Chế Ðộ Phát Xít
Tác giả: Tiến Sĩ Jeliu Jeliev
Dịch giả: Phạm Văn Viêm
(tiếp theo)
Thiết lập cơ chế một đảng quyền
bằng cách dùng bạo lực hủy diệt mọi đảng phái chính trị khác là bước đầu tiên
của bọn quốc xã, nhằm xây dựng nhà nước độc tài. Quy luật này cũng đã được thực
hiện ở Italia từ năm 1925-1926, và ở Tây Ban Nha năm 1939, nó đuọc xem là dấu
hiệu thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa phát xít.
Trong các tài liệu nghiên cứu,
thường bỏ qua nguyên tắc cơ bản này của mọi nhà nước phát xít và do đó đã làm
giảm mất một nửa sự thật của vấn đề. Người ta chấp nhận rằng sau khi nắm được
chính quyền, chủ nghĩa phát xít hủy diệt tất cả mọi đảng phái và tổ chức chính
trị, vô sản cũng như tư sản, và thiết lập sự thống soái toàn diện của đảng
mình. Ðiều này có thể minh chứng không chỉ bằng những thực tiễn lịch sử, mà còn
bằng những tài liệu và những tác phẩm công khai cuả các lãnh tụ phát xít.
Nhận thức sai lầm này xuất phát từ
quan niệm là chế độ phát xít, một khi được xem là chuyên chính của giai cấp tư
sản đế quốc, không thể hủy diệt những đảng phái tư sản, hoặc giả sử tính logic
này không được đảm bảo và chủ nghĩa phát xít tiêu diệt các đảng phái tư sản ở
một mặt nào đó thì đây chỉ là ngẫu nhiên và có thể bỏ qua. Nhưng sự ngẫu nhiên
này xuất hiện ở tất cả các nước phát xít điển hình (Ðức, Italia, Tây Ban Nha),
và như một xu thế hiện thực, nó tồn tại ở cả những nước cận phát xít hay những
nước phát xít phục hồi. Hơn thế nữa, chỉ có những nước thiết lập được cơ chế
một đảng quyền mới có thể xây dựng thành công nhà nước phát xít toàn thiện!
Thậm chí để thiết lập cơ chế một đảng
quyền của chế độ phát xít, không phải ở đâu cũng bắt đầu bằng việc hủy diệt
những đảng phái cộng sản và vô sản. Thí dụ ở Italia, chủ nghĩa phát xít đầu
tiên tấn công Ðảng Nhân Dân- đảng của giai cấp tiểu tư sản và tư sản trung
bình. P. Toliate giải thích điều này như sau: "Trước hết đảng phát xít tấn
công những đảng phái có cùng cơ sở quần chúng với nó. Ðảng Nhân Dân vì thế mà
bị tấn công trước Ðảng Cộng Sản Italia... Ðảng Nhân Dân có cùng cơ sở quần
chúng với Ðảng Phát Xít Italia - nó bao gồm những tầng lớp tiểu tư sản, tư sản
trung bình và tầng lớp điền chủ, nghĩa là những tầng lớp mà Ðảng Phát Xít cũng
muốn thống nhất trong đội ngũ của mình để trở thành một đảng quần chúng".
Ở Ðức, sự việc diễn ra theo một
tiến trình khác. Thiết lập cơ chế một đảng quyền ở đây bắt đầu bằng việc hủy
diệt Ðảng Cộng Sản Ðức vì những nguyên nhân tương tự . Ðây là đảng mạnh nhất,
có thể dễ dàng tổ chức những cuộc đấu tranh. Nhưng sau khi đã tiêu diệt được kẻ
thù nguy hiểm nhất, chủ nghĩa phát xít không ngần ngại tiêu diệt mọi đảng phái
còn lại, không từ một đảng nào.
Sau khi hủy diệt mọi đảng phái
chính trị và các tổ chức quần chúng- quá trình này kéo dài đến mùa hè năm 1933
- ngày 14.7.1933, chính phủ quốc xã ban hành sắc luật công nhận sự thống soái
tuyệt đối của ASDAP (Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức - ND). Ðiều luật này cấm phục
hồi những đảng phái chính trị đã bị tan rã và cấm thành lập những đảng phái
mới. "Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức là đảng phái chính trị duy nhất ở Ðức. Kẻ
nào còn bảo vệ cho cơ cấu những đảng phái chính trị khác hoặc có ý định thành
lập những đảng phái chính trị mới, sẽ bị phạt lao động khổ sai tới 3 năm, hoặc
bị phạt tù trong ngục tối từ 6 tháng đến 3 năm. Trường hợp cố tình vi phạm
luật, sẽ bị trừng phạt nặng nề hơn".
Ở đây chỉ được phép tồn tại những
tổ chức quần chúng do Ðảng Quốc Xã tạo ra, chấp nhận cương lĩnh, điều lệ, và
hoạt động dưới sự kiểm soát, lãnh đạo của nó. Trong tài liệu hướng dẫn lãnh đạo
đảng, vấn đề này được nêu rõ như sau: "Ở Ðức chỉ tồn tại các tổ chức tin
tưởng vào những nguyên tắc tập trung và sự hiểu biết quốc xã về nhà nước và
nhân dân trong ý nghĩa quốc xã nhất của từ này, những tổ chức tự xem mình là
một bộ phận của đảng, được đảng thành lập và chịu sự kiểm soát của đảng cả ở
hiện tại và tương lai... Tất cả những cơ sở muốn được tự lập là những tổ chức
lạc loài, hoặc phải đi theo đảng, hoặc phải biến khỏi đời sống xã hội".
Rõ ràng không còn có thể nghi ngờ
vào quyết tâm thiết lập cơ chế một đảng quyền của NSDAP.
Giới lãnh đạo quốc xã chóp bu nhận
thức được giá trị vô cùng quan trọng của cơ chế một đảng quyền trong cấu trúc
chế độ này. Vì vậy, mọi ý đồ chống lại nguyên tắc này, nhằm phục hồi nền dân
chủ tư sản với cơ chế đa đảng bị xem là phá hoại nền an ninh quốc gia và bị
trừng phạt dã man, tàn bạo như những biểu hiện chống đối nhà nước, chống đối
nhân dân, bởi vì chuyên chính khủng bố không thể tồn tại lâu dài, nếu không dựa
trên cơ chế một đảng quyền.
Ngày 19.4.1943, tại phiên tòa xử
nhóm sinh viên chống phát xít Bông Hồng Trắng, một trong những lời buộc tội
nặng nề nhất với Curt Huber - Giáo sư khoa triết học trường đại học Miuhen, là
ông đã chứng minh cho các sinh viên thấy sự cần thiết phải phục hồi nền dân chủ
và cơ chế đa đảng ở Ðức. Vì tội lỗi này, giáo sư Curt Huber đã bị tuyên án tử
hình.
Tầm quan trọng của nguyên tắc một đảng
quyền trong cấu trúc chế độ phát xít, cũng được những người âm mưu đảo chính
ngày 20.7.1944 đánh giá rất cao. Dù nhận thức của các tướng lĩnh còn rất xa
những nguyên tắc của nền dân chủ, họ cũng đã đi đến kết luận là phải hủy diệt
sự thống soái của đảng quốc xã. Kế hoạch của họ bao gồm: tước vũ khí các đội
SS- cảnh sát riêng của Ðảng Quốc Xã và bắt giữ ban lãnh đạo của nó.
Tham vọng thiết lập cơ chế một đảng
quyền của bọn quốc xã- bước đầu tiên quan trọng nhất khi xây dựng nhà nước độc
tài- còn có thể nhìn rõ hơn trong những dẫn chứng lịch sử .
Trước hết bọn quốc xã tấn công
Ðảng Cộng Sản. Vụ cháy tòa nhà quốc hội Raihxtaga đêm 27 rạng ngày 28.2.1933 được
sử dụng như tín hiệu cho tội ác toàn diện chống lại những cán bộ lãnh đạo và tổ
chức cộng sản. Chỉ riêng đêm ấy, có tới 10 nghìn người bị bắt, trong đó đa phần
là những người cộng sản.
Ngày hôm sau chính phủ quốc xã cấm
tất cả những cơ sở ấn loát cộng sản. Tại Berlin, các đội mật vụ chiếm tòa nhà
Carl Libeneht và biến nó thành trụ sở của cảnh sát chính trị . Cùng ngày, chính
phủ quốc xã ban hành hai sắc lệnh, về hình thức để chống "âm mưu cộng
sản" nhưng thực chất là chuẩn bị cơ sở nhằm hủy diệt mọi đảng phái chính
trị ở Ðức: sắc lệnh "Chống Ðảo Chính Nhà Nước và Những Hành Ðộng Phản
Bội", và sắc lệnh "Bảo Vệ Nhân Dân". Trong sắc lệnh thứ hai có đoạn
viết: "Các điều 114,115,117,118,123, và 125 của Hiến pháp nước Ðức cần được
sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy việc hạn chế những quyền tự do cá
nhân, tự do ngôn luận, tự do in ấn, tự do thành lập hiệp hội, tự do hội họp,
phá vỡ bí mật thư từ, điện tín, điện thoại, và việc hạn chế những quyền sở hữu
sẽ được thực hiện không cần phụ thuộc vào khuôn khổ pháp luật đã ban
hành".
Những sắc lệnh này trên ngôn từ là
cấm Ðảng Cộng Sản, nhưng thực tế đã đặt nó ra ngoài vòng pháp luật.
Ngày 3.3.1933, Ernxt Telman bị bắt
tại cơ sở bí mật của ông ta ở Sarlotenburg. Hai thành viên trung ương đảng-
Valter Stecer và Ernxt Snele cũng bị bắt.
Bị mất ban lãnh đạo, bị cấm in ấn,
bị theo dõi, bị khủng bố gắt gao, Ðảng Cộng Sản không còn giữ được vai trò như
một lực lượng chính trị thực sự .
Ðảng thứ hai mà chủ nghĩa phát xít
tiêu diệt là Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức. Lịch sử hủy diệt đảng này là minh chứng
hùng hồn cho luận điểm của chúng ta về tham vọng thiết lập cơ chế một đảng
quyền cuả bọn quốc xã bằng bất kỳ giá nào.
Tiêu diệt Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức cũng
bắt đầu bằng việc cấm cơ quan ngôn luận của đảng này hoạt động. Hàng nghìn công
nhân dân chủ xã hội bị bắt. Sau cuộc bỏ phiếu tại Raihxtaga ngày 5.3.1933, chín
nghị sỹ xã hội dân chủ cũng bị bắt. Cánh hữu trong ban lãnh đạo của Ðảng Xã Hội
Dân Chủ (Velx, Stampfer) vẫn nuôi ảo tưởng vào chế độ mới, rằng sau khi Hitler đàn
áp xong Ðảng Cộng Sản và cánh tả của Ðảng Xã Hội Dân Chủ, thì sẽ dừng khủng bố,
chính quyền quốc xã sẽ điều hành chính quyền theo luật pháp, và Ðảng Xã Hội Dân
Chủ sẽ giữ được vị trí của mình như "xu hướng chính trị công khai".
Báo Forbertx- cơ quan ngôn luận của Ðảng Xã Hội Dân Chủ trong số ra ngày
26.3.1933 có đoạn viết: "... Thắng lợi của các đảng phái chính phủ (ở đây
muốn nói đến bọn quốc xã và dân tộc Ðức - JJ) tạo cho họ khả năng điều hành đất
nước chặt chẽ theo hiến pháp, họ chỉ còn hoạt động như một nhà nước pháp quyền.
Từ đó suy ra rằng, chúng ta sẽ tồn tại như xu hướng công khai... Chúng ta chỉ
cần hạn chế vai trò công kích".
Thậm chí cơ quan ngôn luận của
Ðảng Xã Hội Dân Chủ còn muốn được công nhận công lao của đảng mình trong việc đưa
Hitler lên nắm chính quyền. Báo Fornertx, số ra ngày 3.3.1933 đã viết cho
Hitler như sau: "Thưa Ngài, Ngài gọi chúng tôi là những kẻ phạm tội tháng
11 nhưng về phía Ngài, có thể nói là Ngài thuộc về các tầng lớp công nhân không
(?!), nếu không có chúng tôi, liệu Ngài có thể trở thành Quốc Trưởng được
không? Ðảng Xã Hội Dân Chủ đã mang lại cho những người công nhân quyền bình đẳng
và kính trọng. Chỉ với sự giúp đỡ của chúng tôi, thưa Ngài Adolf Hitler, Ngài
mới có thể trở thành Quốc Trưởng".
Ban lãnh đạo quốc xã đã sử dụng cả
ảo tưởng này của những người đứng đầu Ðảng Xã Hội Dân Chủ cánh hữu để ru ngủ dư
luận quốc tế về những hành động khủng bố công chúng. Ðích thân Hitler yên cầu
những người này dùng quan hệ quốc tế của họ, để giúp ông ta gạt bỏ nhận thức
"sai lầm" xung quang việc đàn áp, khủng bố ở Ðức. Các thủ lãnh xã hội
dân chủ chấp nhận yêu cầu này, cử đại diện ra nước ngoài, tác động với diễn đàn
dân chủ thế giới nhằm dập tắt những công kích nhằm chống lại chính phủ quốc xã.
Trên tờ báo Chính Trị ngay lập tức xuất hiện bài phê bình của nhà xã hội dân
chủ Herx, trong đó có đoạn viết: "Những tin tức lừa bịp về khủng bố quốc
xã, đăng trên các báo nước ngoài, chỉ gây ảnh hưởng xấu đến nền dân chủ nước
Ðức. Tôi sẵn sàng tuyên bố, rằng chúng tôi, những người xã hội dân chủ Ðức,
phản đối những thông tin lừa bịp về tội ác của những người quốc xã là hoàn toàn
sai sự thật".
Ban lãnh đạo Ðảng Xã Hội Dân Chủ
Ðức còn đi xa hơn nữa. Khi Ðệ Nhị Quốc Tế họp xét xử những vụ khủng bố quốc xã,
đại diện Ðức Oto Velx đã bỏ ra ngoài và Ban lãnh đạo Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức
chính thức từ bỏ Ðệ Nhị Quốc Tế.
Ðể tỏ rõ nguyện vọng từ bỏ chế độ
mới và để giữ cho đảng mình khỏi bị tan rã, Ban lãnh đạo Ðảng Xã Hội Dân Chủ
khai trừ hàng loạt đảng viên và loại bỏ những tổ chức phụ thuộc tuyên bố chống
khủng bố và yêu cầu đảng này mở cuộc đấu tranh. Tất cả những tổ chức thanh niên
xã hội dân chủ Berlin đã bị giải tán. Tháng 4.1933, Ðảng Xã Hội Dân Chủ tiến
hành đại hội, bầu lại Ban lãnh đạo và đồng thời khai trừ tất cả những thủ lĩnh đảng
đã tố cáo những cuộc khủng bố quốc xã và đang sống tị nạn ở nước ngoài. Và tất
cả những điều này xảy ra cùng một thời điểm, khi hàng nghìn thành viên xã hội
dân chủ bị ném vào nhà tù và trại tập trung.
Nhưng điều đó cũng không cứu được
Ðảng Xã Hội Dân Chủ khỏi bị tiêu diệt. Ngày 10.5.1933, chính phủ quốc xã ban
hành sắc lệnh tịch thu toàn bộ tài sản của Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức và những tổ
chức phụ thuộc. Ngày 22.6.1933, Ðảng Xã Hội Dân Chủ bị buộc tội là "kẻ thù
của nhân dân và nhà nước ", và bị giải tán theo sắc luật ban ngày
28.2.1933; cấm đảng này không được tuyên truyền, tổ chức hội họp, phát hành báo
chí. Sau đó Bộ trưởng Nội Vụ Fric, với sắc lệnh đặc biệt, buộc tội toàn bộ các
nghị sĩ dân chủ xã hội là không trung thực, và Ðảng Xã Hội Dân Chủ bị loại ra
khỏi vũ đài chính trị .
Và giống như là điều vẫn thường
xảy ra với một đảng chính trị bị tan rã trong điều kiện bị khủng bố gắt gao,
một bộ phận các thủ lĩnh và đảng viên xã hội dân chủ đi theo chính quyền, cố
gắng phục vụ cho nó hòng chiếm lòng tin và sửa chữa "sai lầm" quá
khứ; số khác vẫn bảo vệ quan điểm chính trị của mình, bị chết mỏi mòn trong các
trại tập trung cải huấn và nhà tù hoặc phải sống tị nạn ở nước ngoài.
Nhưng điều quan trọng trong trường
hợp này là, mặc dù đã tỏ rõ sự đầu hàng, sẵn sàng phục vụ chế độ mới, sẵn sàng
tuân theo và phục vụ mọi yêu cầu của nó, Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức vẫn không
tránh khỏi bị hủy diệt. Ðiều đó chứng tỏ, ngay từ đầu bọn phát xít đã có tham
vọng giành quyền thống soái chính trị tuyệt đối cho đảng mình, rằng mục đích
của chúng là cơ chế một đảng trị, chứ không phải là liên minh chính trị .
Sự thống nhất toàn diện của đảng
và nhà nước là bước đầu quan trọng thứ hai trong quá trình xây dựng chế độ độc
tài của chủ nghĩa phát xít. Nó liên quan chặt chẽ đến bước thứ nhất- thiết lập
cơ chế một đảng trị - đến mức có thể xem như sự tiếp diễn của bước này. Không
thể khẳng định triệt để sự thống soái chính trị của một đảng phát xít, nếu sau đó
đảng này không tự đồng nhất với nhà nước, không biến nhà nước thành sở hữu của
riêng mình hay ít ra là thành công cụ thống soái. Lúc đó đảng này có thể chia
quyền lợi cho các đảng viên của mình dưới các hình thức công sở nhà nước, trọng
trách nhà nước, và khiến họ quan tâm một cách vật chất đến sự thống nhất giữa đảng
và nhà nước. Ðây là con đường chắc chắn nhất để sát nhập đảng và nhà nước.
Bọn quốc xã đã nhận thức được giá
trị quyết định của nguyên tắc này ngay từ năm đầu tiên nắm chính quyền. Sau khi
tiến hành rất nhiều phương cách theo hướng đó, ngày 1.12.1933, nguyên tắc này được
củng cố bằng điều luật đặc biệt Sự Cần Thiết Phải Thống Nhất Ðảng Và Nhà Nước,
trong đó tuyên bố: "Sau thắng lợi của cuộc cách mạng quốc xã, Ðảng Công
Nhân Quốc Xã trở thành người giữ trọng trách nhà nước Ðức và liên quan mật
thiết với nhà nước."
1- Sát nhập giữa bộ máy lãnh đạo
nhà nước và bộ máy lãnh đạo đảng
Thực chất, việc thống nhất giữa đảng
và nhà nước đã được thực hiện ngấm ngầm từ phía dưới bằng cách cho các đảng
viên nắm giữ những vị trí và trọng trách nhà nước.
Kết quả là đảng biến thành nhà
nước và ngược lạị Các thủ lĩnh phát xít trở thành những cán bộ nhà nước cao
cấp. Hitler vừa là Thống Lĩnh- theo trọng trách đảng, vừa là Quốc Trưởng- theo
trọng trách nhà nước; Goring vừa là Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Bộ trưởng - Toàn
quyền Pruxia - theo trọng trách nhà nước, vừa là Thủ lĩnh SA và SS theo trọng
trách đảng; Gobelx vừa là thủ lĩnh trong vùng Berlin, phụ trách tuyên truyền-
theo trọng trách đảng, vừa là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, thành viên Hội Ðồng
Quốc Phòng Tối Cao- theo trọng trách nhà nước; Himler trong đảng là Uy Viên Ban
Lãnh Ðạo Tối Cao về Bảo Tồn Ðặc Tính Dân Tộc Ðức, thủ lĩnh SS, trong nhà nước
là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, thành viên Hội Ðồng Quốc Phòng tối Cao; Ạ Rozenberg
trong đảng là Uy Viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao về Giáo Dục Tư Tưởng cho đảng viên,
trong nhà nước- Bộ trưởng Không Bộ; R. Hex trong đảng là - Phó Thống Lĩnh, Uy
Viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao, trong nhà nước- Bộ Trưởng Không Bộ, thành viên Hội
Ðồng Quốc Phòng Tối Cao, v.v...
Sát nhập vị trí lãnh đạo của nhà
nước và đảng được thực hiện xuống một cơ sở . Tất cả những vị trí quan trọng
trong Ðế Chế 3 đều do các đảng viên quốc xã nắm giữ và đặc biệt là những kẻ
phục vụ đắc lực cho phong trào quốc xã. Tham gia đảng phát xít là dấu hiệu quan
trọng nhất để được phép đứng trên những vị trí trọng trách của nhà nước.
Sát nhập bộ máy lãnh đạo nhà nước
và đảng là một hiện tượng tổng thể, đa hình, song một vài biểu hiện mang giá
trị cơ bản.
Thứ nhất, các đảng viên phát xít
và những kẻ phục vụ đắc lực chiếm giữ những vị trí nhà nước.
Thứ hai, (trong giới lãnh đạo chóp
bu) thống nhất quyền lực của đảng và chính quyền cho cùng một số người
(Hitller, Goring, Gobelx, Himler, Rozenberg, Hex, v.v...).
Thứ ba, nhà nước hợp pháp hóa
quyền kiểm soát của đảng trên mọi tổ chức nhà nước, mọi cán bộ viên chức và mọi
biểu hiện của họ .
Thứ tư, trao nhiệm vụ nhà nước cho
những tổ chức của đảng phát xít.
Thứ năm, thống nhất giữa tổ chức
tạm thời của đảng với nhà nước.
Thứ sáu, nhà nước trả lương cho
các cán bộ đảng viên.
Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ từng
trường hợp riêng biệt của sự sát nhập này.
A- Các đảng
viên phát xít chiếm giữ những trọng trách nhà nước.
Cùng với việc Hitler lên nắm chính
quyền, hàng nghìn đảng viên quốc xã đã tham gia trong bộ máy nhà nước, "để
củng cố chính quyền", đồng thời dần dần chiếm quyền lãnh đạo bộ máy này.
Ðối với những người đó, việc chủ nghĩa quốc xã nắm quyền là lễ khải hoàn của
"cuộc cách mạng quốc xã". Trong diễn văn ngày 18.5.1933, Goring đã
tuyên bố: "Ai chiếm được trọng trách, người đó có thể điều hành." Một
tháng sau, Rudolf Hex giải thích thêm: "...Thậm chí trong trường hợp những
người có công lao với đảng không đủ khả năng, thì điều đó sẽ được bổ xung bằng
lòng nhiệt huyết của họ muốn được cống hiến cho sự nghiệp của nhà nước quốc
xã."
Thậm chí cả trong lĩnh vực nghệ
thuật và văn hóa, các đảng viên cũng giành được sự ưu ái đặc biệt.
