp vui lao tác

Chung sức dựng xây, yêu mến nhau.

(Làng tôi - thơ Hoàng Ngọc Lễ)

 

Khi  di cư vào Nam thì khởi đầu xứ  Trung Nghĩa (gồm Trung Nghĩa, Đồng Nhân, Lương Xuân, Đông Xuyên và một vài gia đình Mai Thựơng) tạm cư tại một khu đất trống gần trừơng đua Phú Thọ, cư xá Lữ Gia ngày nay. Vào thời 1954 thì từ khu chợ Nguyễn Tri Phương tới sân bay Tân Sơn Nhất còn là rừng tre và cao su nên khu này còn hoang vắng. Khi vừa đặt chân đến khu Phú Thọ thì giáo dân Trung Nghĩa với sự tiếp tay của quân đội Pháp đã dựng một khán đài với mái che bằng bạt nhà binh để dâng lễ cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã cứu giúp cho bà con ra đi bằng an. Thánh lễ do một cha tây và cha gìa Cảnh đồng tế.

Sau vì thấy ở Phú Thọ không có sông ngòi ruộng nương nên các cụ cùng với  các cha Bắc Ninh quyết định di chuyển tiếp tới vùng Thủ Đức. Lúc đầu thì cha chính Bảo đề nghị chia đất cho bà con bên Phứơc Lý nhưng cụ tổng Vệ và các cụ thấy cảnh qua sông phải lụy đò nên không chịu. Sau đó định qua Long Phứơc nhưng phải qua sông qua đò lại thôi. Bên Long Phứơc thì ruộng nương màu mỡ, cá tôm rất sẵn ngặt nỗi việc đi  lại qúa khó khăn. Giữa lúc ấy thì cha Đỗ Bạt Thái tìm lại giáo xứ và cùng với cha gìa Cảnh và cha Nguyễn Bá Thi đề nghị với các cụ và dân làng khu đất hoang ở Gò Công, Long Thạnh Mỹ gần nhà dòng Phứơc Sơn. Khu đất này thuộc quyền sở hữu của bà Tám Dung, cô ruột của Nam Phương Hoàng Hậu tặng. Từ đấy bà con Trung Nghĩa lập nghiệp tại đây cho tới ngày nay.

Như vậy là từ vùng chợ Thủ Đức kéo dài sang tới Phứơc Lý (Nhơn Trạch, Biên Hòa) có nhiều giáo xứ gốc Bắc Ninh tới cư ngụ như:

-   Chủng viện Bắc Ninh

- Xứ Từ Đức (gồm giáo dân các xứ Từ Sơn, Đạo Ngạn, Phựơng Mao, Xuân Hòa....)

- Xứ Công Thành (Giáo dân gốc Tử Nê, do cụ Đinh Quang Lựơng thành lập)

- Xứ Chân Phú Cẩm (gồm giáo dân Xuân Lai, do cha Phạm Quang Tự thành lập)

- Xứ Thị Cầu (Giáo dân Thanh Sơn, Thị Cầu, do cha Nguyễn Thựơng Hiền thành lập)

- Xứ Bắc Thần (Giáo dân Bâm, Thanh Rã, do cha Nguyễn Văn Lãng thành lập. Sau này ngài thụ phong Giám mục)

- Xứ Bắc Minh (Một số giáo dân Nội Bài, Phựơng Mao, Xuân Hòa, do cha chính Bảo thành lập)

- Xứ Đại Điền (Giáo dân Đại Điền, Vĩnh Phú Yên, cha Huấn thành lập)

- Xứ Nghĩa Hiệp (Giáo dân xứ Trung Lai, Mỏ Thổ do cha gìa Đoan thành lập)

- Xứ Nghĩa Mỹ (Giáo dân Trung Mỹ, Nghĩa Vi, do cha Lập thành lập)

- Xứ Thiết Nham (Giáo dân xứ Thiết Nham, do cha Hiếu thành lập).

- Xứ Vĩnh Phúc (do cha chính Mẫn thành lập)  

 Tai nạn cháy trại Long Thạnh Mỹ:

Chỉ mấy tháng sau khi tạm cư tại vùng gò Long Thạnh Mỹ và khi đó chưa đựơc chia lô rõ rệt thì một tai nạn cháy nhà thảm khốc xảy ra và vì là đồi tranh và không có phương tiện chữa cháy nên đám cháy đã lan rộng khắp trại và gây thiệt hại đáng kể. Sau đó xứ đựơc chia ra làm 3 khu riêng biệt: Khu Đông Xuyên – Đồng Nhân – Trung Nghĩa. Mỗi gia đình đựơc chia một lô 30 mét chiều sâu và 20 mét chiều dài.  