Trên thực tế, trước khi kết thúc năm
1933, các đảng viên phát xít đã chiếm giữ tất cả mọi vị trí lãnh đạo ở các cơ
quan trung ương, vùng, tỉnh, địa phương. Giới lãnh đạo đảng quan tâm và khuyến
khích quá trình này. Ðể củng cố chính quyền, ban lãnh đạo đảng thi hành kế
hoạch làm trong sạch bộ máy nhà nước, và bằng cách đó, bật đèn xanh cho những
phần tử có công lao với đảng chiếm giữ những vị trí hành chính. Với sắc luật
Phục Hồi Viên Chức Lành Nghề, ngày 7.4.1933, tại các cơ quan trung ương, vùng,
tỉnh, và địa phương, người ta thải hồi "những nhân viên vì quan điểm chính
trị mà cho đến nay vẫn chưa chịu tuyên bố sẵn sàng phục vụ nhà nước quốc
xã."; đồng thời những kẻ trung thành với chết độ lập tức chiếm giữ những
trọng trách này.
Tháng 2.1935, chính phủ ban hành điều
luật nhằm củng cố hơn nữa sự thống soái của đảng trên các trọng trách nhà nước.
Theo luật này, chỉ có những tổ chức quốc xã cao nhất ở địa phương mới có quyền đề
cử Thị Trưởng. Sau đó, đề cử viên duy nhất này được Bộ Nội Vụ chuẩn y và giữ
trọng trách Thị Trưởng trong vòng 12 năm. Những tổ chức phát xít địa phương
kiêm luôn việc bổ nhiệm cố vấn cho Thị Trưởng. Bằng cách đó, bọn hitlerist hủy
diệt quyền tự trị và thay thế bởi hệ thống lãnh đạo tập trung, đứng đầu là giới
cầm quyền của Ðảng Quốc Xã.
Ngày 27.2.1936, Bộ Nội Vụ Ðế Chế
và Pruxia ban hành sắc luật, trong đó nêu rõ, người viên chức không thể không
là đảng viên, "do mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa đảng và nhà
nước," và đặc biệt là không thể từ bỏ hàng ngũ của đảng vì không đồng ý
với "cương lĩnh và điều lệ chính trị của đảng." Sắc lệnh viết:
"trong mọi trường hợp, cần phải tiến hành kiểm tra xem với mục đích và
những nguyên nhân gì, mà người viên chức ra khỏi đảng. Nếu anh ta hành động như
vậy vì không đồng ý với cương lĩnh và điều lệ chính trị của đảng, thì anh ta
không thể là viên chức".
Và, thậm chí không phải vì lý do
như thế, việc ra khỏi đảng của viên chức trong mối liên hệ tương hỗ chặt chẽ
giữa đảng và nhà nước có thể xem là anh ta đã không có lòng yêu mến nhà nước
quốc xã và tinh thần hy sinh tự nguyện. Ngày 26.2.1937, cái gọi là Những Cơ Sở
Căn Bản Trong Luật Lệ Nhà Nước Ðức Về Viên Chức được ban hành, theo điều luật
này, mọi bổ nhiệm trọng trách nhà nước đều bị xem là không có hiệu lực, nếu
không được sự đồng ý của những tổ chức Ðảng Quốc Xã. Bởi vì, "mối liên
quan thân hữu giữa viên chức và đảng là cơ sở để bổ nhiệm trọng trách của anh
ta... Viên chức cần phải là người thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước quốc xã,
mà nhà nước quốc xã là do đảng lãnh đạo."
Ðiều luật này pháp luật hóa triệt để
và toàn diện sự kiểm soát của đảng trên các tổ chức nhà nước, thiết lập sự
thống soái của Ðảng Quốc Xã đối với nhà nước Ðức.
Quá trình này không chỉ diễn ra
tại các công sở hành chính mà còn ở cả các tòa án. Các quan tòa là các thành
viên của các đảng phái và hiệp hội cánh tả đều bị thải hồi, còn những người
không tham gia đảng phái thì dùng áp lực bắt buộc phải trở thành đảng viên phát
xít.
Trong diễn văn đọc tại Quốc Hội
Raihxtaga ngày 20.8.1938, Hitler tuyên bố: "Không còn một công sở trong
nhà nước này mà không phải là quốc xã. Ở Ðức, mọi trọng trách đều do những
người quốc xã nắm giữ. Tất cả mọi cơ sở của Ðế Chế đều phục tùng Ban Lãnh Ðạo
Chính Trị Tối Cao. Ðảng ta lãnh đạo chính trị nước Ðức."
Muxolini, ngoài Những Luật Phát
Xít Ðặc Biệt, cũng ban hành những điều luật về cán bộ viên chức với tên gọi
không được chính xác - Luật Hành Chính. Thông qua điều luật này, ông ta tạo điều
hiện cho những đảng viên phát xít nắm giữ những vị trí nhà nước. Nó buộc người
viên chức đúng trước sự lựa chọn: hoặc trở thành đảng viên phát xít (nếu chưa
phải là đảng viên) và làm việc như một phần tử phát xít tích cực, hoặc phải xin
từ chức; đồng thời điều luật này loại bỏ những viên chức "công khai hoặc
bí mật chống đối hay không ủng hộ chính quyền."
Theo điều luật trên, nhà nước
không thể chấp nhận những cán bộ viên chức chống lại chính phủ, bởi vì đối với
chuyên chính phát xít, "chính phủ và nhà nước" không thể tách rời
nhau, và những ai chống lại chính phủ thì cũng là chống lại nhà nước và chế độ
phát xít. Và do đó, viên chức này không thể giữ vị trí công tác trong bộ máy
nhà nước.
Việc bắt buộc phải tham gia đảng
phát xít được P. Toliati giải thích như sau:
"Thế nào là một đảng viên
phát xít ở Italia hiện nay? Một bộ phận đảng viên tham gia hoạt động tích cực,
có quan điểm, thi hành nhiệm vụ chính trị . Nhưng đa phần đảng viên có quan điểm
chính trị tiêu cực. Song không vì thế mà họ từ bỏ sinh hoạt đảng. Tại sao? Tại
vì có vô số nguyên nhân bắt buộc họ phải vào đảng. Thí dụ, vào đảng nghĩa là có
quyền lựa chọn những vị trí công tác trong bộ máy nhà nước, và để có thể chiếm được
những vị trí nhà nước cao cấp, thì tham gia sinh hoạt đảng là điều kiện không
thể thiếu.
... Vì lý do này, rất nhiều người
trong những tầng lớp bần cùng tham gia đảng phát xít chỉ vì họ cần làm việc,
chỉ vì họ phải sống, và muốn sống thì bắt buộc phải có việc làm...".
Tại Tây Ban Nha, quá trình đảng
viên chiếm giữ vị trí trong bộ máy nhà nước còn được thể hiện triệt để hơn
nhiều. Theo nhân chứng của Eibi Plen, sau năm 1939 thậm chí kể cả các vị trí
giảng dạy cũng ưu tiên cho những người Falangist, mà không phụ thuộc vào khả năng
học vấn của họ . Chế độ chỉ quan tâm đến một phẩm chất duy nhất - các giáo viên
cần phải tuân theo và phục vụ đắc lực cho nó. "Toàn bộ đội ngũ giảng dạy được
cấu thành... từ những phần tử Falangist kém cỏi và những kẻ có công sức bảo vệ
chế độ, những người này được trao tặng những vị trí giảng dạy không phụ thuộc
vào khả năng quá kém của họ, để thay thế cho hàng ngàn giáo viên và giáo sư nổi
tiếng bị sa thải, bị ném vào các nhà tù.
Cái "mới" do chủ nghĩa
phát xít phát minh ra trong quá trình xây dựng nhà nước, là thiết lập nhà nước-
đảng hoàn chỉnh, chuyên chính- đảng, tạo ra một bộ máy nhà nước, mà ngoài con đường
hành chính (cũng có nghĩa là con đường đảng), còn có thể kiểm soát theo con đường
đảng. Bằng cách đó, hệ thống kiểm soát kép của đảng phát xít đối với nhà nước được
cấu thành, mang lại sự ổn định và thuần nhất đặc biệt cho chế độ này.
B- Ban
lãnh đạo phát xít trở thành chính phủ quốc gia.
Ngày 30.1.1933, khi Hitler được bầu
làm Quốc Trưởng và đứng ra thành lập chính phủ, trong chính phủ mới chỉ có ba
phần tử quốc xã: Hitler, Goring và Fric. Hitler giữ trọng trách Quốc Trưởng,
Goring- Bộ Trưởng Không Bộ, Fric- Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ . Còn những thành viên
chính phủ khác không phải là đảng viên quốc xã - Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Fon
Noirat, Bộ Trưởng Bộ Tài Chính- Bá tước Sverin Fon Cnizig, Bộ Trưởng Bộ Nông
Nghiệp- Hugengerg, Bộ Trưởng Bộ Bưu Ðiện và Giao Thông- Fon Elx Rubenah, Bộ
Trưởng Bộ Tư Pháp Hertner. Những người này thuộc các đảng phái chính trị khác
và sau đó một vài tháng, tất cả những đảng này đều tan rã. Bị mất chỗ dựa chính
trị, những vị Bộ Trưởng này không thể tránh khỏi bị mất ghế.
Nhờ sự thống soái chính trị của đảng
mình, đảng chính trị duy nhất ở Ðức, Hitler đã biến chính phủ thành chính phủ
quốc xã. Việc này được thực hiện bằng hai cách: thứ nhất thành lập các Bộ mới, đứng
đầu là những phần tử phát xít thủ cựu; và thứ hai, trong đảng chỉ công nhận
những Bộ Trưởng có quan điểm quốc xã.
Ngày 13.3.1933, thành lập Bộ Văn
Hóa và Tuyên Truyền Nhân Dân, đứng đầu là Gobelx. Ngày 5.5.1933, thành lập Bộ
Không Quân, đứng đầu là Goring, và Bộ Giáo Dục đứng đầu là Berigard, Bộ Các Vấn
Ðề Nhà Thờ đứng đầu là tên trùm quốc xã Hanarx Kerl.
Sau khi chiến tranh bùng nổ, có hai
Bộ mới nữa được thành lập: ngày 17.3.40, Bộ Chiến Tranh và Dự Trữ Quốc Phòng đứng
đầu là tiến sĩ Tod (sau này Speer thay thế), và ngày 17.7.41, Bộ Các Vùng Thuộc
Ðịa Phía Ðông đứng đầu là nhà tư tưởng của đảng Rozenberg.
Ngoài ra, trong nội các chính phủ
còn có Phó Thống Lĩnh của đảng R. Hex (sau này là M Borman) và thủ lĩnh SA
Ernxt Rom (sau ngày 30.6.1934 là Sepman)- những người này giữ ghế Bộ Trưởng
Không Bộ. Việc này được tiến hành từ ngày 1.12.1933 bằng Luật Thống Nhất Ðảng
và Nhà Nước. Trong điều luật ghi cụ thể: "Phó Thống Lĩnh và Thủ Lĩnh SA sẽ
tham gia trong nội các chính phủ, để có thể đảm bảo sự cộng tác chặt chẽ giữ đảng
và SA với chính quyền nhà nước...".
Ngày 30.2.1937, Hitler kết nạp tất
cả những thành viên không đảng phái của chính phủ vào đảng của mình: Fon
Noirat, Fon blomberg, Zeldte, v.v...
Duy nhất chỉ Bộ Trưởng Bộ Bưu Ðiện
và Giao Thông- Elx Rubenarh, là từ chối đề nghị này của Hitler. Lý do từ chối
không vào Ðảng Quốc Xã có vẻ như không mang màu sắc chính trị, nhưng thực chất
là tỏ rõ sự bất đồng quan điểm với hệ tư tưởng phát xít: "Tôi tin vào
những nguyên tắc của đạo Thiên Chúa," Elx Rubenah viết cho Thống Lĩnh,
"và tôi cần phải giữ niềm tin vào Ðức Chúa và bản thân mình. Tham gia Ðảng
có nghĩa là, tôi không thể chối cãi, rằng đã công nhận và ủng hộ những hành vi
chống lại những quan niệm tôn giáo của các viên chức đảng viên, chống lại những
người muốn bảo vệ quan niệm tôn giáo của họ .
Trên thực tế, đó cũng là đơn xin
từ chức của Fon Elx Rubenah và nó được chấp nhận ngay lập tức.
Vào đầu năm 1937, nội các của
chính phủ đã được quốc xã hóa hoàn toàn, các thành viên của chính phủ đều là đảng
viên quốc xã, các thủ lĩnh phát xít đều trở thành những người lãnh đạo chính
phủ . Nội các chính phủ lúc này bao gồm những người: Hitler, Goring, Gobelx,
Himler, Hex, Rozenberg, Ðare, Fric, Fon Noirat, X. fanc, Ribentrop.
Tất cả những người này đều là đảng
viên quốc xã và là thành viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao (chỉ trừ Fon Noirat là đảng
viên thường).
Ở Italia, những quá trình tương tự
cũng xảy ra. Lúc đầu, trong chính phủ của Muxolini, ngoài ông ta cũng chỉ còn
có ba thành viên phát xít khác: nhà kinh tế Xtefan, hai đại biểu nhân dân, năm
thủ lĩnh của những xu hướng chính trị khác nhau, và hai anh hùng của cuộc nội
chiến: Tướng Ðiiax "Hoàng Tử Chiến Thắng" và Ðô Ðốc Toan De Revel
"Hoàng Tử Biển Cả" .
Trong nội các đầu tiên, Muxolini,
ngoài trọng trách Thủ Tướng chính phủ còn giữ cả ghế Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ .
Ðến năm 1925, Muxolini vẫn chưa
thành lập được "chính phủ phát xít thuần nhất" và vẫn phải biện minh
với các đại diện của những đảng phái chính trị khác.
Mãi sau vụ bê bối xung quanh cái
chết của nghị sỹ Xã Hội Mteoti, vụ bê bối này kéo dài suốt cả năm 1924,
Muxolini mới thành lập được chính phủ phát xít thuần chủng. Một nhà sử học Italia
đã viết về sự kiện này như sau: "Toàn bộ chính phủ là những người phát
xít. Các thủ lĩnh chính trị khác hoặc trở thành đảng viên phát xít, hoặc phải
từ bỏ vũ đài chính trị . Những kẻ chống đối đều phải trốn ra nước ngoài, hoặc
bị bắt buộc phải sống tị nạn chính trị ở nước ngoài...".
Các sự kiện này xảy ra cùng một
thời điểm, khi những Luật Phát Xít Ðặc Biệt được ban hành, thông qua đó, bọn
phát xít cấm tất cả các đảng phái hoạt động và khống chế toàn bộ bộ máy nhà
nước. Việc thành lập "chính phủ phát xít thuần nhất" là dấu hiệu kết
thúc quá trình hình thành cơ chế một đảng trị của nhà nước phát xít.
Tại Tây Ban Nha, Ðảng Falanga đã
biến quyền điều hành chính phủ và biến Ban Lãnh Ðạo Ðảng thành chính phủ quốc
gia. Ða phần các Bộ trong chính phủ và đặc biệt là những Bộ quan trọng đều do
các thủ lĩnh Falanga chiếm giữ.
Thí dụ, thành phần chính phủ vào
tháng 7.1939 bao gồm: Franxix Franco: trong Ðảng là Thủ lĩnh Tối cao của
Falanga, trong chính phủ là Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng; Ramon Xerano Xuner: trong
Ðảng Chủ Tịch tập Ðoàn Chính trị Falanga, trong chính phủ- Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ,
và năm 1940-1942 kiêm luôn chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao; Munox Gradex- trong
Ðảng: Bí Thư Tập Ðoàn Chính trị Falanga, Trùm Công An Falanga, trong chính phủ-
Bộ Trưởng Không Bộ; Gamero Del Caxtilio: trong Ðảng- Thành viên Tập Ðoàn Chính
Trị Falanga, trong chính phủ- Bộ Trưởng Không Bộ; R. Xantrex Maxax: trong Ðảng-
Thành Viên Tập Ðoàn Chính Trị Falanga, trong chính phủ Bộ Trưởng Không Bộ;
Hoxex Ibanex Martin: trong Ðảng- đảng viên thường, không giữ trọng trách, trong
chính phủ Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Nhân Dân; Alono Penia Boeuf: trong Ðảng- đảng
viên thường, trong chính phủ- Bộ Trưởng Bộ Các Vấn Ðề Xã Hội.
Bốn Bộ Trưởng còn lại thuộc giới
quân sự, không phải là những người phát xít: Tướng Hoxex Enrice Varela- Bộ
Trưởng Bộ Lục Quân; Huan Lague- Bộ Trưởng Các Lực Lượng Không Quân; Ðô Ðốc
xavador Moreno- Bộ Trưởng Các Lực Lượng Hải Quân; Ðại tá Baigbeder Atienxa- Bộ
Trưởng Bộ Ngoại Giao.
Tất nhiên sau đó, trong chính phủ
Franco, đại diện Falanga thay đổi sao cho phù hợp với tình hình chính trị trong
nước và thế giới. Nhưng trên nguyên tắc, Ðảng Falanga chi phối chính phủ theo
ba cách:
1- Nắm giữ những Bộ quan trọng
nhất;
2- Kiểm soát những Bộ còn lại
thông qua các đảng viên Falanga đang giữ những chức vụ quan trọng trong các Bộ
này;
3- Thông qua Tướng Franco- vừa là
Thủ Lĩnh của Ðảng, vừa là Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng, với quyền lực vô hạn
thường xuyên thay đổi nội các.
Ở đây nổi bật lên một hiện tượng
là, kẻ nào đánh mất vị trí trong Ðảng cũng đồng thời mất luôn trọng trách trong
chính phủ và ngược lại. Thí dụ, Xerano Xuner, khi mất ghế Bộ Trưởng Nội Vụ và
Ngoại Giao, "cần phải từ bỏ vị trí lãnh đạo trong Ðảng"; Hoxe Luis
Areze (đã nhiều năm giữ vị trí lãnh đạo trong Ðảng), khi mất ghế Bộ Trưởng Cải
Tạo Thành Phố, đồng thời mất luôn chức vụ trong Ðảng Falanga, v.v...
Trên quan điểm "Những Mối
Liên Quan Chặt Chẽ Giữa Ðảng Và Nhà Nước" (Hitler), hiện tượng trên đây
hoàn toàn logic. Nếu một Bộ Trưởng bị mất ghế trong chính phủ mà vẫn giữ vai
trò lãnh đạo trong Ðảng, người đó có thể như là một "kẻ bất mãn" và
trong một thời điểm nào đó xúi Ðảng chống lại chính phủ, hoặc ít nhất- trở
thành kẻ tập trung những ý đồ chống chính phủ trong Ðảng. Nhưng điều này mâu
thuẫn với một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của nhà nước độc tài: sự thống
nhất giữa Ðảng và nhà nước, thiếu cái đó nó không thể tồn tạị Vì vậy, mất trọng
trách trong chính phủ cũng đồng thời phải từ bỏ vị trí lãnh đạo trong Ðảng.
Sự kiểm soát tổng thể của đảng
quốc xã đối với nhà nước, được luật hóa bởi nhà nước, là một trong những hình
thức quan trọng của việc sát nhập bộ máy nhà nước và đảng. Sự kiểm soát này được
thể hiện không chỉ trong vấn đề, rằng việc bổ nhậm các vị trí hành chính sẽ
không có hiệu lực, nếu không được sự đồng ý của cơ sở đảng tương ứng, cũng
không chỉ trong vấn đề rằng các thủ lĩnh đảng phát xít đồng thời nắm giữ những
trọng trách nhà nước, mà còn vì nó được phân chuyển trên pháp luật quốc gia.
Không một điều luật hoặc sắc lệnh nào được ban hành trong Ðế Chế 3 nếu như
trước đó không có sự đồng ý của giới lãnh đạo đảng quốc xã.
Tất nhiên mọi luật lệ ban hành đều
được Quốc Hội thông qua, nhưng đó chỉ là hình thức bởi vì bọn quốc xã chiếm đại
đa số trong Quốc Hội. Trong trường hợp như thế, Quốc Hội bao giờ cũng đồng tâm
nhất trí giống như trong các Ðại Hội Ðảng: tất cả đều được chấp nhận bằng cách
hô: "Hail Hitler!" Hơn thế nữa, trước khi đệ trình Quốc Hội, những điều
luật này phải được văn phòng Trung Ương Ðảng Quốc Xã bổ xung.
Ngày 27.7.1934, Hitler ký sắc lệnh
cho phép Hex, người thay thế ông ta, được quyền kiểm tra mọi luật lệ ban hành
trong Ðế Chế, và thậm chí được tham gia mọi công việc quốc gia - Sắc lệnh nêu
rõ: "Hiện nay tôi giao cho Phó Thống Lĩnh- Bộ Trưởng Ðế Chế Hex- được
quyền tham gia giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến công tác dự thảo luật lệ
trong tất cả các cơ sở hành chính đế chế. Mọi luật lệ do các Bộ trong Ðế Chế dự
thảo cần phải được sự đồng ý của Hex".
Quyền lực này của Hex còn được
phân chuyển xuống tận các tỉnh lẻ trong Ðế Chế. Trong công văn gửi các Bộ của
Tiến sĩ Lamerx ngày 12.4.1938, có đoạn viết: "Phó Thống Lĩnh sẽ tham gia
cùng các Bộ trưởng chuẩn y những sắc luật quốc gia và những văn bản pháp luật
tại các tỉnh lẻ theo điều của sắc lệnh ban hành ngày 2.2.1934, do sự thay đổi
cơ cấu của Ðế Chế...".
Sau năm 1941, khi Hex bí mật trốn
sang Anh, toàn quyền kiểm soát đối với các cơ sở nhà nước và mọi văn bản pháp
luật của chúng được trao lại cho Martin Borman - Thư ký của Thống Lĩnh và Chủ
Tịch Văn Phòng Trung Ương Ðảng.
Sự kiểm soát của Ðảng Quốc Xã độc
quyền về chính trị - "người giữ trọng trách nhà nước" - không chỉ được
phân chuyển trên lĩnh vực pháp lý của các cấp chính quyền quốc gia, mà còn được
củng cố trên mọi thứ bậc hình kim tự tháp của đảng và nhà nước, xuống đến tận
cơ sở- tận làng xã. Trong lãnh thổ một khu vực, không một vấn đề quốc gia nào được
giải quyết nếu không được sự đồng ý cuả Bí Thư Khu Ủy, đại diện của Ðảng Quốc
Xã và là người lãnh đạo chính trị cao nhất trên lãnh thổ này.
Bản thân Ðảng Quốc Xã được tổ chức
nhằm kiểm soát các cơ quan nhà nước, và đó là một trong những nguyên tắc quan
trọng của nó. Trong tài liệu "Hướng Dẫn Xây Dựng Ðảng" nêu rõ:
"Chúng ta xây dựng sự lãnh đạo của đảng trên cơ sở lãnh đạo chính trị quốc
gia".
Tại Ðại hội Ðảng ở Niurnberg vào năm
1935, Hitler còn tuyên bố công khai và chính xác hơn về quyền kiểm soát của đảng
quốc xã đối với các cơ quan nhà nước: "...Không phải nhà nước ban hành sắc
lệnh cho chúng ta, mà là chúng ta ban hành sắc lệnh cho nhà nước".
Ở Italia, vấn đề kiểm soát của đảng
đối với cơ quan nhà nước- một hình thức sát nhập đảng và nhà nước- còn được thể
hiện rõ ràng hơn, chính hiệu hơn. Tại đây chúng ta bắt gặp cái gọi là "Hội
Ðồng Phát Xít Tối Cao" - cơ quan đảng nhà nước cao nhất- chịu trách nhiệm
"mọi vấn đề tư tưởng về nhà nước phát xít và chăm lo bảo vệ chế độ ."
Hội Ðồng này được hình thành như
cơ quan đảng cao cấp ngay từ tháng 10 năm 1922 và mãi sau này mới trở thành tổ
chức chính quyền. Với sắc lệnh ban hành ngày 28.9.1928, ba cơ quan cao cấp- Hội
Ðồng Bộ Trưởng- Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện- quyết định Hội Ðồng Phát Xít
Tối Cao từ tổ chức đảng thuần túy trở thành tổ chức chính quyền. Như vậy Hội
Ðồng Phát Xít Tối Cao trở thành tổ chức đảng- nhà nước cao cấp, "tổ chức
cuả chế độ", thúc đẩy quá trình sát nhập giữa đảng và nhà nước. Tại mục I
trong sắc luật về Hội Ðồng Phát Xít, xác định vai trò của nó như sau: "Hội
Ðồng Phát Xít Tối Cao là tổ chức cao nhất Kiểm Soat Ve Hoan Chỉnh Mọi Hoạt Ðộng
Của Chế Ðộ, được thành lập sau cuộc cách mạng tháng 10.1922. Nó có vai trò
quyết định đối với những trường hợp đã được chỉ rõ trong sắc lệnh này, và ngoài
ra còn có quyền được tham gia mọi vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội trong
khuôn khổ quyền lợi dân tộc, thông qua đàm luận với Thủ Tướng chính phủ ."
Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao có quyền
kiểm soát mọi vấn đề trong nhà nước cũng như trong đảng. Hội Ðồng điều hành mọi
hoạt động pháp luật của các chính quyền nhà nước cao cấp- Hạ Nghị Viện- Thượng Nghị
Viện, Chính phủ . Trong vấn đề này, điều 12 và 13 đã xác định vai trò thuần túy
nhà nước của Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao: "Cần phải có ý kiến tham gia của
Hội Ðồng về mọi vấn đề có ý nghĩa pháp luật." Nói cách khác, quyền sửa đổi
pháp luật được chuyển giao cho Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao và chỉ có Hội Ðồng mới
có quyền thay đổi luật pháp... Hội Ðồng Tối Cao xét duyệt danh sách các nghị sĩ
và thực tế là tuyển chọn đa phần trong Nghị viện, bởi vậy, nếu nó không được
xem là cao hơn nghị viện thì chí ít nó cũng phải ngang hàng."
Trong lĩnh vực đảng thuần túy, vai
trò của Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao được xác định ở điều 11 của sắc lệnh nói
trên:
"(a) Xét duyệt danh sách nghị
sĩ theo những điều khoản của sắc luật bầu cử hiện hành;
(b) xem xét điều lệ, tổ chức và
những chỉ thị của Ðảng Phát Xít Dân Tộc;
(c) giải quyết những vấn đề bổ
nhiệm và thải hồi bí thư, phó bí thư, thư ký hành chính và những thành viên
khác của ban lãnh đạo những tổ chức đảng".
Các thành viên của Hội Ðồng Phát
Xít Tối Cao đều là đảng viên phát xít, giữ trọng trách trong đảng hoặc trong
nhà nước, Chủ Tịch Hội Ðồng là Mutxolini.
Như vậy có thể nói, rằng Ban Lãnh
Ðạo Ðảng Phát Xít và những kẻ cộng tác đắc lực trong đảng sau khi đã nắm giữ
mọi vị trí nhà nước quan trọng- chính phủ, nghị viện, các cơ quan địa phương- đã
thành lập tổ chức đặc biệt, để củng cố hơn nữa quyền kiểm soát và thống soái
pháp luật của đảng mình đối với nhà nước. Do đó, Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao có
thể định nghĩa như "Cơ Quan Kiểm Soát Của Ðảng Phát Xít Ðối Với Nhà Nước",
chính quyền kiểm soát pháp luật.
Trong vấn đề này, sự khác nhau
giữa bọn quốc xã và bọn phát xít Italia và Ban Lãnh Ðạo Ðảng Quốc Xã với đại
diện Hex, và sau đó là Borman, trực tiếp thực hiện sự kiểm soát đối với chính
quyền nhà nước và những biểu hiện pháp luật của chúng, trong khi Ðảng Phát Xít
Italia thành lập cả một tổ chức kiểm soát đặc biệt, được pháp luật hóa bằng sắc
lệnh tương ứng của chính phủ và nghị viện.
D-
Chuyển giao những nhiệm vụ nhà nước cho các tổ chức đảng phát xít.
Khi cần phải thực hiện những nhiệm
vụ quan trọng, chế độ phát xít thường sử dụng các tổ chức của đảng, bởi vì
chúng được tin tưởng hơn những tổ chức nhà nước tương ứng.
Ngay từ khi mới nắm chính quyền,
bọn phát xít đã dùng những lực lượng SS và SA (cảnh sát và quân đội riêng của đảng)
để tiến hành các cuộc khủng bố tiêu diệt những đối thủ tư tưởng và chính trị .
Ðiều này làm cho các cuộc khủng bố trở nên đặc biệt dã man tàn bạo. Khác với
cảnh sát quốc gia, bọn SS và SA không xem khủng bố là thừa hành công vụ, mà như
lễ khải hoàn để thể hiện sự cống hiến của bản thân mình cho Ðảng Phát Xít, đảng
hứa hẹn cho chúng những ưu ái vật chất và chính trị tương lai.
Quyền cai quản các cuộc tập trung
cải huấn cũng dành cho SS và SA, chứ không phải là cảnh sát quốc gia. Chúng giữ
vai trò này cho đến tận ngày tàn cuối cùng của chế độ quốc xã. Ðiều đó giải
thích tại sao, trong thời gian rất dài, giới cầm quyền Ðế Chế 3 có thể giữ được
bí mật những tội ác tày đình trong các trại tập trung cải huấn, ít ra là đối
với nhân dân Ðức (những trại trung cải tạo này được xem như trại cải tạo lao động
hay giam giữ tù binh). Không phải ngẫu nhiên mà trong một công văn nào đó, Hex đã
công nhận rằng lính SS là đặc biệt cần thiết cho những nhiệm vụ quốc gia quan
trọng, vì chúng được giáo dục theo tinh thần tư tưởng quốc xã tốt hơn, so với
những bộ phận khác.
Ðấy là những trường hợp điển hình
mà những tổ chức của đảng đảm nhận những chức năng quốc gia.
Những chức năng như thế cũng được
cả những tổ chức đảng "thuần túy" đảm nhận, đặc biệt là ở cấp Bí Thư
Khu Ủy, nơi những nhiệm vụ của đảng và nhà nước giao nhau một cách rõ ràng
nhất. Một thí dụ điển hình, ngày 27.3.1942, Zaucel Bí Thư Khu Uy Tiuringya được
bổ nhiệm làm Toàn Quyền Ðặc Biệt về vấn đề sử dụng sức lao động - một nhiệm vụ
hành chính thuần túy. Và với sự đồng ý của văn phòng Trung Ương Ðảng, Zaucel đã
bổ nhiệm những Bí Thư Khu Uy khác làm Toàn Quyền về sử dụng sức lao động trong
những vùng tương ứng. Nhiệm vụ của những người này được Zaucel xây dựng như
sau: "Ðảm bảo sự cộng tác tương hỗ, liên tục giữa những cơ sở nhà nước, đảng,
quân đội và kinh tế nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong vấn đề sử dụng sức
lao động."
Trong chiến tranh, tất cả những Bí
Thư Khu Uy đều trở thành Toàn Quyền Quốc Phòng Ðế Chế và chịu trách nhiệm điều
hành nền kinh tế quân sự (theo sắc lệnh đặc biệt ngày 1.9.1939). Về sau, các
khu vực (vùng), đều trở thành quân khu và các Bí Thư Khu Uy trở thành Tổng Chỉ
Huy của vùng tương ứng. Các chính quyền cấp huyện, giữ trách nhiệm kiểm soát
giá cả, cũng chịu sự lãnh đạo của Bí Thư Khu Uy trên danh nghĩa Tổng Chỉ Huy
Quốc Phòng. Các Bí Thư Chi Bộ cũng thực hiện những nhiệm vụ mang tính chất
chính quyền. Trong sách Hướng Dẫn Tổ Chức có ghi: "Bí Thư Chi Bộ có nhiệm
vụ phát hiện tất cả những kẻ có quyền hay tung tin đồn có hại, và báo cáo với
Bí Thư Huyện Ủy để vị này thông báo với các cấp chính quyền".
Những việc tương tự cũng diễn ra ở
Italia. Sau năm 1923, công an phát xít được thành lập - công an của đảng được
trang bị vũ khí của nhà nước và thi hành những nhiệm vụ quốc gia.
E-
Thống nhất những tổ chức tạm thời của đảng và nhà nước phát xít.
Trước khi nắm chính quyền, Ðảng
Quốc Xã đã thành lập lực lượng cảnh sát riêng (SS) và quân đội riêng (SA). Như
chúng ta đã biết, những năm đầu SS và SA là những tổ chức của đảng nhưng thi
hành những nhiệm vụ quốc gia: tổ chức những vụ khủng bố "kẻ thù của nhân
dân và nhà nước", tiến hành các cuộc bắt giam triệt để, tấn công các đảng
phái chính trị, kiểm soát những trại tập trung cải huấn, v.v...
Những năm về sau, khi chế độ quốc
xã đã bền vững, "Ðảng đã trở thành Nhà Nước", những tổ chức này cần được
thống nhất với cảnh sát quốc gia để tập trung sức mạnh cho chính quyền.
Ngày 1.3.1933, 50 nghìn lính SS và
SA được biên chế cho cảnh sát quốc gia để "củng cố ngành cảnh sát".
Ngày 17.6.1936, Hitler sát nhập Bộ
Chỉ Huy Cảnh Sát Ðức và thủ lĩnh SS.
Việc sát nhập giữa SA và quân đội
có phần khác biệt. Trước đây Ðảng Quốc Xã đã sử dụng đội quân này trong nhiệm
vụ kiểm soát các đường phố. Vào năm 1934, SA phát triển rất nhanh và đạt tới
con số 4,5 triệu. Các sĩ quan SA: Rom, Haincxt, Siretl, C.Ernxt, v.v... muốn SA
được sát nhập với quân đội để trở thành chỉ huy của nó. Nhưng điều này đe dọa
toàn quyền của các thủ lĩnh chính trị. Họ không an tâm với sức mạnh tiềm tàng
của đội quân đông đảo này.
Ðiều đó gây nên mâu thuẫn giữa các
thủ lĩnh chính trị (Hitler, Goring, Gobelx, Himler...) và Ban Lãnh Ðạo SA, nên đã
trở thành nguyên nhân gây ra sự kiện ngày 30.6.1934 (Ðêm Của Những Lưỡi Gươm
Dài- ND). Các thủ lĩnh chính trị đã thủ tiêu toàn bộ Ban Lãnh Ðạo Quân Sự SA,
và đẩy vai trò của đội quân này xuống hàng thứ hai. Từ đó lực lượng SA rơi rớt
dần, và đến năm 1940, con số này chỉ còn 1,5 triệu.
Trong chiến tranh, về hình thức SA
vẫn là đội quân riêng của Ðảng, song thực chất là đã sát nhập với quân đội
chính quy. SA tham chiến trong cùng điều kiện với quân đội chính quy, chịu sự
chỉ huy của các tướng lĩnh, không còn được hưởng ưu ái và những quyền lợi đặc
biệt trước đây. Tạp chí bí mật De Lage của Gobelx viết: "Vào mùa thu năm
1944, quân số SA là 1,7 triệu. Trong đó 1,2 triệu đã được động viên vào quân đội".
Một thí dụ minh họa khác là việc
sát nhập giữa SD và Zetapo. Ban đầu SD được thành lập như là một tổ chức mật
thám cuả SS, và sau ngày 4.6.1934 trở thành đội quân đặc biệt của Ðảng Quốc Xã;
còn Zetapo là tổ chức cảnh sát nhà nước. Ngày 26.6.1936, Haidrex- thủ lĩnh SÐ được
bổ nhiệm là Giám Ðốc Cảnh Sát An Ninh, bao gồm Zetapo và mật thám SS.
Năm 1937, tổ chức đối ngoại của
Ðảng Quốc Xã (AO) cũng được sát nhập vào Bộ Ngoại Giao: "Mối liên quan
chặt chẽ giữa AO và Bộ Ngoại Giao cho phép các đại sứ quán Ðức kiểm soát được
những hoạt động của những công dân Ðức sống ở nước ngoài".
F- Nhà
nước bảo vệ đảng phát xít.
Kết quả của việc sát nhập bộ máy
Ðảng và Nhà Nước là Ðảng Phát Xít trở thành Nhà nước, thành hạt nhân tổ chức
của nhà nước, vì vậy nhà nước cần bảo vệ đảng. Ðảng Phát Xít được pháp luật nhà
nước bảo vệ . Mọi hành động chống đảng được pháp luật xem như là chống lại nhà
nước. Bọn quốc xã ban hành điều luật đặc biệt về những hành vi chống lại nhà
nước, đảng và bảo vệ tổ chức đảng. Theo luật này, những người có biểu hiện
chống lại Ðảng Quốc Xã và giới lãnh đạo Ðảng sẽ phải chịu những hình phạt nặng
nề, bởi vì do sát nhập giữa đảng và nhà nước, lãnh đạo đảng cũng là lãnh đạo nhà
nước; xử tù những người phát ngôn có hại nhằm chống lại chế độ quốc xã.
Có thể hiểu rõ mức độ liên quan
mật thiết giữ Ðảng Quốc Xã và Nhà Nước, sự quan tâm của các cấp chính quyền nhà
nước đối với đảng và quyền lợi của đảng, thông qua một chỉ thị của Martin
Borman gửi các cơ sở đảng, trong đó cho phép những cơ sở này có thể sử dụng sự
bảo vệ của Zetapo: "Ðể hiện thực sự liên quan mật thiết giữa các cơ sở đảng
và những tổ chức của đảng trong Ban Lãnh Ðạo Cảnh Sát Bí Mật Quốc Gia (Zetapo),
Phó Thống Lĩnh đề nghị Ban Chỉ Huy Zetapo được mời tham dự tất cả những cuộc
mít tinh quan trọng của đảng và các cơ sở đảng."
Một chỉ thị khác yêu cầu các chính
quyền nhà nước, đặc biệt là những chính quyền cao cấp, phải giúp đỡ các Bí Thư
Khu Ủy trong vấn đề sử dụng sức lao động: "Các cán bộ trong những cơ sở
kinh tế nhà nước cao cấp có nghĩa vụ phải giúp đỡ cho các Bí Thư Khu Ủy và
thông báo với họ những vấn đề quan trọng nhất trong việc sử dụng sức lao động".
Ðể bảo vệ Ðảng Phát Xít không bị
các công dân công kích, nhà nước quốc xã theo dõi gắt gao những người làm công
tác nghệ thuật. Những nghệ sĩ có tư tưởng chống đối đảng và nhà nước đều bị đuổi
khỏi nghành nghệ thuật. Báo Folcser Beobachter, số ra ngày 4.3.1939 thông báo:
"Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền Và Giáo Dục Nhân Dân - Gobelx, thải hồi khỏi
ngành văn hóa nhà văn Vener Finc, nhà đạo diễn sân khấu Peter Zahe (Curt Pabxt)
và Bộ Ba Puland: Xelmut But, Vilelm, Maixner và Marnfred Dlugị Và đồng thời cấm
những người này không được công bố tác phẩm của mình ở Ðức".
Tất cả mọi chuyện cười, tiếu lâm
chính trị, nhằm công kích Ðảng Quốc Xã và giới lãnh đạo đảng đều gặp sự cản trở
của pháp luật. Ngày 20.12.1934, điều luật đặc biệt về sự phản bội trong đảng được
ban hành, những kẻ "phản bội" phải chịu những hình phạt nặng nề nhất:
trước hết bị khai trừ khỏi Ðảng Quốc Xã thông qua tòa án của đảng, sau đó bị đuổi
việc, bị bắt giam vào trại tập trung hoặc bị tử hình, phụ thuộc vào mức độ phạm
tội.
Ở Italia, trong thời gian phát xít
cầm quyền, cũng tồn tại điều luật đặc biệt bảo vệ Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao và
những thành viên của nó (nghĩa là Ban Lãnh Ðạo Ðảng Phát Xít).
Những người có biểu hiện chống lại
Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao sẽ bị xử tử hoặc phạt tù khổ sai.
G-
Nhà nước trả lương cho bộ máy đảng phát xít.
Nắm quyền điều hành nhà nước, Ðảng
Phát Xít tự đảm bảo cho mình những khả năng tài chính vô hạn. Nó không chỉ trao
vị trí trọng trách cho những đảng viên của mình, mà còn trực tiếp sử dụng ngân
sách nhà nước cho những nhu cầu thuần túy của nó: thứ nhất, trả lương cho các
cán bộ đảng; và thứ hai, cấp kinh phí cho những hiệp hội và tổ chức của đảng.
Các cán bộ đảng nhận lương như
những công chức về những nhiệm vụ mà họ hoàn thành, và bị mất lương nếu như cấp
lãnh đạo đảng cao hơn đánh giá là không xứng đáng.
Lương của cán bộ đảng không chỉ
cao hơn, so với mức lương lao động trung bình, mà còn cao hơn cả lương của
những chuyên gia (kỹ sư, bác sỹ, giáo viên, họa sỹ...), bởi vì đối với chế độ,
những người này được xem là có giá trị hơn nhiều so với các chuyên gia; chế độ
dựa vào họ chứ không dựa vào các chuyên gia. Do đó về vật chất, các cán bộ đảng
được ưu đãi hơn nhiều so với quần chúng nhân dân, họ tách khỏi quần chúng và
tạo thành một tầng lớp lãnh đạo xã hội đặc biệt mà ở Ðức gọi là "tập đoàn
lãnh đạo chính trị" .
Ðặc điểm của tầng lớp này không
chỉ thể hiện ở chỗ nó lãnh đạo và điều hành đất nước, mà còn ở cách sống tư bản
hãnh tiến với khả năng ưu đãi về tài chính. Trong bối cảnh đó, đảng cầm quyền
phát xít bị mua chuộc, còn các cán bộ đảng không tránh khỏi trở thành những kẻ
quan liêu, gắn bó với ban lãnh đạo đảng nhiều hơn là với tư tưởng của đảng, gắn
bó với tài chính của đảng nhiều hơn là với quần chúng đảng viên.
Ðiều này giải thích một hiện
tượng, mới thoạt nhìn tưởng như khó hiểu, rằng trong cuộc sống tinh thần phát
xít nghiêm ngặt, những người trong giới cầm quyền chóp bu, được quảng đại quần
chúng xem như những tấm gương trong sáng về lòng tận tụy: Hitler, Goring,
Gobelx, Himler, Rozenberg, Laị.. - sau thất bại của nhà nước quốc xã mới lộ ra
mức giàu có khủng khiếp qua những khoản tiền khổng lồ gửi ở nhà băng nước ngoàị
Những người đã từng khơi dậy những tình cảm tốt đẹp trong nhân dân và thế hệ
trẻ, khơi dậy lòng căm thù trước những biểu hiện lạc loài (không Ðức), đã đánh
cắp tiền của dân đi gửi ở... nước ngoài, chủ yếu là ở các nhà băng Thụy Ðiển!
Chỉ với việc xuất bản cuốn sách Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi (Main Kampf), phát hành
gần như bắt buộc, Hitler nhận được 4 triệu Dola vào thời kỳ đầu chiến tranh;
Gobelx có tài sản ở nước ngoài trị giá 4,6 triệu Dola; Himler có khoảng 6
triệu; người giàu có nhất trong giới cầm quyền chóp bu là Goring, với những
biệt thự và lâu đài nguy nga, với nhà tắm lát bằng vàng tấm.
Ðương nhiên, ngân sách của đảng
không phải là nguồn làm giàu duy nhất cho bộ máy lãnh đạo. Cùng với ngân sách
của Ðảng Công Nhân Quốc Xã, bọn này còn có những vị trí, trọng trách nhà nước
tại những cơ sở công- nông nghiệp then chốt, những cơ sở mà vì vai trò đặc biệt
của Ðảng Phát Xít cần phải có đại diện được trả lương của đảng. 78 vị trí trong
các Ban Quản trị và Cố Vấn quan sát của 24 tập đoàn công nghiệp lớn nhất đều do
các thành viên phát xít chiếm giữ.
Nắm trong tay một vài trọng trách đảng,
nhà nước cộng với vị trí đại diện danh dự cho một tập đoàn kinh tế nào đó, cho
phép bọn chóp bu phát xít làm giàu nhanh chóng. Ðiều này chỉ đặc trưng cho giới
lãnh đạo lớn, hơn là các cán bộ đảng cấp thấp. Khi công ty công nghiệp lớn nào đó
chọn cán bộ đảng, để đại diện cho quyền lợi của nó trước đảng và nhà nước phát
xít, lẽ đương nhiên nó cần những cán bộ cao cấp hơn cán bộ bình thường. Bởi thế
trong vấn đề tài chính, giới lãnh đạo đảng chóp bu và những Bí Thư Khu Ủy được
ưu ái hơn hết.
Trong vấn đề này càng thể hiện rõ
nét bản chất ăn bám của đảng phát xít. Song song với bộ máy nhà nước, bộ máy đảng-
bộ máy trên nhà nước (ở Ðức, con số này vào khoảng 800 ngàn người) cũng được
thành lập như chỗ dựa xã hội của chế độ . Vì ngay từ đầu đã không có những
nhiệm vụ cụ thể, bộ máy ăn bám này hoạt động tích cực một cách giả tạo bằng
cách tổ chức những cuộc diễu binh, mít tinh, diễu hành, tuần hành dân chủ,
tưởng niệm những địa danh có các chiến sĩ phát xít hy sinh, các chuyến bay tập
thể, các cuộc thi thể thao, quân sự, những ngày hội dân tộc, làm tổn hại rất
nhiều cho ngân sách nhà nước. Chỉ cần dẫn chứng ra đây "những ngày
hội" của Ðảng Quốc Xã tại "Thủ Ðô Ðại Hội" - Nuernberg. Trong
suốt cả tuần lễ, Ðảng Quốc Xã phải chịu toàn bộ phí tổn về tàu, xe, ăn, ở...
cho hành trăm ngàn người đến từ mọi miền đất nước.
Nếu như ở nền dân chủ tư sản có
nguyên tắc cơ bản: "Ai có tiền, người đó có quyền lực", thì tại chế độ
phát xít- hoàn toàn ngược lại: "Ai có quyền lực, kẻ đó có tiền", và
"quyền lực càng lớn, thì tiền càng nhiều".