Xây dựng thánh đừơng:

Ngay sau khi vừa chia lô thì giáo xứ đã đựơc Đức cha Harnett, chủ tịch ủy ban cứu trợ công giáo Hoa Kỳ tại Việt Nam hỗ trợ để xây dựng ngôi thánh đừơng tương đối kiên cố và bề thế so với thời ấy. Đức cha đã can thiệp và xin đựơc một khung sắt của một nhà kho của quân đội Pháp và đem về lắp ráp làm nhà thờ. Gạch thì do lò gạch của các cha Bắc Ninh ở Phứơc Lý cung cấp. Sau 7 tháng trời xây cất, thánh đừơng đã đựơc đức cha Phạm Ngọc Chi tới làm lễ khánh thành cùng với một số linh mục Việt – Pháp.

Ngày nay dưới sự coi sóc của cha xứ Nguyễn Đạ Tam (dòng Thánh Thể), một ngôi thánh đường khang trang mang đặc nét Á đông đã được xây cất và khánh thành vào năm 2000 dưới sự làm phép của dức tổng giám mục Phạm Minh Mẫn.  

Các chi tộc Trung Nghĩa:

Trung Nghĩa miền Nam Có 5 chi tộc chính:

- Chi tộc họ Lê là chi tộc đông đảo nhất gồm các chi cụ  Cụ Ý – Cụ Minh (Đức) – Cụ Lý Đừng – Cụ Chánh Khiêm – Cụ trùm Cử – Cụ Đức (Mến)...

- Chi tộc họ Nguyễn Hữu gồm chi các cụ Qũy...

- Chi tộc Đặng Viết gồm các chi cụ Chỉnh – Cụ Tiên chỉ....

- Chi tộc Lý Danh. Chi tộc này đã có nhiều gia đình đi lập nghiệp tại khu dinh điền Kinh E Cái Sắn.

- Chi tộc Ngô Vi gồm chi cụ Quyền, cụ quản giáo Soi…

 

Các Linh mục đã từng coi xứ Long Thạnh My (TN cũ) :

- Cha Đỗ Bạt Thái

- Cha gìa Cảnh (phó cha Thái)

- Cha Vũ Văn Mạch

- Cha Nguyễn Phúc Vị

- Cha Long

- Cha Hòa

- Cha Nguyễn Đạt Tam

Linh mục và tu sĩ gốc Trung Nghĩa:

- Cha Lê Văn Đoàn

- Cha Lê Trung Thành

- Cha Trần Văn Hảo

- Soeur Lê Thị Mỹ Dung

- Soeur Vũ Thị Hằng

- Soeur (Con ông bà Lê Văn Bảy)

- Soeur ( Con ông bà Lê Cát Lợi)

- ..............................................

Quê tôi

Làng cũ quê tôi bên sông Cầu

Những hàng liễu rũ thổi vi veo

Bến đò xưa cũ nằm soi bóng

Dòng nứơc trong xanh mây trắng treo

Làng cũ quê tôi đã bao lần

Trắng đời di tản khóc thương nhau

Ruộng đồng những lúc vừa đâm trổ

Đã phải chia lìa tay trắng trao

Làng cũ quê tôi đã đâu rồi

Ngừơi yêu thuở ấy khóc chia phôi

Cha gìa, mẹ yếu đàn em bé

Ở lại để rồi khóc đôi nơi!

Những cảnh đau lòng lúc biệt ly

Để rồi đất nứơc khóc  phân kỳ

Ngừơi Nam kẻ Bắc thương đau qúa!

Mấy chục năm trời khóc chia ly.

Nay có dịp trở về thăm làng cũ

Những hàng liễu rũ đứng chơ vơ!

Ngừơi yêu thuở ấy đầu bạc trắng

Lưng còng sát đất, mắt thờ ơ!

 

(Quê tôi - Hoàng Ngọc Lễ)

 

 


 

 

 

Núi đôi

Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Ðoài Ðông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Ðôi ngọn nên làng gọi núi Ðôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Ðâu ngờ từ đó bặt tin nhau.

Anh vào bộ đội, lên Ðông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Ðôi chăng?

Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Ðồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Ðôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Ðôi.

Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa
Em sống trung thành, hết thủy chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ có con đường quen.
Nắng lụi bổng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong;
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, dường nghẽn lối
Xuân Dục, Ðoài Ðông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây
ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Ðã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm

Vũ Cao