Ðiều này giải thích nguyên nhân
tranh giành quyền lực điên loạn của các cán bộ đảng và nhà nước, khác xa với
cách nhìn nhận về quyền lực tại các nước tư sản dân chủ . Ở các nước này, những
người làm chính trị có tài sản riêng (nhà máy, hãng, công tỵ..), bởi thế, về
mặt tài chính họ không phụ thuộc vào nhà nước và không phải bao giờ cũng liên quan
chặt chẽ đến quyền lợi nhà nước, còn với đảng quốc xã và bộ máy lãnh đạo của
nó, thì nhà nước là nguồn thu nhập quan trọng duy nhất. Như vậy đảng phát xít,
và đúng hơn bộ máy lãnh đạo đảng, đã biến nhà nước thành công cụ để cùng nhau
bóc lột xã hội và nền kinh tế quốc dân.
2- Ðảng phát xít - "Nhà nước
của nhà nước".
Quá trình sát nhập giữa đảng và
nhà nước diễn ra sâu sắc và triệt để đến mức, sau khi kết thúc, không còn có
thể phân biệt được đảng bắt đầu từ đâu và nhà nước kết thúc ở đâu. Các tổ chức
nhà nước mang trong mình linh hồn đảng, còn những tổ chức đảng thì mang tính
chất nhà nước, quốc gia và cảnh sát quan liêu. Như C.M. Xlobod đã nhận xét, đảng
Phát Xít Italia đã phải trả giá quá đắt cho mối quan hệ thân thuộc với nhà
nước. Nó đánh mất cái vỏ ngoài của một đảng chính trị và trở thành một tổ chức
quan liêu sơ đẳng: "Ðồng thời với quá trình phát xít hóa bộ máy nhà nước
là quá trình nhà nước hóa đảng phát xít, biến đảng này thành một tổ chức nửa
vời, ngày càng dựa vào bộ máy quan liêu và lực lượng vũ trang như chính quyền
nhà nước."
Nhưng không phụ thuộc vào việc sát
nhập này, đảng phát xít vẫn giữ vai trò là đảng độc quyền, tự hình thành như cơ
quan cao cấp, đứng trên nhà nước. Như vậy đảng phát xít mang ý nghĩa "nhà
nước của nhà nước" chỉ huy và kiểm soát nhà nước. Hitler đã từng hài lòng
tuyên bố: "Không phải nhà nước ban hành sắc lệnh cho chúng ta, mà là chúng
ta ban hành sắc lệnh cho nhà nước." Rõ ràng nhà nước không có quyền điều
hành đảng phát xít.
Tại đại hội đảng ở Niurnberg vào năm
1937, P. Lai đã nêu thành công thức về mối quan hệ giữa Ðảng Công Nhân Quốc Xã
và nhà nước như sau: "Ðảng quyết định, còn Nhà nước thực hiện các biện
pháp về hành chính."
Với sắc lệnh về các công sở dân sự
Ðức ban hành ngày 26.1.1937, Ðảng Quốc Xã có quyền gián tiếp kiểm tra mọi công
việc cuả các cơ quan nhà nước. Và, từ ngày 30.9.1938, các cán bộ lãnh đạo cao
cấp của đảng được quyền kiểm tra công tác của các tổ chức tòa án. Ðiều này đã được
thực hiện ngay từ những ngày đầu của chính quyền quốc xã và giờ đây được pháp
luật hóa.
A.
Ðảng phát xít đứng trên pháp luật nhà nước.
Trong chế độ độc tài, vai trò đặc
biệt của đảng phát xít không chỉ được thể hiện ở sự chuyên chính độc tài và
quyển kiểm soát nhà nước, mà còn ở chỗ mọi luật lệ nhà nước không có hiệu lực đối
với đảng và các đảng viên. Trong chế độ quốc xã, các đảng viên không thể bị xét
xử tại các tòa án dân sự thông thường. Khi phạm tội, trước hết đảng viên cần
phải được "Tòa án Ðảng" khai trừ khỏi Ðảng, sau đó mới chuyển giao
cho tòa án quốc gia xét xử như một tội phạm thông thường của Ðế Chế Ðệ Tam. Các
thành viên SS cũng không thể bị xét xử ở những tòa án quân sự, mà phải xử theo
luật của Bộ Chỉ Huy SS.
Theo Chỉ Thị được Phó Thống Lĩnh
ban hành ngày 17.2.1934, các tòa án đảng "có mục đích giữ gìn sự trong
sạch cho đảng và các đảng viên, và nếu cần thiết có thể gạt bỏ công khai những
ý kiến phản kháng của các đảng viên... Các tòa án đảng chỉ tuân theo sự chỉ đạo
quốc xã và không thuộc quyền bất cứ lãnh tụ chính trị nào; chúng chỉ thuộc
quyền của Thống Lĩnh.
Nói cách khác, những đảng viên
Ðảng Công Nhân Quốc Xã và thành viên SS được đặt trên các tòa án dân sự, không
phụ thuộc vào chúng và có thể thay đổi những văn bản tuyên án chúng. Hiện tượng
phổ biến là xóa án cho bọn tội phạm có công lao với chế độ, hoặc các bản tuyên
án bị những cơ sở đảng cao cấp sửa đổi.
Những kẻ giết người Do Thái năm
1938 được tha bổng, với lời biện bạch: "Trong trường hợp giết người Do
Thái có chủ ý hay không có chủ ý thì vẫn bị xem là không có tội. Tận đáy lòng
mình, những người này đã tin tưởng rằng bằng hành động đó họ đã thể hiện nguyện
vọng phục vụ Thống Lĩnh và Ðảng."
Những đảng viên quốc xã phạm tội đều
được ân xá: "Vào năm 1935, một số cai ngục trong trại tập trung cải huấn
Hohstain, bị buộc tội đối xử tàn nhẫn với tù nhân. Những cán bộ quốc xã cao cấp
đã thử gây áp lực với các quan tòa, nhưng sau khi xem xét, Hitler đã tha bổng
tất cả ..."
Việc đình chỉ không xét xử những
tội ác do các thành viên SS, SA, và Zetapo gây ra được biện bạch như sau:
"Vì những hành vi này không phát xuất từ những mục đích thấp hèn, mà ngược
lại, chúng thể hiện lòng yêu nước cao cả và giúp cho sự phát triển của nhà nước
quốc xã, việc đình chỉ vụ án không nên xem như những trường hợp bình thường
trong khi vận dụng pháp luật."
Những vụ giết người, cướp của và
phá hoại trong thời gian các chiến dịch bài trừ Do Thái vào năm 1938, được
Zetapo, các tổ chức đảng, các Bí Thư Khu ủy, và các lãnh đạo chính trị cao cấp điều
tra và kết luận như sau: "Trong các trường hợp này, khi người Do Thái bị
giết không có lệnh hoặc theo lệnh, đều không phát hiện thấy những nguyên nhân
xuất phát từ bản tính man dạị" Và mục đích của quá trình điều tra, do
"Tòa an Ðảng" tiến hành này là nhằm: "Ðể bảo vệ những đồng chí đảng
viên đã hành động xuất phát từ những tình cảm và tư tưởng quốc xã cao đẹp
nhất."
Trong đoạn trích dẫn sau cùng này
thể hiện rõ ràng tính chất đặc biệt cơ bản về luật lệ trong chế độ độc tài: đảng
phát xít đứng trên mọi luật lệ nhà nước, các thành viên và tổ chức đảng không
bị pháp luật ràng buộc. ở đây, tòa án không có gì khác hơn là cơ quan trực
thuộc của đảng phát xít, có nghĩa vụ phải thi hành nguyện vọng của đảng: thứ
nhất, các quan tòa đều là đảng viên; thứ hai, tòa án không có cơ quan ấn loát độc
lập với nhà nước và đảng.
Tất nhiên đôi khi, trong những tổ
chức "Tư Pháp" có thể có cả những thành viên không đảng phái, song điều
đó hoàn toàn không làm thay đổi vấn đề. Những người như thế thường còn tỏ ra cố
gắng hơn bọn quốc xã chính hiệu, và về sự cống hiến của họ, đối với chế độ, được
thể hiện bằng những hành động còn dã man hơn.
Một "cán bộ lãnh đạo đảng có
trọng trách" (Bí thư Khu Ủy hoặc Bí Thư Tỉnh Ủy) có thể gây ảnh hưởng hay đình
chỉ vụ án, đặc biệt là sau năm 1938. Nếu bị can là đảng viên phát xít có nhiều
thành tích đối với đảng, và nếu lãnh đạo đảng thấy bị can cần phải được ân xá,
họ thường chỉ đọc lời tuyên án cho quan tòa qua điện thoại. ở đây, Tính Khách
Quan không có gì khác hơn là "ảo ảnh của quyền tự do hình thức."
Trước tiên người làm công tác pháp lý cần phải ghi nhớ lời của Bộ Trưởng Bộ Tư
Pháp Cerl: "ảo ảnh của quyền tự do hình thức là, các đồ đệ của công lý cần
phải khách quan. Giờ đây chúng ta đã chạm đến cội nguồn của sự khác biệt giữa
dân tộc và pháp lý, và về sự khác biệt này, bao giờ pháp lý cũng có sai lầm. Bởi
vì, thế nào là khách quan trong cuộc đấu tranh sinh tồn của dân tộc?
Vì lý do này, ta cần tự hiểu rằng
pháp lý của một dân tộc đang đấu tranh giữa cái sống và cái chết, không thể dựa
trên tính khách quan chết chóc. Mọi luận điểm của quan tòa, công tố viên và
luật sư cần phải được xác định triệt để trên một quan điểm.
Không có khách quan vô nguyên tắc-
dấu hiệu của trì trệ, xa lạ và khác biệt với dân tộc, mọi biểu hiện của tập thể
và cá nhân cần phải phục vụ cho những hy vọng của nhân dân và dân tộc."
Ðây là những nguyên tắc cơ bản của
pháp lý tại các nhà nước phát xít - Tính Khách Quan tội lỗi và sự biến đổi của
nó dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng phát xít.
Ðoạn trích dẫn trên, dù sao, cũng
mới phản ánh vấn đề này trong giai đoạn đầu chế độ quốc xã, khi nguyên tắc
khách quan, trong nhận thức đa phần của bọn quốc xã, gắn liền với yêu cầu
"lịch sử", với những mục tiêu vĩ đại của "cuộc cách mạng."
Vào những ngày cuối cùng của Ðế Chế, yêu cầu tối thiểu này đối với mọi cơ quan
tư pháp càng trở nên quỷ quyệt và tráo trở . Trong lời giới thiệu cho tạp chí
Dax Raix (tạp chí lý luận cuả Gobelx) vào năm 1942 có viết: "Người quan
tòa càng thấm nhuần tư tưởng quốc xã bao nhiêu, thì càng tuyên án khách quan và
công bằng bấy nhiêu."
B -
Tư tưởng của đảng quốc xã trở thành hệ tư tưởng chính thức của nhà nước.
Thật ngây thơ nếu nghĩ rằng sự
thống nhất của đảng phát xít và nhà nước chỉ dừng lại ở việc chỉ sát nhập bộ
máy đảng và nhà nước. Thực chất, sự thống nhất này mang nội dung sâu rộng hơn
nhiều và bao hàm cả lĩnh vực tư tưởng. Tư tưởng của đảng Quốc Xã, nhằm xây dựng
nhà nước theo kiểu đồng mẫu đồng dạng với nó, được chuyển giao cho nhà nước và
trở thành tư tưởng quốc gia. Ðiều này cũng giống như lá cờ của Ðảng Công Nhân
Quốc Xã trở thành quốc kỳ nước Ðức.
Ðảng Quốc Xã là một đảng độc
quyền. Vì vậy tư tưởng của nó không có gì khác hơn là tư tưởng độc quyền, hủy
diệt mọi sự cạnh tranh của những quan điểm và những tư tưởng khác nó. Và sự
thống trị hợp pháp của chủ nghĩa phát xít vè tư tưởng không tránh khỏi chuyển
thành cuồng tín và mê muội.
Hitler tuyên bố: "Khi theo đuổi
những mục đích đã định, cần phải tiêu diệt những kẻ cản trở ." Gobelx cũng
khai phủ nhận mọi tư duy khác với tư duy quốc xã: "Những người quốc xã
chúng ta khẳng định, chúng ta có quyền. Do đó chúng ta không thể cho phép kẻ
nào đó tự xem là đúng đắn, bởi vì điều đó có nghĩa: người này phải là quốc xã,
và nếu người đó không phải là người quốc xã, thì không thể đúng."
Ðể hủy diệt mọi tư tưởng khác và
thiết lập sự thống trị tuyệt đối cho hệ tư tưởng cuả mình, nhà nước phát xít xử
dụng những công cụ khủng bố đặc biệt. Nó dùng cả khủng bố thể chất và trại tập
trung cải huấn. Ðây là dấu hiệu cơ bản của chủ nghĩa phát xít trong tư tưởng.
Chỉ ở nhà nước phát xít, mới tồn tại hiện tượng có một không hai trong thế kỷ
20 - giam người ở trong trại tập trung cải huấn chỉ vì người ta nghĩ khác nhà
nước phát xít, thậm chí kể cả khi người ta không thể hiện công khai điều đó
(cái gọi là "bắt giam triệt để") . Nhà nước độc tài không thể cho
phép những công dân "suy nghĩ khác biệt" được tồn tại tự do (nghĩa là
ở ngoài trại tập trung). Trên quan diểm nhà nước, nhằm đạt được sự thống trị tư
tưởng triệt để, những người này là mối đe dọa thực tế, bởi vì họ tung ra những
dư luận có hại, làm "ảnh hưởng đến tinh thần" của nhân dân, làm mai
một sự thống nhất chính trị của "nhân dân", làm lung lay niềm tin cuả
họ đối với sự đúng đắn cuả sự nghiệp phát xít và sự thông thái của lãnh tụ .
Chúng ta không nên quên rằng nhà
nước phát xít là một hệ thống tập trung liên tục và nghiêm ngặt, mọi bộ phận
riêng lẻ liên quan chặt chẽ với nhau, và không thể chấp nhận những lệch pha
trong quá trình hoạt động. Chỉ cần một chi tiết không hài hòa với hệ thống có
thể dẫn đến sự đổ vỡ tổng thể . Thí dụ, chỉ cần có sự tự do in ấn cũng đủ để
cho hệ tư tưởng phát xít phá sản, hay tự do bầu cử sẽ phá vỡ toàn bộ hệ thống
chính trị . Ðôi khi một phiên tòa công khai cũng làm lung lay đáng kể nền móng
của chế độ này.
Vì sự ràng buộc và phụ thuộc tương
hỗ đặc biệt nghiêm ngặt giữa các bộ phận, chế độ độc tài phát xít trở nên rất
mẫn cảm đối với cả những biến đổi nhỏ nhất. Vì vậy nó phản ứng một cách tàn
bạo. Ðây là lý do tại sao chế độ độc tài phát xít không thể chấp nhận và theo
dõi gắt gao những người có suy nghĩ và hành động tự do. Ðây cũng là nguyên nhân
dẫn đến lòng căm thù man dại đối với tư tưởng tự do của nền dân chủ tư sản
truyền thống được thể hiện trong tất cả những tác phẩm và công trình của các
nhà tư tưởng và lý thuyết phát xít. Chế độ phát xít căm thù nền dân chủ tư sản
vì nó chấp nhận cái mà đối với chế độ phát xít là vô cùng nguy hiểm: sự khoan
nhượng.
Nhà nước phát xít có thể không do
bọn phân biệt chủng tộc hay bọn bài Do Thái lãnh đạo, như ở Italia và một vài
dạng nhà nước phát xít khác - đó không phải là điều bắt buộc - nhưng nó cần phải
căm thù tính đa quan điểm và sự khoan nhượng của chủ nghĩa tự do như một tư
tưởng. Thiếu cái đó, nó không thể tồn tại.
Khi nhấn mạnh sự cần thiết của bảo
thủ trong lĩnh vực tư tưởng, Hitler tuyên bố: "Một tư tưởng nếu không muốn
bị hủy diệt thì bắt buộc phải trở thành bảo thủ, nghĩa là bảo vệ tính đứng đắn
của những quan điểm và chỉ thị của mình trong mọi hoàn cảnh... Ngày nay có một
số người không muốn hiểu sự cần thiết cuả bảo thủ quốc xã, nhưng trên thực tế đó
là nhận thức về trách nhiệm."
Ðể thiết lập sự thống trị tuyệt đối
tư tưởng của mình trong nhà nước, đảng phát xít tiến hành hàng loạt những biện
pháp: thứ nhất, với việc hủy diệt những đảng phái khác, đảng phát xít đồng thời
tiêu diệt cả những hệ tư tưởng của chúng; thứ hai, kiểm soát tất cả những
phương diện tuyên truyền của xã hội và nhà nước (diễn đàn, phim ảnh, nhà hát,
phát hành sách..."; thứ ba, tuyên truyền cho hệ tư tưởng phát xít bằng mọi
phương tiện và biện pháp; thứ tư, kiểm soát hệ thống giáo dục từ mẫu giáo cho đến
năm học cuối cùng trong trường đại học; thứ năm, cách ly hệ tư tưởng quốc gia để
các hệ tư tưởng khác không thể xâm nhập được.
Với mục đích hủy diệt mọi hệ tư
tưởng khác và thiết lập sự thống trị tuyệt đối cho hệ tư tưởng cuả mình trong
nhà nước, đảng phát xít kết hợp chặt chẽ với những tổ chức quần chúng quốc gia
tiến hành những chiến dịch sâu rộng, nhằm tiêu hủy những tác phẩm văn học dân
chủ tiến bộ, tẩy chay những truyền thống dân tộc dân chủ của nền văn hóa đi
ngược lại tinh thần độc tài phát xít.
Trong cuộc tranh giành sự thống
trị tư tưởng toàn diện, đảng phát xít còn đi xa hơn nữa. Nó giải tán tất cả
những tổ chức tôn giáo, thậm chí cả những tổ chức lành mạnh nhất, không liên
quan gì đến chính trị, nếu những tổ chức này chứa trong mình khả năng nào đó,
mà trong những điều kiện xác định, có thể sinh ra những tư tưởng hoặc quan niệm
khác với tư tưởng cuả đảng phát xít.
Ðảng phát xít, đặc biệt là Hitler
rất căm thù đạo Thiên Chúạ Tại biệt thự của mình ở tại Oberzalberg, Hitler đã
từng tâm sự với những người thân cận: "Chúng ta có nỗi bất hạnh vô bờ là
mang một tôn giáo sai lầm. Tại sao chúng ta không có thứ tôn giáo như những
người Nhật Bản, xem việc hy sinh cho tổ quốc là trên hết? Thậm chí cả đạo Hồi
vẫn còn tốt cho chúng ta hơn là Thiên Chúa Giáo, với sự nhẫn nhục rồ dại của
nó."
Ban lãnh đạo quốc xã tổ chức tấn
công nhà thờ Thiên Chúa một cách hệ thống. Trong tài liệu mật của Văn Phòng
Trung Ương Ðảng, vào tháng 6.1941 M. Borman viết: "Cần phải cách ly hơn
nữa giữa nhân dân với nhà thờ và những tổ chức cuả nó- các mục sư... Không thể để
nhà thờ tiếp tục gây ảnh hưởng tới nhân dân và lãnh đạo họ . Ảnh hưởng này cần
phải hủy diệt triệt để và mãi mãi. Chỉ có chính phủ, đảng, các cơ sở và tổ chức
cuả đảng mới có quyền lãnh đạo nhân dân."
Tên trùm quốc xã này không chấp
nhận để các mục sư giáo dục và dạy bảo nhân dân, hoặc đơn giản là làm ảnh hưởng
đến cấu thành tinh thần cuả họ . Ðiều này đối với Borman là đi ngược lại sự
thống trị tư tưởng cuả đảng, được xem như một tiên đề. Cần phải nói rằng, chỉ
có phát xít Ðức mới tấn công nhà thờ Thiên Chúa. Phát xít Italia và Tây Ban Nha
không tấn công tôn giáo, mặc dù ở đây nhà thờ và thế giới tinh thần cũng có
những vấn đề về giáo dục thế hệ trẻ . Ðó là điểm riêng biệt cuả phát xít Ðức,
thể hiện một trong những khía cạnh đặc trưng cuả chế độ độc tài - tham vọng về
thống trị tinh thần tuyệt đối, điều mà cả phát xít Italia và Tây Ban Nha đều
mong muốn, nhưng các nước này không bao giờ đạt được trường hợp lý tưởng như
của Ðức, vì ở Italia và Tây Ban Nha, đạo Thiên Chúa là bá chủ duy nhất, không
thể chia cắt.
Ðương nhiên cuộc tấn công tôn giáo
của đảng quốc xã dù tàn bạo đến đâu cũng không bao giờ đạt được chủ nghĩa vô
thần, bởi vì không một nhà nước phát xít nào có thể hủy diệt được toàn bộ niềm
tin. Chống lại tư tưởng Thiên Chúa, nhà nước phát xít nhằm mục đích nhồi nhét
một thứ tư tưởng khá c- tư tưởng quốc xã của đảng phát xít.
Ý nghĩa cuả cuộc tấn công tôn giáo
này không phải nhằm hủy diệt niềm tin trong nhận thức và tư duy, mà là thay thế
niềm tin này bằng một niềm tin khác. Chủ nghĩa vô thần thực sự đồng nghĩa với
tự do suy nghĩ, trao quyền tự do tinh thần không hạn chế cho các cá thể, điều
mà các nhà nước phát xít không bao giờ có thể cho phép.
Trong những điều kiện của nhà nước
độc tài, khái niệm "đồng hóa" không đơn giản chỉ là đồng nhất đời
sống xã hội bằng cách tiêu chuẩn hóa nền kinh tế quốc dân. Ở đây muốn nói đến
sự đồng nhất, nhờ đó quyền kiểm soát của đảng đối với nhà nước và tiếp theo - đối
với xã hội được thiết lập. Ðây là sự đồng nhất chính trị, thông qua đó đảng
phát xít phân chuyển quyền thống trị của mình trên mọi lãnh vực xã hội: nghệ
thuật, văn học, thị hiếu, thú vui... thậm chí cả những vấn đề nội bộ của từng
gia đình - những lĩnh vực mà ở nền dân chủ truyền thống nằm ngoài khuôn khổ
kiểm soát của nhà nước và các đảng phái chính trị .
Sự đồng hóa bao gồm - chúng ta hãy
đọc hồ sơ của tòa án Nuernberg - "quyền lực... của đảng được trải khắp
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân. Ðảng lãnh đạo nhà nước, đảng
lãnh đạo các lực lượng vũ trang, đảng lãnh đạo tất cả mọi cá nhân trong nhà
nước. Ðảng hủy diệt mọi tổ chức, mọi nhóm và mọi cá nhân không chấp nhận sự
lãnh đạo của thống lĩnh".
(84-570)
Sự đồng hóa bắt đầu trước tiên ở
lĩnh vực chính trị thuần túy bằng cách bãi bỏ mọi hình thức tự trị địa phương
và chủ nghĩa liên bang. Toàn quyền nằm trong tay chính quyền tập trung đảng -
nhà nước, biến bộ máy lãnh đạo ở địa phương thành công cụ sai khiến, thi hành
mọi mệnh lệnh cấp trên giao.
Valter Fric, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đầu
tiên trong chính phủ Hitler, trong một bài báo năm 1935 đã viết:
"Mối quan hệ giữa Ðế Chế và
các tỉnh lẻ giờ đây được xây dựng trên những nguyên tắc mới mẻ, chưa từng thấy
trong lịch sử dân tộc Ðức. Chính phủ Ðế Chế có quyền lực vô biên. Không chỉ
riêng quyền lực mà cả nghĩa vụ của chính phủ cũng trở thành của Ðế Chế. Từ nay
về sau chỉ còn tồn tại duy nhất một uy tín dân tộc - Ðế Chế. Như vậy, Ðế Chế
Ðức trở thành một nhà nước đồng nhất, và toàn bộ cơ cấu hành chánh ở tỉnh lẻ
chỉ còn thi hành theo mệnh lệnh của Ðế Chế hay trên danh nghĩa Ðế Chế. Biên
giới giữa các tỉnh chỉ mang tính chất hành chính, hoàn toàn không bảo vệ chủ
quyền cho các tỉnh này.
Với quyết tâm không gì lay chuyển
nổi nhằm bảo vệ nhân dân Ðức, chính phủ Ðế Chế luôn luôn đi theo ước vọng ngàn đời
của dân tộc Ðức - thiết lập nhà nước quốc xã đồng nhất." (89-69)
Bãi bỏ quyền tự trị địa phương -
bước đồng nhất chính trị đầu tiên của chính quyền nhà nước - cũng được thể hiện
rõ nét ở Italia.
Bọn phát xít nắm được những yếu điểm
của quyền tự trị địa phương để xóa bỏ nó; đồng thời xây dựng hệ thống chính trị
tập trung nghiêm ngặt của mình. Những yếu điểm này gồm: Quyền tự trị địa phương
khiến chúng mâu thuẫn với chính quyền tập trung, do đó "địa phương và nhà
nước xem nhau như kẻ thù." (112-79); Quyền tự trị địa phương gây nên những
cuộc tranh chấp ngấm ngầm xung quanh việc bầu thị trưởng và các cố vấn khác,
biến bầu cử từ công cụ thành mục đích.
Nói cách khác, quyền tự trị địa
phương cản trở nhà nước hoạt động linh hoạt, mà mọi việc chỉ được thực hiện bởi
"cán bộ nhà nước có năng lực và trong sạch (!), chịu sự chỉ đạo và kiểm
soát trực tiếp của chính quyền nhà nước." (112-77)
Tất nhiên bọn phát xít hủy diệt được
quyền tự trị địa phương, không phải vì đã làm cho các địa phương hiểu rõ tính
ưu việt của chính quyền tập trung, mà vì trước đó sự thống trị chính trị của đảng
phát xít đã được thiết lập ở khắp nơi (bằng cách hủy diệt các đảng phái khác)
và do đó chúng có quyền tự do làm theo ý mình.
Bằng sắc luật ban hành ngày
4.2.1926, đảng phát xít thông qua chính phủ Muxolini hủy diệt mọi quyền tự trị
của các địa phương và biến chúng thành những chi nhánh của chính quyền nhà nước
tập trung, cũng như trước đây nó đã làm như thế đối với chính phủ và nghị viện;
đồng thời xây dựng nhà nước phát xít đồng nhất, tác động chính xác đến từng mắt
xích theo ý muốn của đảng này.
Một khi đạt được điều đó, đảng
phát xít tiếp tục đồng nhất toàn bộ xã hội. Muxolini đã nói về vấn đề này như
sau: "Chính quyền cần thống nhất và duy nhất. Nếu không như thế, nhà nước
sẽ bị tan rã... nghĩa là phủ nhận một trong những kết quả thắng lợi to lớn nhất
của sự nghiệp phát xít: phấn đấu cho một quốc gia hùng mạnh, lâu bền và uy tín,
làm cho nó thống nhất tuyệt đối như một nhà nước phát xít thực sự . Sau cách
mạng, đảng ta và các cơ sở đảng trở thành vũ khí sáng tạo và là một trong những
nguyện vọng của nhà nước ở trung ương, cũng như ở các tỉnh lẻ ." (112-78)
Quá trình đồng hóa bắt đầu trong
lĩnh vực chính trị và tiếp diễn theo hai hướng: trong cuộc sống tinh thần của
xã hội và trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng vì những điều này được tiến hành
dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và tư tưởng của đảng phát xít, do đó
trước tiên chúng ta cần nghiên cứu cấu trúc và những nguyên tắc của đảng này.
Việc nghiên cứu này là chìa khóa giúp chúng ta đi sâu tìm hiểu quá trình đồng
hóa độc tài.
1.Vai trò của đảng quốc xã.
Ngay từ đầu, Ðảng Công Nhân Quốc
Xã Ðức đã được xây dựng với mục đích điều hành nhà nước và đời sống xã hội.
Trong điều lệ đảng ghi rõ: "Chúng ta xây dựng sự lãnh đạo của đảng trên cơ
sở lãnh đạo chính trị nhà nước." (89-19 ). Ðảng quốc xã công khai đồng
nhất bản thân mình với dân tộc Ðức và những quyền lợi dân tộc: "Ðảng Công
Nhân Quốc Xã Ðức thể hiện quan điểm chính trị, nhận thức chính trị và nguyện vọng
chính trị của dân tộc Ðức. Quan điểm chính trị, nhận thức chính trị và nguyện
vọng chính trị này được tỏ rõ trong nhân cách của Thống Lĩnh. Trên cơ sở những
chỉ thị của Thống Lĩnh và kết hợp với cương lĩnh của Ðảng Công Nhân Quốc Xã
Ðức, các cơ quan lãnh đạo Ðế Chế xác định mục đích chính trị của nhân dân Ðức.
Các cán bộ lãnh đạo Ðế Chế, nghĩa là các thủ lĩnh của đảng, nắm giữ huyết mạch
những tổ chức của nhân dân Ðức và các huyết mạch này quy tụ với những huyết
mạch của các cơ quan cao cấp nhà nước." (89-11)
Ðể có thể thực hiện được sự lãnh đạo
này, đảng phải mang hình thức một tổ chức tập trung nghiêm ngặt, trong đó mọi
thành viên giữ vai trò như một người lính thi hành vô điều kiện mệnh lệnh của
cấp trên. Ðiều lệ đảng ghi rõ: "Cơ sở tổ chức của đảng là nguyên tắc tập
trung". Tham gia đảng là đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi cá
nhân. Cương lĩnh của đảng là giáo lý, không thể nghi ngờ hay công kích; vào đảng
là để phấn đấu hết sức mình cho đảng. "Cương lĩnh này - điều lệ đảng viết
- cần phải xem như giáo lý của đồng chí. Nó đòi hỏi sự phục tùng toàn diện cho
phong trào quốc xã... Phục vụ cho phong trào là đúng đắn và cũng là phục vụ cho
nước Ðức." (89-25). Và tiếp theo, cũng trong điều lệ: "Thống lĩnh
sáng lập Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức. Người đã cống hiến cho đảng tinh thần,
nguyện vọng của mình, và với sự giúp đỡ của đảng, ngày 3.1.1930, Người đã giành
được chính quyền. Nguyện vọng Thống Lĩnh là tối cao trong đảng". (89-28)
Ðảng Quốc Xã là trường học về sự
phục tùng. Người đảng viên tốt nhất là người phục tùng và thi hành vô điều kiện
mệnh lệnh của cấp trên. Lòng tận tụy đối với đảng là phẩm chất cơ bản trong
việc thăng cấp cán bộ . "Chỉ có những người đã trải qua trường học phục
tùng của đảng mới xứng đáng giữ những vị trí lãnh đạo cao cấp. Chúng ta chỉ cần
những cán bộ lãnh đạo biết tự nâng mình lên. Tất cả những lãnh đạo chính trị
không đáp ứng được yêu cầu này cần phải từ chức hoặc phải bổ nhiệm xuống những
cương vị như Bí Thư Chi Bộ, Bí Thư Ðảng Bộ để học hỏi thêm." (89-392)
Sự thật là, về hình thức, Ðảng
Quốc Xã được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, không ai bắt buộc phải tham
gia vào đảng, và điều này được ghi rõ trong điều lệ . Nhưng với sự sát nhập
giữa đảng và nhà nước, đảng trở thành một tổ chức quốc gia, chi phối số phận
của mọi công dân; đảng chia quyền, chia ân huệ, và nguyên tắc trên, vì thế mà
bị phá vỡ hoàn toàn. Vấn đề chỉ riêng các đảng viên mới có thể trở thành công
chức của nhà nước quốc xã đã khiến hàng loạt quần chúng phải vào đảng, và những
ai đã vào rồi thì không thể bỏ được nữa. Bị khai trừ khỏi đảng là vô cùng nguy
hiểm, còn hơn cả khi không tham gia sinh hoạt đảng. Vì sự ràng buộc chặt chẽ
giữa đảng và nhà nước, "bị khai trừ khỏi đảng cũng đồng thời mất luôn
phương tiện để tồn tại." (89-392)
Những công chức đảng viên phải
chịu hai tầng áp bức: từ phía cán bộ đảng và từ phía các thủ trưởng hành chính,
cũng là đảng viên và có quan hệ mật thiết với Ban lãnh đạo đảng.
Ðây là một trong những trường hợp
cụ thể, khi đảng phát xít độc quyền sát nhập với bộ máy nhà nước, trở thành một
tổ chức quân sự quan liêu, loại bỏ nguyên tắc tự nguyện và không còn là một đảng
chính trị theo ý nghĩa đặc trưng của từ này. Bởi vì mọi đảng phái chính trị đều
phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện và quan điểm; Một đảng, thành lập với ý đồ lãnh
đạo nhà nước, không thể không chấp nhận những nguyên tắc muôn thuở của nhà
nước: quan liêu, tập trung quan liêu, uy tín, bảo thủ, cưỡng ép và khủng bố.
Ðây cũng là bối cảnh mâu thuẫn của
đảng phát xít trong những điều kiện của nhà nước độc tài. Về hình thức, trong điều
lệ, đảng được xây dựng trên một thứ nguyên tắc - tự nguyện, còn nguyên tắc
trong cuộc sống và tinh thần nội bộ của đảng lại hoàn toàn khác, thậm chí đối
ngược. Theo điều lệ, vào đảng là tự nguyện, còn trên thực tế là bắt buộc. Bởi
vì muốn có vị trí xác định trong công sở nhà nước thì bắt buộc vào đảng. Phẩm
chất công tác, khả năng, bậc thợ còn đứng sau một yêu cầu căn bản: có phải là đảng
viên không?
Trong chế độ phát xít, do việc sát
nhập với nhà nước, đảng cầm quyền đánh mất cả những tàn dư dân chủ cuối cùng
trong cuộc sống nội bộ, trở thành một tổ chức cảnh sát quân sự, giải quyết mọi
mâu thuẫn bằng nhà tù và tử hình. Trong đảng không còn tranh luận, bàn bạc
chính trị, nguyện vọng công khai, mà chỉ có sự thống nhất mù quáng, sự phục
tùng đồng loạt câm lặng, do thám và tố cáo lẫn nhau. Thay cho dân chủ là bè
phái chính trị, thay cho công khai là mờ ám. Ðảng trở thành hội những người
chung ý nghĩ, cùng một tư duy, vì họ không dám nghĩ.
Vì lý do này, Ban lãnh đạo đảng
không bao giờ bị thay đổi theo nguyện vọng và ý muốn của quần chúng đảng viên -
một điều bình thường đối với một đảng chính trị. Trong lịch sử của chủ nghĩa
phát xít, chưa từng có trường hợp nào mà các đảng viên có thể lật đổ Ban lãnh đạo
đảng và thay thế bằng những người mới. Nếu có sự biến đổi nào đó trong thành
phần Ban lãnh đạo thì thường là do cấp trên tiến hành. Mọi ý đồ thay đổi lãnh đạo
bị giới cầm quyền chóp bu xem như dấu hiệu thiếu tin tưởng, làm lung lay nền
móng của đảng và bị trừng phạt dã man. Giới cầm quyền chóp bu nắm giữ mọi
phương tiện kiểm soát và trừng phạt, trong khi quần chúng đảng viên hoàn toàn
không có chút quyền hạn gì, và thực tế không có khả năng chống đối lại đảng.
Quần chúng đảng viên thậm chí không có cả quyền được phát hành báo chí, để
trong trường hợp không đồng ý với ban lãnh đạo có thể nói lên ý kiến của mình.
Cơ quan ngôn luận của đảng chỉ cho phép quần chúng đảng viên được quyền sử dụng
khi họ bảo vệ đảng mà thôi. Trong lời khai tại tòa án Nuernberg, Goring nêu rõ:
"Chúng tôi thấy cần thiết không thể để bất kỳ xu hướng chống đối nào được
phép tồn tại. Nếu ai cũng biết rằng, nếu chống đối lại đảng sẽ phải vào tập
trung cải huấn... điều đó đối với chúng tôi rất có lợi." (90-60)
Ðặc thù cảnh sát trong đảng phát
xít còn được thể hiện đặc biệt rõ ở vấn đề rằng, đảng viên không được tự ý rời
bỏ đảng, mà chỉ được ra khỏi đảng khi ốm nặng hoặc chết. Trong trường hợp vẫn
cố tình từ bỏ đảng, người đó cần phải bị khai trừ.
Việc từ bỏ đảng là không thể cho
phép vì đối với quan điểm quốc xã, cá nhân đó có thể không còn phụ thuộc vào đảng,
thậm chí chống lại đảng.
2. Cấu trúc của Ðảng Công Nhân Quốc Xã.
Cấu trúc của Ðảng Công Nhân Quốc
Xã Ðức được xác định từ mục tiêu chiến lược của nó - lãnh đạo nhà nước và nhân
dân. Vì thế đảng được xây dựng trên nguyên tắc lãnh thổ . Ðế Chế được chia
thành vùng(khu), khu chia thành tỉnh, tỉnh chia thành huyện, huyện chia thành
xã, xã chia thành thôn. Ðứng đầu một đơn vị lãnh thổ là một lãnh đạo đảng: Thủ
lĩnh vùng (Bí thư khu ủy), Thũ lĩnh tỉnh (Bí thư tỉnh ủy), Thủ lĩnh huyện (Bí
thư huyện ủy), Thủ lĩnh xã (Bí thư đảng bộ), Thủ lĩnh thôn (Bí thư chi bộ) .
Lãnh đạo đảng ở Trung ương gọi là Thủ lĩnh Ðế Chế (Raihxlaiter). Thủ lĩnh Ðế
Chế gồm: Himler, Gobelx, Rozenberg, Hex, Lai, Dare... Mỗi Thủ lĩnh Ðế Chế phụ
trách một bộ phận của đảng. Thí dụ: Gobelx phụ trách tuyên truyền, Rozenberg -
giáo dục tư tưởng và chính trị cho các đảng viên...
Ðứng đầu đảng là Thống Lĩnh.
Nguyện vọng của Thống Lĩnh là pháp luật trong đảng. Vì Thống Lĩnh đồng thời là
Quốc Trưởng (người đứng đầu nhà nước) nên cần bổ nhiệm Phó Thống Lĩnh. Phó
Thống Lĩnh lãnh đạo đảng theo cương lĩnh và hướng dẫn của Thống Lĩnh. Trong tạp
chí của đảng năm 1941, đã nói về toàn quyền của Phó Thống Lĩnh như sau:
"Theo sắc lệnh của Thống Lĩnh
ban hành ngày 21.4.1933, Phó Thống Lĩnh có toàn quyền trên danh nghĩa Thống
Lĩnh, quyết định mọi vấn đề về lãnh đạo đảng. Như vậy, Phó Thống Lĩnh là đại
diện cho Thống Lĩnh với toàn quyền lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức. Văn
phòng Phó Thống Lĩnh cũng chính là văn phòng Thống Lĩnh.
Nhiệm vụ của Phó Thống Lĩnh là
lãnh đạo những vấn đề chính trị cơ bản, ban hành những chỉ thị và chăm lo sao
cho công tác đảng được tiến hành dựa trên những nguyên tắc quốc xã. Phó Thống
Lĩnh nắm giữ mọi đầu mối của công tác đảng. Phó Thống Lĩnh là người quyết định
cuối cùng về mọi vấn đề trong những kế hoạch nội bộ của đảng và về tất cả những
gì liên quan đến sự tồn tại của dân tộc Ðức..." (84-705)
Như vậy cấu trúc của Ðảng Quốc Xã
mang hình dáng kim tự tháp, đáy là những cán bộ cấp thấp nhất và đỉnh là Thống
Lĩnh của đảng. Ðáy của kim tự tháp này rất rộng. Ðiều này có thể minh họa bằng
số liệu trong hồ sơ của Ðảng Công Nhân Quốc Xã cho năm 1935-1939.
Lãnh đạo đảng:
Thủ lĩnh vùng: 33 (năm 1935); 41
(năm 1939)
Thủ lĩnh tỉnh: 855 (năm 1935); 808
(năm 1939)
Thủ lĩnh huyện: 21283 (năm 1935);
28376 (năm 1939)
Thủ lĩnh xã: 55764 (năm 1935);
89378 (năm 1939)
Thủ lĩnh thôn: 213737 (năm 1935);
463048 (năm 1939)
Các cán bộ lãnh đạo đều có bộ máy
dưới quyền. Bộ máy lãnh đạo của vùng và tỉnh có những bộ phận sau: tổ chức,
tuyên truyền, học tập, cán bộ, hành động. Những người cộng tác trong các bộ
phận này đều được trả lương. Trong thành phần các bộ máy này còn có kế toán,
nhưng kế toán này không thuộc quyền cai quản của cán bộ đảng có trách nhiệm, mà
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng của đảng.
Trong Ðảng quốc xã còn có
"những cán bộ danh dự", bao gồm số lượng đáng kể các chuyên gia, phần
lớn là luật sư, bác sĩ, giáo viên. Họ được xem như cán bộ danh dự vì làm việc
cho các đầu mối xã hội. Con số này vào khoảng 140 nghìn ngườị (89-394)
Tất cả mọi cơ sở đảng đều có quyền
hạn và nghĩa vụ, thể hiện rõ nét đặc thù hành chính của nó, sau khi sát nhập
với nhà nước.
Ðối với Thống Lĩnh, điều lệ ghi
rõ: "Thống Lĩnh có quyền bổ nhiệm các Thủ Lĩnh Ðế Chế và tất cả những lãnh
đạo chính trị, kể cả Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Ðế Chế" (89-9). Thống Lĩnh chỉ
có quyền, không có nghĩa vụ .
Thủ Lĩnh Ðế Chế không chỉ có
quyền, mà còn có cả nghĩa vụ . Thủ Lĩnh Ðế Chế do Thống Lĩnh bổ nhiệm và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Thống Lĩnh. Vai trò của các Thủ Lĩnh Ðế Chế là:
"Nắm giữ mọi đầu mối các tổ chức nhân dân và nhà nước Ðức." (89-9)
Trong điều lệ của đảng quốc xã về
các Thủ Lĩnh Ðế Chế và nhiệm vụ của chúng được ghi như sau: "Cấu trúc Ban
lãnh đạo Ðế Chế cần phải thiết lập, sao cho hệ thống liên kết giữa những tổ
chức đảng đầu tiên và Ban lãnh đạo có khả năng nhận biết được những yếu điểm và
biến đổi nhỏ nhất trong tinh thần nhân dân".
Một nhiệm vụ khác của Ban lãnh đạo
Ðế Chế là tuyển chọn cán bộ lãnh đạo và nhồi nhét hết khả năng tư tưởng quốc xã
trong mọi lĩnh vực đời sống. (89-13)
Bí thư Khu ủy cùng bộ máy dưới
quyền và lãnh đạo các cơ sở có nghĩa vụ, đảm bảo sự lãnh đạo của đảng quốc xã
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đảng và nhà nước, hướng dẫn những hành động
của đảng và các cơ sở đảng, tăng cường ảnh hưởng chính trị và tư tưởng của đảng
trong nhân dân thuộc vùng của mình.
Bí Thư Tỉnh ủy phải phục tùng Khu
ủy, nhưng được Thống Lĩnh trực tiếp bổ nhiệm. Trong điều lệ đảng ghi: "Bí
Thư Tỉnh ủy chịu trách nhiệm toàn diện trước Khu ủy về nhận thức chính trị và
tư tưởng của đảng viên và quần chúng trên lãnh thổ của mình." (89-14)
Bí Thư Huyện uy phải phục tùng
Tỉnh ủy và được Bí Thư Khu ủy tương ứng bổ nhiệm. "Bí Thư Huyện ủy chịu
trách nhiệm toàn diện về nhận thức chính trị của các cơ sở, tổ chức và những
chi nhánh của đảng. Bí Thư Huyện ủy có quyền phê phán mọi quyết định của Bí Thư
Tỉnh ủy, nếu như những quyết định này mâu thuẫn với quyền lợi của đảng..."
(89-14,15)
Bí Thư Ðảng Bộ là mắt xích trung
gian giữa các Bí Thư Tỉnh ủy và cán bộ đảng thấp nhất - Bí Thư Chi Bộ . Thông
thường Bí Thư Ðảng Bộ chịu trách nhiệm về bốn hoặc tám phố (thôn) và đảm nhiệm
việc giám sát các Bí Thư Chi Bộ . Theo điều lệ, Bí Thư Ðảng Bộ có nhiệm vụ như
Bí Thư Chi Bộ .
Bí Thư Chi Bộ thực tế là cán bộ đảng
duy nhất thường xuyên tiếp xúc với quần chúng. Bí Thư Chi Bộ chịu trách nhiệm
về phố (thôn)
vào khoảng 40 đến 60 gia đình.
Theo điều lệ, "Bí Thư Chi Bộ không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ tư tưởng quốc xã
và mang tư tưởng này đến với các đảng viên và dân chúng, mà còn phải xây dựng
sự hợp tác hỗ tương giữa các đảng viên trong khu vực của mình... Bí Thư Chi Bộ
có nhiệm vụ thường xuyên nhắc nhở cho các đảng viên về nghĩa vụ thiêng liêng
của họ đối với nhà nước và nhân dân..." (89-16)
Vị trí lãnh đạo càng cao bao
nhiêu, quyền lực trong đảng và trong nhà nước càng lớn bấy nhiêu.
Theo điều lệ của Ðảng Quốc Xã,
Thống Lĩnh, Bí Thư Khu ủy, Bí Thư Tỉnh ủy, Bí Thư Huyện ủy, Bí Thư Ðảng Bộ và
Bí Thư Chi Bộ là "những cán bộ đảng có trọng trách" (89-389), họ có
toàn quyền và còn được gọi là "giới lãnh đạo chính trị" hay "tập
đoàn lãnh đạo chính trị".
Ðảng phát xít Italia và Falanga
Tây Ban Nha cũng được xây dựng nhằm mục đích lãnh đạo chính trị nhà nước và xã
hội. Tổng Bí Thư Ðảng Phát Xít Italia có những bộ phận dưới quyền sau: Ban Bí
Thư Chính Trị, Ban Bí Thư Hành Chính, các hiệp hội tự quản, các cơ quan in ấn,
tuyên truyền, các tổ chức thanh niên, Hiệp Hội Phụ Nữ, Hội Các Gia Ðình Liệt Sĩ
Phát Xít, Hội Sinh Viên Ðại Học, Ban Bí Thư Chính Trị kiểm tra hoạt động của
những hiệp hội sau: giáo viên phát xít, công nhân đường sắt phát xít, bưu điện
- điện tín phát xít...
Các cơ sở trong bộ máy của Falanga
cũng thâu tóm quyền lực như thế: Ban đối ngoại, giáo dục nhân dân, diễn đàn và
tuyên truyền, phụ nữ, xã hội, công đoàn, thanh niên, cựu chiến binh, tài chính
- hành chính...
Mục đích của đảng phát xít - lãnh đạo
nhà nước và toàn bộ xã hội - xác định nguyên tắc tổ chức của nó và nguyên tắc
cơ bản là tập trung quan liêu. Nguyên tắc này có thể tóm tắt như sau:
(a) Cấp dưới phục tùng vô điều
kiện cấp trên;
(b) Cấp trên bổ nhiệm cấp dưới, tổ
chức cao bổ nhiệm tổ chức thấp;
(c) Cấp dưới chịu sự kiểm soát và
chịu trách nhiệm đối với cấp trên.
Chấp nhận những nguyên tắc này,
một mặt đảng phát xít bị biến thành cấu trúc đẳng cấp, và nếu không xét đến sự
cuồng tín, thì không khác gì một đẳng cấp nhà nước quan liêu, cấp dưới không có
một chút quyền tự chủ nào; mặt khác nó trở thành một đảng -quân đội, trong đó
không còn tranh luận, bàn cãi, ý kiến công khai: mọi thành viên đều là người
lính của đảng, sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy.
Vào tháng 9.1928, Bí Thư Ðảng Phát
Xít Italia tuyên bố công khai: "Thật sai lầm nếu như nghĩ rằng, trong đảng
có sự lựa chọn hay cấp dưới có quyền đối với cấp trên... Những người phát xít
không khác gì một đội quân. Và đội quân thì phải phục tùng, chiến đấu, hy sinh,
nhưng không thể bổ nhiệm cấp chỉ huy của mình và không thể nghi ngờ các mệnh
lệnh." (110-74)
Chúng ta hãy đọc một đoạn trong
lời thề của đảng viên mới được kết nạp: "Tôi xin thề sẽ thi hành vô điều
kiện mọi mệnh lệnh của người chỉ huy, sẽ phục vụ bằng tất cả khả năng của mình
và nếu cần, cả bằng máu cho sự nghiệp của cuộc cách mạng phát xít."
(112-86)
Vào năm 1922, khi trả lời về những
lo ngại do sự phát triển đảng quá mức cần thiết, Muxolini đã nói: "Những
kẻ lắm lời có thể tham gia đảng của những người ưa tranh luận, chứ không phải
là đảng bao gồm các chiến sĩ như đảng ta. Kỷ luật chính trị của chúng ta cũng đồng
thời là kỷ luật của quân sự . Những chiến sĩ trẻ của chúng ta muốn chiến đấu
chứ không ưa tranh luận. Thậm chí chúng ta cũng không cho phép những tổ chức
nghiệp đoàn được như vậy. Chúng ta sẽ bảo vệ quyền lợi công nhân, nhưng nếu
cần, chúng ta cũng có thể đàn áp." (17-100)
Ông già, đã từng giữ chức Bí Thư
Ðảng Phát Xít trong những năm 30, cho rằng muốn có kỷ luật cho người Italia cần
phải bắt họ vào đảng. Không phải ngẫu nhiên mà vào tháng 10.1937, đảng phát xít
có tới hơn 2 triệu thành viên, và nếu kể cả những tổ chức phụ thuộc là 10
triệu. (44-111)
3. Thâu tóm toàn bộ dân chúng vào các tổ chức quốc
gia.
Ðể kết thúc quá trình đồng hóa,
nghĩa là để phân chuyển sự kiểm soát của đảng phát xít trên toàn xã hội, chế độ
thâu tóm mọi thành viên của mình vào các tổ chức quần chúng. Rõ ràng trên thực
tế, đảng phát xít không thể kiểm soát từng công dân riêng biệt. Nhưng điều này
có thể đạt được bằng cách sắp xếp dân chúng vào những tổ chức xã hội nào đó và đặt
các tổ chức này dưới quyền kiểm soát của đảng thống trị . Như vậy, các tổ chức
quần chúng trở thành những tổ chức tiếp diễn của đảng hay nhà nước (vì đảng và
nhà nước đã sát nhập với nhau). Biện pháp chính trị này là vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng nhà nước độc tài biến họ thành những công cụ cho mục đích
của mình, khiến họ không còn có thể phản kháng. Vì vậy, nhà nước độc tài có thể
xem là "xã hội được tổ chức".
Bọn quốc xã đã bắt đầu thực hiện
chương trình này ngay từ những ngày cầm quyền đầu tiên. Ðể thay thế cho những
tổ chức quần chúng cũ từ thời nền cộng hòa Vaimar (2) đã bị giải tán, bọn quốc
xã thành lập các tổ chức mới, còn quần chúng hơn, và đặt chúng dưới sự kiểm
soát của đảng. Thay cho những tổ chức công đoàn tự do là Mặt Trận Lao Ðộng Ðức,
thay cho rất nhiều tổ chức thanh niên khác nhau là "Thế Hệ Hitler",
còn những tổ chức thiếu niên trong các trường học được thống nhất lại thành tổ
chức Nhi Ðồng ("Người Công Dân Trẻ") .
Ðồng thời bọn quốc xã thành lập
các hiệp hội mới: Hội Sinh Viên Quốc Xã, Liên Hiệp Phụ Nữ, Liên Hiệp Giảng Viên
Ðại Học Ðức, Hội Luật Sư Ðức, Hội Quốc Xã Các Giáo Viên, Hội Các Gia Ðình Người
Ðức...
Các tổ chức quần chúng này thâu
tóm toàn bộ nhân dân Ðức. Không còn công dân nào trên lãnh thổ Ðế Chế mà lại
không thuộc một tổ chức hay hiệp hội nào đó.
Vào năm 1939, chỉ riêng Mặt Trận
Lao Ðộng Ðức đã có tới 23 triệu thành viên, "Thế Hệ Hitler" - 8
triệu. Tất cả các tổ chức quần chúng đều không có cương lĩnh riêng, vì đều phải
công nhận và thực hiện theo cương lĩnh của Ðảng Quốc Xã; đồng thời được xây
dựng trên nguyên tắc của đảng này: tập trung, phục tùng và đẳng cấp, v.v...
Về vấn đề này, Chủ Tịch Mặt Trận
Lao Ðộng Ðức, Thủ Lĩnh Ðế Chế R. Lai, trong diễn văn đọc tại Ðại hội Ðảng ngày
13.1936 đã nói như sau: "... Mặt trận Lao động Ðức là tổ chức của đảng và
chịu sự lãnh đạo của đảng. Cũng giống như đảng, Mặt trận Lao động Ðức cần phải được
tự tổ chức trên nguyên tắc lãnh thổ ." (89-35)
Ðảng phát xít đảm bảo sự lãnh đạo
trực tiếp của mình đối với các tổ chức quần chúng bằng cách cử những Thủ lĩnh
chính trị nắm giữ vị trí lãnh đạo của những tổ chức này. Ðứng đầu những tổ chức
quần chúng đều là các đảng viên quốc xã sừng sỏ nhất: đứng đầu Hội Cơ Khí Ðức
là Speer, Hội Giảng Viên quốc xã - Vexler, Hội Bác Sĩ - Coti, Hội Luật Sư quốc
xã - Tirac,
v.v...
Sự lãnh đạo của đảng, đối với các
tổ chức quần chúng, được đảm bảo gấp đôi. Không chỉ những thủ lĩnh các tổ chức
quần chúng là những đảng viên phát xít sừng sỏ, mà cả những vị trí lãnh đạo các
tổ chức cơ sở của chúng cũng đều do các đảng viên phát xít chiếm giữ.
Nếu không có sự đồng ý của cán bộ đảng
cao cấp, lãnh đạo của các tổ chức quần chúng không được quyết định những vấn đề
mang ý nghĩa chính trị và quốc gia quan trọng. Trong sắc lệnh do Hex ban hành
ngày 25.10.1934, ghi rõ: "Các cán bộ của các tổ chức đảng, cũng như các
Thủ lĩnh Ðế chế, lãnh đạo SA, SS, "Thế Hệ Hitler" và những tổ chức
phụ thuộc khác không được phép thỏa thuận bất cứ một vấn đề mang tính chất
chính trị nào với các tổ chức khác, nếu như không được sự đồng ý của cán bộ đảng
có thẩm quyền tương ứng." (89-21)
Khi bổ nhiệm cán bộ "Thế Hệ
Hitler", các cơ sở của tổ chức này bắt buộc phải tham khảo ý kiến của cán
bộ đảng có thẩm quyền trong vùng đó. Như vậy, "Lãnh đạo đảng có quyền bãi
bỏ những cán bộ không xứng đáng cho việc lãnh đạo thanh niên. Và nếu trước đó
không có sự đồng ý của lãnh đạo đảng, lãnh đạo đảng có thể thay đổi việc bổ
nhiệm này trong trường hợp thấy cần thiết." (89-20)
Việc các tổ chức quần chúng bị đặt
dưới sự lãnh đạo, hay đúng hơn - dưới sự kiểm soát của đảng phát xít, không
tránh khỏi biến chúng thành những tổ chức quốc gia (vì đảng thống nhất với nhà
nước). Từ đó suy ra rằng, các tổ chức này bảo vệ quyền lợi cho nhà nước phát
xít, chứ không phải cho những thành viên của mình. Chúng ta hãy lấy ví dụ về
Mặt Trận Lao Ðộng Ðức. Trước đây trong nền Cộng Hòa Vaimar, tổ chức tương ứng
(những tổ chức công đoàn) bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân trước nhà
nước của giới tư sản thông qua các cuộc biểu tình, bãi công, đòi tăng lương,
thay đổi điều kiện làm việc, chống việc đuổi công nhân, v.v...
Tất cả những vấn đề này bị thay đổi
hoàn toàn sau khi Mặt Trận Lao Ðộng Ðức được thiết lập. Trước hết, là tư tưởng
bá chủ của đảng không công nhận bất kỳ mâu thuẫn nào trong quyền lợi nhà nước
và các thành viên của tổ chức này. Bãi công, biểu tình, v.v... bị cấm hoàn toàn
vì như thế là chống lại nhân dân và nước Ðức. Theo hệ tư tưởng quốc xã, nhân
dân, nhà nước, quê hương và lãnh tụ được ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và vì
vậy, nếu ai chống lại một mắt xích bất kỳ nào trong chuỗi này, cũng đồng thời
chạm tới toàn bộ dây chuyền. Nếu một cuộc bãi công nhằm chống lại chính sách
kinh tế nhà nước, thì theo cách suy luận logic quốc xã, nó đồng thời cũng chống
lại quê hương và nhân dân. Do đó, trên danh nghĩa nhân dân và quê hương, cần
phải đàn áp thẳng thừng cuộc bãi công này.
Trong một tài liệu đặc biệt, việc
chống bãi công được vạch rõ: "... Ðàn áp thẳng thừng cuộc bãi công đầu
tiên là phương pháp tốt nhất để ngăn chặn và làm gương cho những vụ tái diễn
khác." (103-180). Trong diễn văn ngày 17.5.1953, R.Lai, Chủ tịch Mặt trận
Lao động Ðức, khi nói về tính chất và nhiệm vụ của tổ chức này đã không quên
nhấn mạnh rằng, không thể cho phép các cuộc bãi công xảy ra, "... chỉ có
kẻ thù mới quan tâm đến bãi công." (103-127)
Không còn bãi công, tranh luận,
bàn cãi. Ðảng Công Nhân Quốc Xã sắp xếp tất cả; hơn ai hết đảng biết cái gì nên
làm, cái gì không nên làm. Ðảng được công nhận một cách hiển nhiên là không thể
sai lầm và bao giờ cũng dẫn dắt nhân dân Ðức (trong đó có Mặt Trận Lao Ðộng
Ðức) đi theo con đường đúng đắn nhất. Và nếu con đường này yêu cầu sự hy sinh,
thì nhân dân phải sẵn sàng.
Tính chất quốc gia của Mặt Trận
Lao Ðộng Ðức không chỉ thể hiện ở chỗ lãnh đạo của tổ chức này là đảng viên
quốc xã, và cũng không chỉ riêng trong lĩnh vực tư tưởng, mà còn cả trong chính
sách kinh tế hiện thực của nó.
Với sắc luật "Về Trật Tự
Trong Lao Ðộng", các hội đồng công nhân từ thời Cộng Hòa Vaimar đều bị xóa
bỏ và thay vào đó bằng cái gọi là "Hội Ðồng Tin Tưởng". Chỉ có chủ
xướng và lãnh đạo đảng quốc xã tại cơ sở đó mới được quyền đề cử thành viên của
những hội đồng này. Tháng 2.1935, hệ thống "sổ lao động" được thiết
lập. Trong sổ lao động ghi rõ nơi làm việc, nơi cư trú của người công nhân. Nếu
không được sự đồng ý của lãnh đạo nhà máy tương ứng thì người công nhân không
thể tự ý bỏ việc làm, vì không còn nơi nào nhận anh ta nữa.
Như vậy nhà nước độc tài phát xít đã
đẩy lùi xã hội về sau thời đại của nền dân chủ tư sản tự do, bãi bỏ quyền tự do
lao động - quyền lợi đầu tiên lớn nhất của nền dân chủ sau sự sụp đổ của chế độ
phong kiến; đồng thời tái lập chính sách lao động cưỡng bức kinh tế ngoại lệ đối
với những người lao động.
Về vấn đề này, hệ thống nghiệp đoàn
mà phát xít Italia sáng lập ra còn hoàn thiện hơn nhiều. Muxolini đã từng nói:
"Nhà nước nghiệp đoàn là hệ thống điển hình và là niềm tự hào của cuộc
cách mạng phát xít."(10-53). Bằng 12 liên hiệp ngành nghề của công nhân và
chủ xưởng, nhà nước phát xít thâu tóm toàn bộ xã hội công chúng (công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông đường biển, hàng không, đường bộ và đường
sông); và kể cả những ngành nghề tự do là liên hiệp thứ 13. Tham gia các nghiệp
đoàn này là bắt buộc, bằng cách thu đoàn phí thông qua hệ thống hành chính.
Việc lãnh đạo và kiểm soát của Nhà
nước đối với hệ thống nghiệp đoàn được thực hiện nhờ "sắc luật nghiệp đoàn"
ban hành ngày 3.4.1926. Theo luật này, "mỗi một dạng chủ xưởng, công nhân,
nghệ sĩ, v.v... chỉ được công nhận một hiệp hội hợp pháp" (112-133). Không
được phép nhiều hơn, vì như thế sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát của nhà nước
và đi ngược lại mục đích cơ bản của nó - đồng nhất xã hội.
Ðối với những hiệp hội được nhà
nước công nhận, điều luật đưa ra hàng loạt hạn chế khiến chúng phải phụ thuộc
tuyệt đối vào nhà nước:
"(1)Các hiệp hội không được
liên kết với những tổ chức quốc tế, nếu không được sự đồng ý của cơ quan nhà
nước;
(2)Việc bổ nhiệm hay bầu cử chủ
tịch và thư ký các hiệp hội cơ sở sẽ không có hiệu lực, nếu không có công văn
xác nhận của bộ chủ quản và sự đồng ý của Bộ Nội Vụ ." (112-133)
Thậm chí từ ngày 20.3.1930 Hội
Ðồng Dân Tộc Nghiệp Ðoàn đã trở thành cơ quan hợp pháp của nhà nước, đứng đầu
là Thủ Tướng chính phủ . Ðiều này đã khẳng định toàn quyền của nhà nước đối với
các tổ chức và hệ thống nghiệp đoàn.
Thực chất, phát xít Italia là thí
dụ điển hình về việc đảng điều hành bộ máy của nhà nước và thông qua đó mà
khống chế toàn bộ xã hội. Những nghiệp đoàn thăng tiến của Tây Ban Nha chỉ là
bản sao của hệ thống nghiệp đoàn ở Italia. Chúng chỉ khác nhau một điểm nhỏ là
ở Italia các nghiệp đoàn phụ thuộc vào nhà nước nhiều hơn là vào đảng, còn ở
Tây Ban Nha Những Nghiệp Ðoàn Thăng Tiến bị đặt dưới sự kiểm soát và giám sát
trực tiếp của đảng Falanga.
Nhưng dù có sự khác nhau trong
việc thành lập các tổ chức quần chúng tại ba nhà nước phát xít, nguyên tắc
chung chỉ là một - nguyên tắc độc tài.
Theo những tài liệu chính gốc,
việc đảng phát xít sắp xếp thanh niên vào một tổ chức duy nhất không chỉ nhằm
mục đích thâu tóm và kiểm soát họ như một bộ phận nhân dân, mà còn xem tổ chức
thanh niên như một công cụ dùng để giáo dục thế hệ trẻ theo tinh thần tư tưởng
và ý thức sẵn sàng phục vụ cho sự nghiệp phát xít.
Cũng giống như những tổ chức quần
chúng khác, "Thế Hệ Hitler" không có cương lĩnh riêng ngoài cương
lĩnh của Ðảng Quốc Xã. Trong tác phẩm Thế Hệ Hitler, Fon Sirah viết:
"Nhiệm vụ của tôi là giáo dục tinh thần thế hệ trẻ theo những mục đích, tư
tưởng và chỉ thị của Ðảng Công Nhân Quốc Xã, đồng thời lãnh đạo và tổ chức họ
." (84-700)
Giới lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc
Xã chú trọng đặc biệt đến vấn đề giáo dục tư tưởng cho các thành viên của
"Thế Hệ Trẻ" theo tinh thần tư tưởng quốc xã. Trong một bài báo về
giáo dục chống tôn giáo cho "Thế Hệ Hitler", Rozenberg viết:
"Chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trong sự nghiệp truyền bá tư
tưởng quốc xã cho thanh niên Ðức. Tổ chức thanh niên Thiên Chúa Giáo chỉ còn
lại những nhóm nhỏ và sắp tới sẽ được sát nhập vào các cơ sở của "Thế Hệ
Hitler..." (84-701)
Tổ chức "Thế hệ Hitler"
tiến hành nhiều biện pháp đặc biệt nhằm nhồi nhét tư tưởng quốc xã cho thanh
niên Ðức; trong đó có việc mở các trường Aldolf Hitler mà chỉ những thành viên
xuất sắc được tuyển chọn của tổ chức Người Công Dân trẻ mới có quyền được vào
học (84-700).
Ban lãnh đạo Ðảng Quốc Xã tổ chức
"Thế hệ Hitler" như lực lượng cán bộ dự bị cho bộ máy nhà nước. Ðảng
Quốc Xã chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những đoàn viên thanh niên "Thế
Hệ Hitler" ưu tú nhất, và những người có khả năng làm công tác tổ chức thì
được gửi vào học tại trường đảng cao cấp Adolf Hitler. Sau khi tốt nghiệp,
những người này được đảm nhận công tác lãnh đạo trong bộ máy đảng và nhà nước.
Nếu tin vào những băng ghi âm của
X. Rausing thì bản thân Hitler cũng quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo dục thanh
niên theo tinh thần quốc xã. Hitler xem số phận tương lai của chế độ quốc xã
liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp giáo dục này:
"Tôi cần phải trở thành một
nhà giáo dục nghiêm khắc... Chúng ta sẽ bắt đầu một sự nghiệp giáo dục thanh
niên vĩ đạị Chúng ta đã già rồi. Chúng ta không còn bầu nhiệt huyết nóng hổi.
Chúng ta đã trở nên hèn nhát và mẫn cảm. Nhưng còn thế hệ trẻ tuyệt vời của
tôi! Liệu trên thế giới này có gì đẹp hơn không?
Các ngài hãy nhìn những chàng trai
và những cô gái trẻ này. Họ tuyệt vời làm sao. Tôi sẽ dùng họ để xây dựng một
thế giới mới...
Biện pháp giáo dục của tôi rất
nghiêm khắc. Tôi sẽ dùng búa để đẽo gọt và vứt bỏ những gì bị hư hỏng. Chúng ta
sẽ tạo nên một thế hệ trẻ mà thế giới nhìn vào phải run sợ . Một thế hệ trẻ
hùng mạnh, quyền thế, dũng cảm và không hề biết run sợ . Tôi muốn một thế hệ
như thế. Thế hệ trẻ có thể mang được những gánh nặng bất hạnh trên vai. Tôi
không muốn thế hệ trẻ có những biểu hiện yếu đuối và ủy mi.... Tôi sẽ huấn
luyện cho họ những bài tập thể lực. Trước hết cần mạnh mẽ: Ðó là điều quan
trọng nhất" (52-57).
Theo điều luật về thanh niên, từ
tháng 12.1936 "Thế Hệ Hitler" được tuyên bố là tổ chức thanh niên duy
nhất ở Ðức có quyền tổ chức và giáo dục thanh niên. Ðiều luật nêu rõ:
"Toàn bộ thanh niên Ðức tham gia tổ chức "Thế Hệ Hitler". Ngoài
gia đình và nhà trường, thanh niên Ðức còn được giáo dục thể lực, tri thức và đạo
đức theo tinh thần quốc xã để phục vụ cho nhân dân và tổ quốc của mình. Sự
nghiệp giáo dục này được thực hiện thông qua "Thế Hệ Hitler"
(84-699).
Tính chất quốc gia của "Thế
Hệ Hitler" được thể hiện rõ ràng hơn trong mối quan hệ của nó với các tổ
chức nhà nước phản động nhất như cảnh sát (SS và SA) và quân đội. "Thế Hệ
Hitler" tuyển chọn hàng trăm ngàn thành viên của mình cho quân đội. Giáo
dục quân sự cho thanh niên được chú trọng cho tất cả mọi hình thức và tùy thuộc
sở thích từng người. "Trong các trường đào tạo cán bộ của "Thế Hệ
Hitler" và đặc biệt là tại hai trường cao cấp đều có môn tập bắn súng và
huấn luyện trên hiện trường..." (88-298).
Nhà nước độc tài không chỉ quan
tâm đến việc thâu tóm mọi công dân vào một tổ chức nào đó, mà còn kiểm soát
chặt chẽ từng giai đoạn trong cuộc đời của họ theo lứa tuổi.
Ở Ðức:
Từ 10-14 tuổi thuộc tổ chức Người
công dân trẻ .
Từ 14-18 tuổi - "Thế Hệ
Hitler".
Từ 18-20 tuổi - các tổ chức đảng
SS, SA, v.v...
Từ 20-21 tuổi: Mặt trận lao động.
Từ 21-23 tuổi - tham gia nghĩa vụ
quân sự .
Từ 23 tuổi trở đi - tham gia những
tổ chức khác nhau của chế độ quốc xã và Ðảng Quốc Xã.
Ở Ytalia:
Từ 8-15 tuổi thuộc tổ chức Balila.
Từ 15-21 tuổi - Abangard.
Từ 21-30 tuổi - công an phát xít.
Sau đó tham gia Ðảng phát xít hay
những tổ chức quốc gia cho đến hết đời.
Ở Tây ban nha:
Từ 7-17 tuổi thuộc tổ chức Mặt
trận thanh thiếu niên, gồm 3 bậc: con trai - "Mũi tên",
"Pelalox", "Thiếu sinh quân"; con gái - "Hạt
xoàn", "Mũi tên" và "Mũi tên xanh". Sau đó những người
theo học đại học thì tham gia các tổ chức nghiệp đoàn sinh viên quốc gia, còn
những người trực tiếp sản xuất - "Nghiệp đoàn thăng tiến".
Với tham vọng thâu tóm và kiểm
soát tổng thể xã hội, bọn phát xít còn thành lập những câu lạc bộ quần chúng,
kiểm soát mọi hoạt động của con người trong cả thời gian nghỉ ngơi. ở Ðức, tổ
chức này mang tên "Sức mạnh niềm vui". "Sức mạnh niềm vui"
tổ chức những cuộc gặp gỡ, tọa đàm, những chuyến bay tập thể, những nhóm nghiên
cứu va tất cả những gì mà con người có thể làm trong thời gian rỗi, nhưng bắt
buộc phải theo tinh thần và nguyên tắc của cộng đồng quốc xã.
Ở Ytalia, tổ chức tương tự được
gọi là "Dopolavoro" (nghĩa đen là "sau công việc"). Ðây là
tổ chức lớn nhất được thành lập từ năm 1926 như một bộ phận không thể tách rời
còn nhà nước nghiệp đoàn phát xít Italia.
4. Ðồng hóa cuộc sống tinh thần.
Sau khi nắm quyền lãnh đạo nhà
nước và các tổ chức quần chúng, đảng phát xít phân chuyển sự kiểm soát của mình
trên toàn xã hội và cuộc sống tinh thần của nó. Việc kiểm soát này được thực
hiện theo hai cách:
(1) Thông qua "tổ chức",
"thâu tóm" tất cả những người trí thức vào những hiệp hội sáng tạo
dưới sự quan sát của nhà nước;
(2) Thông qua áp đặt tính đảng về
cái đẹp, cái tốt, cái xấu, sự công bằng... trong văn học và nghệ thuật.
A.
Thâu tóm tổng thể giới trí thức vào các hiệp hội.
Với tham vọng kiểm soát tổng thể
toàn bộ cuộc sống tinh thần, đảng phát xít cưỡng ép tất cả những người làm công
tác sáng tạo trong lĩnh vực lao động trí óc (bác học, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ,
điêu khắc, kiến trúc, đạo diễn, v.v...) tham gia những hiệp hội tương ứng. ở
ngoài các tổ chức, hiệp hội này thì không ai có thể còn là trí thức: nhà văn
không còn là nhà văn, diễn viên không còn là diễn viên, nhạc sĩ không còn là
nhạc sĩ, v.v...
Vào mùa xuân năm 1935, P. Toliati đã
viết: "Hiện nay ở Italia, không ai có thể trở thành nhà văn, giáo viên,
giảng viên nếu không phải là đảng viên phát xít. Ðiều này còn được thể hiện ở
cả những nghề tự do như luật sư, nhà báo... Tất cả đều bắt buộc phải tham gia đảng
phát xít, thâm chí cả bác sĩ: không phải là đảng viên, thì không thể là bác sĩ
công chính." (116-80).
Tại nước Ðức phát xít, nguyên tắc
này còn được thể hiện triệt để hơn nhiều.
Chỉ thị số 112 của Ủy Ban Văn Hóa
Ðế Chế ngày 20.8.1937 vạch rõ sự cần thiết "phải thuộc một hiệp hội nào đó"
(178-107). Thực ra vấn đề này đã được tiến hành sớm hơn nhiều bằng sắc luật
ngày 22.9.1933: "Mọi sáng tác văn hóa cần được tổ chức lại."
(151-195)
Cơ cấu thâu tóm này được thể hiện
như sau: "Toàn bộ cuộc sống tinh thần tập trung tại Ủy Ban Văn Hóa Ðế Chế
dưới sự kiểm soát của Bộ Trưởng Tuyên Truyền và Giáo Dục Nhân Dân - Tiến sĩ
Gobelx. Ủy Ban Văn Hóa có bảy ban: Ban nhà hát, Ban thể hiện nghệ thuật, Ban văn
học, Ban điện ảnh... Các ban văn hóa này thâu tóm những hiệp hội tương ứng. Thí
dụ Ban nhà hát có những hiệp hội: Hội Sân Khấu Ðức, Hội Diễn Viên Ðức...
Cần phải hiểu chính xác ý nghĩa
của những hiệp hội trí thức mà chế độ phát xít tạo ra. Vấn đề không phải là sự
tồn tại các hiệp hội trí thức - xã hội nào cũng có những tổ chức như thế, cũng
không phải ở việc bắt buộc phải tham gia các tổ chức này, mà là ở vai trò của
chúng, bị nhà nước sử dụng như công cụ nhằm kiểm soát giới trí thức. Cũng tương
tự như các tổ chức quần chúng quốc gia, những hiệp hội trí thức được thành lập
không phải để bảo vệ quyền lợi cho các thành viên của chúng trước hệ thống nhà
nước quan liêu, mà ngược lại - đặt quyền lợi nhà nước lên trên quyền lợi của
những người trí thức. Thông qua những tổ chức này, nhà nước phát xít bắt giới
trí thức phải quy phục. Bởi vì các hiệp hội cũng được xây dựng dựa trên những
nguyên tắc quan liêu như nhà nước và đảng phát xít: tập trung cao độ, phục tùng
vô điều kiện cấp trên, giao vị trí lãnh đạo cho những kẻ có công lao chính trị,
dễ sai... Kết quả là trình độ, khả năng, tài năng và thiên tài bị đẩy lùi. Một
hiệp hội trí thức, mà nhiệm vụ chỉ phục tùng, nghe lời nhà nước, theo dõi những
tư tưởng và suy nghĩ tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ tư tưởng quốc gia, là
một hình thức hủy diệt giới trí thức. Ðiều này thật có lợi cho nhà nước, vì đã
không cần dùng chính tay mình để thực hiện mưu đồ đó.
Tập trung cưỡng ép tất cả những
người trí thức trong một lĩnh vực vào một hiệp hội, đặt trí tuệ và dốt nát, tài
năng và tầm thường vào cùng một vị trí, nhà nước phát xít tiếp tay cho bọn bất
tài chống lại những bộ óc thông thái, giúp bọn tầm thường chống lại các tài năng.
Hơn thế nữa, nhà nước trao tổ chức vào tay những kẻ dốt nát và tầm thường để
chống lại tài năng và thiên tài. Trong các hiệp hội, bọn tầm thường, dốt nát là
những kẻ cộng tác đắc lực với nhà nước chống lại tư duy và những biểu hiện tự
do của người trí thức. Nhà nước quan liêu và sự dốt nát liên quan chặt chẽ với
nhau trong lĩnh vực tinh thần, vì nâng đỡ sự tầm thường và vô bản sắc là một
trong những nguyên tắc cơ bản của đẳng cấp quan liêu.
Ở đây nhà nước phát xít và bọn tầm
thường có cùng chung quyền lợi. Nhà nước phát xít quan tâm đến việc hủy diệt tự
do suy nghĩ và tính độc lập của giới trí thức, bởi vì điều đó đi ngược lại những
nguyên tắc cơ bản của nó. Nếu nhà nước độc tài cho phép tự do công kích, bản
thân chế độ sẽ bị tan rã vì trong công cuộc đấu tranh công khai, những nguyên
tắc quan liêu không thể đứng vững trước sức phản kháng của tư tưởng tự do dân
chủ . Do đó nhà nước độc tài cần phải hủy diệt giới trí thức chân chính với
tính tự chủ, công kích và độc lập của họ . Rõ ràng bọn tầm thường cũng quan tâm
đến những vấn đề này, bởi vì trong điều kiện cạnh tranh tự do, chúng không thể
thắng các tài năng.
Như vậy với việc thâu tóm tổng thể
giới trí thức vào những hiệp hội quốc gia, dựa vào bọn tầm thường như những hạt
nhân cơ bản, nhà nước phát xít hủy diệt giới trí thức chân chính và tạo nên một
giới trí thức giả danh - tự xem là chiếm được lòng tin cao nhất đối với nhà nước
và lãnh tụ dân tộc.
Tuy nhiên đối với nhà nước, quá
trình này được nhìn nhận dưới một góc độ khác hoàn toàn. Theo các nhà tưởng
phát xít, nhà nước không hủy diệt giới trí thức mà ngược lại chỉ đuổi những
phần tử "vô chính phủ" và "hư vô" - những kẻ ngăn chặn và
cản trở giới trí thức trong công tác sáng tạo. Khi nâng đỡ bọn bất tài - những
kẻ sẵn sàng cộng tác hoặc đã thể hiện được lòng trung thành của mình đối với
nhà nước, nhà nước phát xít cho rằng đã sáng tạo được một giới trí thức mới
("chân chính") - giới trí thức sẵn sàng phục vụ nhân dân và nhà nước;
đồng thời trao quyền lãnh đạo các hiệp hội cho bọn bán trí thức này.
Ðứng đầu các hiệp hội trí thức ở
Ðức là những kẻ bất tài nhất. Chủ nhiệm Ban nghệ thuật là giáo sư A. Sigler, kẻ
được Hitler ngưỡng mộ, một họa sĩ dưới mức tầm thường. Hai bức họa điển hình
của Sigler - "Nữ Thần Nghệ Thuật" và "Bốn Cơ Cấu" - với
tính thực dụng thô thiển và những chi tiết hủ lậu, gây nên nỗi thất vọng vô bờ
cho bất cứ người am hiểu nghệ thuật nào. Hội trưởng hội Giáo sư là giáo sư -
tiến sĩ Sulxe, kẻ không có tiếng tăm gì trong khoa học nhưng có nhiều công lao
chính trị ... Và sau hết Chủ tịch Ủy Ban Văn Hóa Ðế Chế là tiến sĩ Gobelx.
B. Nghệ
thuật và văn học phải phục tùng đảng phát xít.
Tổ chức những người trí thức vào
các hiệp hội không chỉ là mục đích mà trước hết là công cụ, nhằm nhồi nhét tư
tưởng và tiêu chuẩn của đảng cho nghệ thuật và văn học. Sau khi đạt được sự
thống trị chính trị tuyệt đối trên mọi lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã
hội, đảng phát xít không thể cho phép văn học và nghệ thuật đi ngược lại những
quan niệm của đảng về cái hay, cái đẹp, cái xấu, cái tốt, anh hùng, lẽ công
bằng... Ngược lại đảng cần phải thấy những tư tưởng thẩm mỹ và tinh thần của
mình bao trùm trên mọi sáng tạo nghệ thuật.
Trên cơ sở lập luận như vậy, đảng
phát xít tự cho là có quyền giao nhiệm vụ cho những người trí thức; đồng thời đòi
hỏi những tác phẩm nghệ thuật của họ phải phù hợp với thị hiếu của đảng. Ðảng
phát xít xem văn học và nghệ thuật như những thứ vũ khí đấu tranh hay sự nghiệp
giáo dục. Văn học và nghệ thuật chỉ có lợi cho đảng phát xít trong trường hợp
duy nhất: dùng những phương tiện nghệ thuật để giáo dục nhân dân theo tinh thần
và ý nghĩa của tư tưởng phát xít, nghĩ là mang đến cho nhân dân những tư tưởng
quốc xã dưới hình thức nghệ thuật. ở đây văn học và nghệ thuật được xem như
công cụ tuyên truyền, chỉ khác tuyên truyền thông thường là có tính lâu bền và
tác động sâu sắc hơn. Bí thư Bộ Tuyên Truyền Valter Func đã từng tuyên bố:
"Tuyên truyền và lãnh đạo văn học là không thể tách rời." (151-257).
Nhưng để có thể thực hiện được chức năng này, văn học và nghệ thuật được giao
nhiệm vụ trước tiên phải đi sâu đi sát quảng đại quần chúng, tác động đến quần
chúng thông qua việc lựa chọn chủ đề sáng tác và phương pháp thể hiện. Nhiệm vụ
đầu tiên này được gọi là Sự Gắn Bó Của Nghệ Thuật Với Nhân Dân. Tiến sĩ Hanx
Ciner viết:
"Thống lĩnh muốn nghiệ thuật
Ðức phải từ nhân dân mà ra và vì nhân dân phục vụ . Người muốn tác động giáo
dục và luân lý của nghệ thuật cần phải được trau dồi hơn nữa.
... Thống lĩnh muốn người họa sĩ
Ðức phải từ bỏ tính không cởi mở và phải gần gũi với nhân dân; và điều này cần được
phản ánh trong việc lựa chọn chủ đề sáng tác: cần phải mang tính nhân dân, dễ
hiểu và phải nằm trong khuôn khổ tư tưởng quốc xã và dũng cảm và anh
hùng." (178-200)
Chức năng xã hội mà bọn phát xít
giao cho nghệ thuật (giáo dục nhân dân theo tinh thần tư tưởng của đảng), còn được
thể hiện rõ ràng hơn trong tờ báo SS Ðội Quân Ðen số ra ngày 25.2.1937:
"Chức năng giáo dục của nghệ thuật là dạy bảo nhân dân theo ý nghĩa lành
mạnh nhất của từ này, bởi vì nó thức tỉnh trong con người những tình cảm tốt đẹp,
khẳng định cuộc sống". (178-200)
Các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ
thuật của Ðệ Tam Ðế Chế đều viết trên tinh thần này. Thậm chí cả nhà thợ Nhà
thơ Herbert Miulanbah viết: "Nhà thơ chân chính lớn lên cùng với hạnh phúc
của dân tộc, và có thể đồng thời mang cả nỗi đau dân tộc trong trái tim
mình". (180-317)
Ðể có thể gắn bó với nhân dân,
người nghệ sĩ trước tiên phải thông suốt sự nghiệp của Ðảng Quốc Xã, sự nghiệp
mà theo tư tưởng của đảng là phản ánh đầy đủ nhất quyền lợi của nhân dân. Vì
vậy người nghệ sĩ phải là nghệ-sĩđdảng. Riharg Oringer viết vào năm 1935,
"Nền thơ ca quốc xã, và trước tiên là những luật lệ cơ bản của nó, không
phải tính cá nhân mà là tính quốc xã đơn giản và thuần túy. Tôi không sợ khi
nói rằng, tôi mong đợi một nền thơ ca từ đảng. Ðảng là thể xác của linh hồn
quốc xã, và linh hồn quốc xã sống trong thể xác của quốc xã sẽ sinh ra nền thơ
ca điển hình của mình". (180-318)
Vấn đề chính trị và tư tưởng được
ưu tiên trước tiên, so với nghệ thuật và thẩm mỹ, có thể minh họa bằng những
dẫn chứng sau. Trong bài báo nhan đề "Nền kịch nói trong nhà nước quốc
xã" đăng trên tạp chí Biune tháng 4.1936, tiến sĩ Vahter Smit viết:
"Cái mới nhất là: tư tưởng chính trị được ưu tiên và thể hiện rõ ràng
trong văn học và nghệ thuật. Thể hiện trên thực tế những yêu cầu tư tưởng quốc
xã trong đời sống ca kịch Ðức là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, mà ngày nay nền ca
kịch Ðức phải thực hiện trước tiên". (178-142)
Một nhà phê bình sân khấu khác,
tiến sĩ Valter Sang, viết trên báo Berliner Localanxaiger số ra ngày 17.1.1934:
"Bằng cách nào để chúng ta thể hiện được những tư tưởng quốc xã trong lĩnh
vực ca kịch, đó là vấn đề thời sự nóng hổi... Thay cho thẩm mỹ, ngày nay nội
dung tư tưởng cần phải là tính chất quyết định. Mọi tác phẩm nghệ thuật đều có
chủ ý, đó là điều không thể chối cãi. Ngày nay những tư duy anh hùng và lý
tưởng về thế giới đang trị vì...(179.159)
Tư tưởng chính trị trong nghệ
thuật phát xít được coi trọng đến mức ngay cả mốt cũng bị can thiệp. Năm 1941
có tác giả đã viết: "Trong quá khứ nước Ðức chưa hiểu hết ý nghĩa chính
trị của mốt. Ðã không nhìn thấy rằng, đồng thời với việc hấp thụ những mốt nước
ngoài, một cách sống và ngôn ngữ ngoại lai cũng xâm nhập vào đất nước. Mốt đã được
xem như là vô chính trị".(178-255)
Ðương nhiên trong hội họa và điêu
khắc, những tư tưởng quốc xã có thể hiện dễ dàng hơn trong ca kịch. Có vô kể
những tranh, tượng minh chứng cho điều đó. Một trong những tư tưởng quốc xã là
mối quan hệ tinh thần sâu sắc giữa nhân dân và lãnh tụ dân tộc. Bức tranh
"Chúng Con Muốn Ðược Gặp Thống Lĩnh" của Doroteia Hauer thể hiện niềm
phấn khởi của nhân dân khi Thống Lĩnh xuất hiện. Các em nhỏ đang túm quanh chân
những chiến sĩ SS đáng yêu, các chiến sĩ sánh vai nhau tạo thành hàng, và tất
cả đều đứng lặng trước Thống Lĩnh kính yêu.
Thể hiện tình yêu của nhân dân đối
với đảng quốc xã cũng là một trong những nhiệm vụ của nền nghệ thuật Ðế Chế. Có
hàng loạt tác phảm điêu khắc về chủ đề này: người mẹ và con trai đang đứng nhón
chân hướng về bầu trời quốc xã.
Một bức tranh thể hiện niềm tin
của nhân dân vào chế độ được đặt tại phòng làm việc của Hitler như biểu tượng
cho phong trào quốc xã có nội dung như sau: Một cánh đồng trống, phía chân trời
đang xuất hiện mặt trời dưới hình chữ thập gãy; nhân dân đang phấn khởi chạy về
phía mặt trời quốc xã với cánh tay giơ về phía trước.
Trong lĩnh vực kiến trúc, nguyến
tắc thống trị là hình khối thô thiển và "những đường nét lỗi thời"
(178-228), thể hiện rõ nét tư tưởng và tham vọng của nhà nước độc tài về vĩ đại.
Ðây là sự lạc hậu không thể chấp nhận, vì Ðức là nơi nghệ thuật kiến trúc tân
tiến xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu. Ngay từ năm 1932, nghĩa là trước khi bọn
phát xít nắm quyền, theo thiết kế của giáo sư Valter Gropiux, "Ngôi nhà
Xây Dựng" nổi tiếng đã được thi công tại Dexau. Những đường nét đơn giản,
hài hòa và đặc biệt nhẹ nhàng, thanh cảnh đã biến nó thành hình ảnh kiểu mẫu
cho kiến trúc tân tiến.
Mặc dù vậy, nền kiến trúc quốc xã
vẫn hết sức lạc hậu với những nguyên tắc hình khối thô thiển và cổ điển giả
mạo. Những nguyên tắc này được thể hiện trong tất cả các công trình kiến trúc
cho đảng và nhà nước, chúng mang dáng dấp lâu đài, thành quách thời phong kiến,
nhưng được xây dựng trong xã hội công nghiệp.
Các khái niệm về anh hùng và bi
kịch cũng bị thay đổi do những nguyên tắc cơ bản của học thuyết quốc xã về mối
liên quan giữa cá thể và xã hội, giữa tự do và trách nhiệm. Về vấn đề này, trong
bài báo "Bước ngoặt trong bi kịch" vào tháng 9.1935, báo Baustaine
Xur Doitren Nasionalteater, tiến sĩ Herman V.Anderx viết: "Việc phủ nhận
bi kịch cá nhân thực sự là một bước ngoặt cách mạng về khái niệm bi kịch. Bi
kịch xã hội sinh ra trong quá trình quật khởi và thăm dò, từ những nguyên tắc
tư tưởng quốc xã cơ bản và từ những khát vọng vĩ đại về những giá trị tinh thần
sâu sắc nhất của nhân cách. Rõ ràng nó khác xa bi kịch ảo tưởng cổ truyền và bi
kịch cá nhân muôn thuở . Bản thân con người không phải là đối tượng của thông
tin, không phải là cuộc sống thế giới trong bức tranh vũ trụ . Ý nghĩa và bản
chất của bi kịch là nhân dân và cộng đồng; những người Ðức tồn tại trong những
phẩm chất và giá trị của dân tộc Ðức. Chế độ quốc xã, như nguyện vọng về giá
trị tối cao, chính là bi kịch - bi kịch khẳng định cao nhất cho cuộc
sống." (179-159)
Cá nhân riêng biệt không thể là bi
kịch, bởi vì trước khi đạt được điều đó, cá nhân cần phải là anh hùng. Mà anh
hùng cá nhân thì mâu thuẫn với nhà nước và đảng phát xít, mâu thuẫn với cộng đồng
quốc xã. Ðối với con người quốc xã, điều này cấm kỵ, thậm chí không được phép
nghĩ tới, bởi vì đảng và nhà nước là những giá trị cao nhất trong nhận thức của
các cá nhân. Cá nhân nào chống lại nhà nước phát xít là vô nghĩa và xứng đáng
bị hủy diệt như kẻ phạm tội và không bao giờ có thể là anh hùng hay bi kịch. Cá
nhân chỉ có thể anh hùng như một phần tử trong cộng đồng (nhà nước, đảng, nhân
dân) và chỉ khi phục vụ cho cộng đồng này.
Vì lý do đó, bọn quốc xã công nhận
bi kịch tập thể và phủ nhận bi kịch cá nhân. Ở ngoài tập thể và chống lại tập
thể thì không thể có anh hùng và bi kịch cá nhân. Từ đây suy ra một cách logic
rằng, những đối thủ chính trị của nhà nước độc tài và đảng cầm quyền không thể
là những nhân vật bi kịch, vì họ không thể là những người anh hùng. Từ đây cũng
dẫn đến những đạo luật man rợ của nhà nước độc tài: làm nhục, buộc tội những
tội nhân là phản bội trước khi giết họ .
Ðể có thể thực hiện được những
chức năng xã hội và chính trị của mình - giáo dục nhân dân theo tinh thần tư
tưởng của đảng quốc xã - nghệ thuật cần phải gần gũi quần chúng, rõ ràng, dễ
hiểu, dễ tiếp thu, nói được chính xác với tất cả mọi người theo một ý nghĩa
nhất định, không có chỗ cho những cách hiểu bóng gió.
Nói cách khác, yêu cầu của đảng
phát xít đối với văn hóa và nghệ thuật không chỉ giới hạn trong việc lựa chọn
chủ đề sáng tác phải mang tính đảng, mà còn ở cách thể hiện chủ đề này: quan
trọng không chỉ là thể hiện cái gì, mà phải thể hiện thế nào cho thành một tác
phẩm nghệ thuật. Tính thực dụng thô thiển và chi tiết vụn vặt được coi trọng
hơn cả . Ðây là nguyên nhân dẫn đến lòng căm thù man dại của bọn cầm quyền quốc
xã đối với những tư tưởng và mọi hình thái nghệ thuật hiện đại (chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa tân thời, chủ nghĩa hình khối, chủ nghĩa hoài nghi). Năm 1937
những xu hướng nghệ thuật này bị xem là "nghệ thuật thoái hóa" và bị
theo dõi gắt gao. Màn giáo đầu cho cuộc bài xích nghệ thuật hiện đại là
"Triển lãm Nghệ Thuật Thoái Hóa" tại Miunhen vào tháng 7.1937 theo sáng
kiến của giới lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã. Nhân dịp này, Hitler đọc diễn văn,
trong đó có đoạn:
"Như vậy tôi đi đến kết luận,
rút ra con đường vững chắc cho nền nghệ thuật Ðức và giao cho nông dân một
nhiệm vụ duy nhất: bắt nó đi theo con đường mà cuộc cách mạng quốc xã đã mở ra
cho nhân dân Ðức.
Ðây là giai đoạn của những sự
nghiệp vĩ đại trong mọi lĩnh vực vì sự tiến bộ của con người, quan tâm không
chỉ đến những nhu cầu tinh thần cấp thiết mà cả cái đẹp lý tưởng cũng không còn
là biểu tượng phô trương điên rồ và hoang dại trong nghệ thuật, của những tàn
dư từ thời kỳ đồ đá, của sự mù quáng màu sắc, của những phác thảo thử nghiệm
ngờ nghệch bởi những kẻ khùng điên vô tích sự trên đây. Nước Ðức của thế kỷ XX
là nước Ðức của nhân dân, những dân tộc Ðức trong thế kỷ này đã được thức tỉnh
về cuộc sống, hấp dẫn bởi sức mạnh và vẻ đẹp, và là một dân tộc khỏe mạnh và
yêu đời.
Vì mục đích này, toàn bộ gia sản
nghệ thuật dân tộc cần được giữ trên nền tảng vững vàng và chắc chắn, để cho
những thiên tài thực sự có thể phát triển. Thiên tài không phải là không suy
nghĩ" (178-388).
Ðây là lời phê chuẩn của đảng cho
nghệ thuật hiện đại. Diễn văn chống "nghệ thuật thoái hóa" được các
cán bộ đảng lớn nhỏ, các lãnh đạo những hiệp hội trí thức nhắc đi, nhắc lại.
Toàn bộ diễn đàn, đài phát thanh, phim ảnh đưa những phân tích và đánh giá về
diễn văn của Quốc trưởng. Một số người gọi bài diễn văn này là lịch sử, số khác
- cương lĩng, số khác nữa - mở đầu cho thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn
hóa nước Ðức...
Các họa sĩ hiện đại bị gọi là
"những kẻ giết nghệ thuật", "những kẻ điên rồ", "những
kẻ thối nát", "chậm tiến", còn những tac phẩm của họ -
"những tư tưởng thoái hóa vô ý thức". (Ạ Sigler)
Năm 1937 và cả nhiều năm sau đó,
xuất hiện hàng loạt bài viết chống "nghệ thuật thoái hóa" dưới nhiều
hình thức khác nhau: phê bình, nghiên cứu... Sau khi cuộc tấn công chống
"nghệ thuật thoái hóa" trở thành nhiệm vụ quốc gia, toàn bộ bộ máy
nhà nước bị thu hút và hưởng ứng chiến dịch này.
Thí dụ trong một bài báo có đoạn
viết: "Từ nay chúng ta sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh triệt để nhằm quét
sạch những phần tử cuối cùng nghệ thuật thoái hóa."(178-312). Sự thật là
bọn quốc xã đã dùng nhiều biện pháp "hiệu quả" để chống lại nghệ
thuật hiện đại.
Chiến dịch khủng bố nghệ thuật
hiện đại kết thúc bằng sắc luật thu hồi những tác phẩm nghệ thuật "thoái
hóa" ban hành ngày 31.5.1938. Theo luật này, "những tác phẩm nghệ
thuật thoái hóa được lưu trữ trong các viện bảo tàng trước khi sắc luật này ban
hành và theo
nhận xét của Quốc Trưởng là nghệ
thuật thoái hóa, có thể sẽ bị tịch thu vô điều kiện vì lợi ích quốc gia... Ðối
với những trường hợp đặc biệt có thể áp dụng những biện pháp cương quyết
hơn..." (178-337)
"Những biện pháp cương quyết
hơn" được thể hiện bằng cách cấp "sổ lao động" cho những họa sĩ
hiện đại không muốn sửa chữa sai lầm và vẽ Sự Thật theo thị hiếu của giới lãnh đạo
đảng Quốc Xã; tước bằng họa sĩ của họ và biến họ thành những người lao động thể
lực thông thường.
Thật ngây thơ nếu nghĩ rằng những
hành vi kỳ quặc chống nghệ thuật này ở Ðức chỉ được tiến hành do ban lạnh đạo
chính trị chóp bu. Những hành vi này còn được bọn tầm thường trong các hiệp hội
trí thức ủng hộ triệt để . Cụ thể là trong những tổ chức quốc gia này, đảng và
nhà nước phát xít đã huấn thị cho bè lũ gián điệp của mình - bọn tầm thường và
thông qua chúng, chà đạp nền nghệ thuật tự do và chính hiệụ ở đây quyền lợi và
sự cộng tác giữa bọn tầm thường và đảng phát xít liên quan chặt chẽ đến mức,
dưới con mắt của người quan sát bên ngoài, mọi vấn đề được thể hiện như sau:
những nghệ sĩ "chân chính" sáng tạo nghệ thuật, còn những người tân
tiến cản trở họ, dẫn đến cần có sự can thiệp của nhà nước; nhà nước liền gạt bỏ
những trở ngại này và nền nghệ thuật lại được phát triển theo con đường do Ðảng
Quốc Xã vạch rạ
Một câu hỏi lớn được đặt ra: tại
sao nhà nước độc tài phát xít lại theo dõi và căm thù vô độ nghệ thuật hiện đại?
Ðôi khi người ta đã thử giải thích hiện tượng này bằng chủ nghĩa bài Do Thái, đặc
biệt ở Ðức vì một phần trong các họa sĩ hiện đại là người Do Thái. Cách giải
thích này không thỏa đáng, bởi vì phần lớn những đại diện của nghệ thuật
"thoái hóa" là người Ðức thuần chủng. Thậm chí một vài người trong đó
còn là đảng viên quốc xã với những cống hiến nhất định cho đảng này. Thí dụ:
Emil Nolde vào đảng cùng thời với Hitler và là một trong những người sáng lập đảng
này. Mặc dù vậy, ông ta vẫn bị xem là "thoái hóa" và bị chính quyền
theo dõi. Thực chất một vài người trong những họa sĩ hiện đại bị theo dõi vì họ
đã vén tấm màn che sự thật. Nhưng cũng chỉ có vài người như thế. Oto Dicx bị
xem là "thoái hóa" vì vẽ "màu xám của chiến tranh như màu
xám" (151-208), G.Grox - "thoái hóa" vì lên án chủ nghĩa bành
trướng, Paul Clei "thoái hóa" vì các "nhà độc tài nghệ
thuật" không hiểu được nghệ thuật của ông. (151-208)
Nguyên nhân thực sự là, nghệ thuật
hiện đại vượt ra ngoài những khuôn phép mà bọn phát xít áp đặt cho nghệ thuật
nói chung - bắt nghệ thuật phải mù quáng phục tùng những tư tưởng chính trị và
nhiệm vụ giáo dục của tư tưởng này. Ðặc trưng của nghệ thuật hiện đại là, tự do
chủ thể rộng lớn của người họa sĩ trong việc diễn giải chủ đề với những tính
chất chủ quan không tránh khỏi, khiến người họa sĩ trở nên ít phụ thuộc vào
nguyện vọng và ý muốn của giới lãnh đạo chính trị, nghĩa là tác phẩm của họa sĩ
trở thành xu hướng chống đối lại chế độ . Nhưng điều này mâu thuẫn với một
trong những nguyến tắc cơ bản của nhà nước phát xít: không cho phép bất kỳ xu
hướng chống đối nào.
Ngoài ra nghệ thuật hiện đại không
thể trùng lặp với những tiêu chuẩn của nhà nước độc tài, vì nó không thể mang
chức năng xã hội - chính trị nhằm giáo dục nhân dân theo tinh thần tư tưởng
phát xít. Ðiều này hoàn toàn không thể thực hiện được, bởi vì người họa sĩ có
quyền tự do rộng lớn khi thể hiện chủ đề, có thể cho chủ đề những nội dung
không lợi cho chế độ chính trị; hơn nữa nghệ thuật hiện đại để cho người xem tự
do phân tích, phụ thuộc vào trình độ, cảm hứng và kinh nghiệm cá nhân của họ;
và điều này rõ ràng không phù hợp với lối tư duy bất biến của đảng.
Ðể làm sáng tỏ vực sâu ngăn cách
giữa những tư tưởng chính trị - văn hóa của nhà nước phát xít và bản thân nghệ
thuật, chúng ta sẽ dịch một số lời phát biểu của các nhà văn hóa quốc xã về
những yêu cầu đối với nghệ thuật. Vào năm 1937, Gobelx đã nêu quan điểm của
mình như sau: "Nghệ thuật Ðức trong những thập kỷ tới cần phải anh hùng,
sắt thép, thơ mộng, không mềm yếu, thiếu nội dung, cần mang tính dân tộc, với
bầu nhiệt huyết nóng hổi, nghệ thuật hoặc đồng thời vừa có nghĩa vụ và trách
nhiệm, hoặc sẽ trở nên vô nghĩa."(151-203)
Tiến sĩ Adolf Fiolner đã trả lời
như sau về câu hỏi nghệ thuật mới cần phải như thế nào: "Hình thái phải dễ
hiểu và rõ ràng. Nội dung phải nói được với tất cả mọi người. Nội dung nghệ
thuật phải phục vụ mục đích giáo dục tư tưởng cho nhân dân. Nghệ thuật cần phải
mang sức sống như trước đây. Nghệ thuật cần phải mang tư tưởng đến cho nhân
dân. Nghệ thuật cần phải phát hiện những biểu tượng mới mẻ của dân
tộc."(178-156)
Dưới đầu đề "Văn học Ðức -
Thể hiện Cảm hứng Yêu đời Quốc Xã", báo Filmcurner viết: "Chế độ quốc
xã giao cho các nhà văn nhiệm vụ củng cố sức mạnh. Nó đòi hỏi tinh thần trách
nhiệm vô điều kiện trước cuộc sống."(120-317)
Tóm lại, yêu cầu của bọn quốc xã đối
với nghệ thuật là: nghệ thuật không được xa rời quần chúng, vô chính trị, cá
nhân, hoài nghi, hư vô, mềm yếu, tân tiến, vô chính phủ; và nghệ thuật cần phải
liên quan mật thiết với quần chúng (Hitler), đi theo con đường mà cuộc cách
mạng quốc xã vạch ra (Hitler), anh hùng, thơ mộng (Gobelx), đồng thời vừa có
nghĩa vụ và trách nhiệm, hiện thực, phục vụ mục đích giáo dục tư tưởng cho nhân
dân, rõ ràng và dễ hiểu cho tất cả mọi người, khẳng định cuộc sống, có hy vọng.
Tác phẩm nghệ thuật nào không đáp
ứng được những tiêu chuẩn thẩm mỹ trên của đảng và chế độ quốc xã thì không có
quyền tồn tại. Ủối với nhà nước phát xít, những tác phẩm như thế không phải
nghệ thuật, mà là chống đối chính trị và cần phải hủy diệt.
Gyom Vaix, một trong những kẻ cộng
tác đắc lực cho Gobelx, đã từng phát biểu như sau: "Nếu một tác phẩm nghệ
thuật được thể hiện vì những tư tưởng quốc xã, chúng ta cần phải khích lệ . Còn
ngược lại, không những chúng ta có quyền, mà còn có nghĩa vụ phải hủy diệt nó.
Phê bình nghệ thuật không phải là vấn đề thẩm mỹ, mà là chính trị thuần
túy."(155-160)
C.
Chấn chỉnh khoa học và đội ngũ cán bộ khoa học.
Trong lĩnh vực khoa học, đảng quốc
xã cũng thi hành những chính sách như trong văn học và nghệ thuật. Nguyên tắc
cơ bản là, nền khoa học và sự nghiệp nghiên cứu khoa học phải phục vụ cho sự
nghiệp của đảng, và chỉ như thế mới có lợi cho xã hội. Từ đây suy ra những kết
luận cụ thể như sau:
(1) Toàn bộ nền khoa học và sự
nghiệp nghiên cứu khoa học phải được xây dựng theo tinh thần tư tưởng và nhiệm
vụ của đảng;
(2) Tất cả những cán bộ khoa học
không đáp ứng được vai trò này cần phải sa thải khỏi trường đại học và các cơ
sở nghiên cứu, đồng thời bổ nhiệm thay thế những cán bộ quốc xã từng trải.
Tháng 7. 1934, Hội đồng Ðại học
gồm những cán bộ đảng dưới sự lãnh đạo của Alfred Rozenberg được thành lập
"với nhiệm vụ: kiểm tra tư cách của tất cả cán bộ khoa học trong các
trường đại học và nếu có nhận xét tốt thì gửi danh sách cho Hội đồng Bộ
trưởng."(151-214) Bằng cách đó, việc bổ nhiệm cán bộ trong các trường đại
học phụ thuộc hoàn toàn vào đảng phát xít. Kết quả là hàng loạt cán bộ khoa học
bị sa thải vì quan điểm chính trị hay vì nguồn gốc "không thuần
chủng". Ðến giữa năm 1937 con số này lên tới 1684 người (103-218), trong đó
có các giáo sư Guxtax Fon Berman, Emel Lederer, Edauard Norden... Ngoài ra còn
có năm người đã từng được giải Nobel: hai nhà vật lý - Albert Ainstain và Macx
Born, và ba nhà y học.
Chỉ riêng trường Tổng Hợp Berlin đã
có tới 230 giảng viên bị thải hồi.
Sau khi vấn đề cán bộ đã được giải
quyết bằng phong trào "làm trong sạch" đội ngũ, đảng phát xít chuyển
sang phần công việc tiếp theo: nhồi nhét tư tưởng quốc xã cho sinh viên và cán
bộ giảng dạy, và chấn chỉnh lại công tách nghiên cứu khoa học cho phù hợp với
nhiệm vụ chính trị của nó.
Trong các trường đại học, môn
chính trị toàn cầu trở thành mộn học bắt buộc, và nhờ đó mà một loạt bộ môn
"khoa học" xuất hiện: kinh tế toàn cầu, chiến lược toàn cầu, pháp
luật toàn cầu... và như vậy, cái gọi là "đồng hóa chính trị toàn cầu"
(thuật ngữ này do bọn quốc xã sử dụng đầu tiên) các môn khoa học được hình
thành.
Nội dung giảng dạy trong các
trường học cũng được cải cách theo tinh thần "lý thuyết" chủng tộc.
Hitler dạy: "Sự nghiệp giáo dục cần tiến hành làm sao cho trẻ em Ðức ngay
lập tức hiểu được nguồn gốc thượng đẳng của mình". (103-205)
Trong công tác nghiên cứu khoa
học, khẩu hiệu cao nhất là: phục vụ chế độ quốc xã và tư tưởng quốc xã là trên
hết. (155-215)
Kết quả cuối cùng là, trong tất cả
các giảng đường và cơ sở nghiên cứu, sự thống trị toàn diện và không thể tách
rời của đảng quốc xã được thiết lập - thống trị kể cả về vấn đề cán bộ, cũng
như mục đích, ý nghĩa và bản thân nền khoa học.
"Tự do sáng tạo" và
"quyền tự trị của các trường đại học" bị hủy diệt hoàn toàn. Hơn thế
nữa, các trường đại học còn bắt đầu bị cưỡng ép. Nhà tư tưởng của đảng - Alfred
Rozenberg, khi trả lời những công kích ở nước ngoài về những hành động chống
"tự do sáng tạo" trong nước Ðức đã nói như sau: "Không bao giờ đảng
đe dọa quyền tự do nghiên cứu! Trong công tác nghiên cứu khoa học không hề có đổ
máu. Những binh sĩ SA rõ ràng đã mang lại cho sự nghiệp nghiên cứu của nước Ðức
nhiều hơn, so với một vài giáo sư trong các trường đại học. Do đó phong trào
cách mạng có quyền ấn định những luật lệ của mình cho thế giới mới."
(151-213)
Ða phần giới trí thức cộng tác với
chế độ và tự thanh minh rằng, như thế cũng là phục vụ cho nhân dân. Những
nguyên tắc dân chủ tốt đẹp như tự do ngôn luận, quyền độc lập cho các nhà bác
học bị đẩy lùi và bị hy sinh cho những quyền lợi "dân tộc".
Ðó gần như là sự quy phục của giới
trí thức trước nhà nước phát xít.
5. Mâu thuẫn giữa đảng phát xít và
giới trí thức chân chính.
Tổ chức những người trí thức vào
hệ thống hiệp hội quốc gia, nhồi nhét cho họ tư tưởng, tinh thần và thẩm mỹ
quốc xã, đảng phát xít thực chất là tước đi của họ mọi quyền tự do, biến họ
thành những phần tự lệ thuộc vào đẳng cấp quan liêu.
Ðảng phát xít chỉ trao quyền tự do
cho những kẻ sẵn sàng phục vụ và cộng tác đắc lực với nó. Những ai không đồng ý
với đảng thì không thể có quyền tự do này và không còn là "trí thức".
Trên đây, đảng phát xít xuất phát
từ học thuyết của mình về nhà nước và xã hội, nhà nước và cá nhân. Theo học
thuyết này, cá nhân luôn luôn phải phục tùng "tập thể", "cộng đồng".
Ðứng ngoài cộng đồng và chống lại cộng đồng thì không thể còn là cá nhân. Tiến
sĩ Oto Ditrih, một trong những nhà lý luận của phát xít Ðức viết:
"Cộng đồng là, và bản thân nó
là, cái mang đến cá nhân xứng đáng. Con người là cá nhân, không phải vì tự nó
thể hiện như vậy. Con người là cá nhân chỉ khi thông qua quá trình sáng tạo
trong cộng đồng và vì cộng đồng.
Cá nhân chỉ là cái "tôi"
nhỏ nhoi, cô độc. Do đó người nào không tỏ rõ được bản thân mình, thông qua
cộng đồng hay thông qua sự công nhận của cộng đồng thì không thể là cá
nhân." (36-66,67)
Nói cách khác, người trí thức chỉ
là cá nhân khi làm việc cho cộng đồng quốc xã (nhà nước, đảng, nhân dân, tập
thể ...) và được công nhận có cống hiến cho "cộng đồng". Còn nếu
người trí thức chống lại một dạng cộng đồng nào đó, thí dụ đảng phát xít hay
nhà nước, thì không thể là cá nhân nữa và cần phải hủy diệt bằng mọi cách. Tất
cả những kẻ thù của nhà nước phátt xít đều không còn là những cá nhân: họ là
những kẻ phản bội, tráo trở và sa đọa... Từ đây cũng nảy sinh vấn đề về tự do.
Oto Ditrih viết tiếp:
"Mọi khái niệm về tự do mà
không xuất phát từ cộng đồng là sai lầm và không thể ứng dụng cho bất kỳ nhận
thức nào trong mọi lĩnh vực của cuộc sống chung.
Tự do như thế không có tác động
khẳng định, mà phá hủy cuộc sống. Do đó cái gọi là "tự do cá nhân"
như những đồ đệ của nó khẳng định một cách thiếu suy nghĩ không phải là cái mà
thiên nhiên trao cho con người. Thiên nhiên ban cho con người nhận thức về cộng
đồng và con người được sinh ra trong cộng đồng."(36-70)
"... Tự do cá nhân là tự do
'từ cái gì', đó là vô trách nhiệm, hỗn độn và sẽ dẫn đến vô chính phủ (tự do cá
nhân = vô trách nhiệm và hỗn độn = vô chính phủ! thật là lối tư duy phát xít điển
hình! J.J). Tự do sáng tạo là tự do "vì cái gì", đây là tự do của cá
nhân, tự do sáng tạo của con người cho cộng đồng. Ðây mới chính là
tự do thực sự duy nhất và xứng đáng
với tên gọi của nó. Cuộc cách mạng quốc xã về tư tưởng đã mang đến cho chúng ta
khái niệm đúng đắn này của tự do và làm cho nó trở thành thực tiễn sống động".
(6-70,71)
"... Cái mà bọn cá nhân chủ
nghĩa gọi là tự do và một vài kẻ tự do chủ nghĩa tuy không nói ra nhưng thực
chất rất mong muốn, không phải tự do mà là vô trách nhiệm.
Tự do 'vì cái gì', tự do sáng tạo
cho chế độ quốc xã - ở đất nước chúng ta không cần phải mong ước, bởi vì nó đã
có sẵn." (36-74)
Nhưng giả sử có ai đó không muốn
sáng tạo cho chế độ quốc xã? giả sử có người mong muốn nhà nước và đảng phát
xít trả tự do, người đó có được tự do không? Về những câu hỏi này, Oto Ditrih
trả lời công khai: "Nhưng bất kể những phân tích trên, giả sử ở đâu đó vẫn
có người đòi hỏi tự do, thì đó nhất định là những kẻ không đồng ý và chống lại
cộng đồng quốc xã của chúng ta... Tự do như thế là tự do phá hoại và ích kỷ, và
chúng ta không thể cho phép những kẻ đó có quyền như vậy. Chúng ta chỉ mang đến
tự do sáng tạo, tự do thực sự có lợi cho cộng đồng." (36-74)
Như chúng ta thấy, những người
không muốn cộng tác với nhà nước không những không có quyền tự do sáng tạo mà
còn bị xem là "phá hoại" và "ích kỷ" và sẽ bị theo dõi.
Phát xít Italia cũng đặt vấn đề cá
nhân - xã hội theo cách đó. "Dân tộc Italia là một cơ thể sống, mà mục đích,
sự tồn tại và phương thức sống mạnh mẽ hơn, lâu bền hơn mọi cá nhân và hiệp hội
riêng biệt." (36) Guido Bartolto, một trong những nhà lý luận phát xít,
trong tác phẩm chế độ phát xít và dân tộc còn xây dựng rõ ràng hơn nguyên tắc
cơ bản này: "Ðối với chúng ta sự khác nhau đó là: theo chủ nghĩa cá nhân
thì cá thể làm chủ tổng thể, còn theo chủ nghĩa cộng đồng - tổng thể làm chủ cá
thể . Giữa hai lĩnh vực này là chủ nghĩa nghiệp đoàn, nhờ đó mà cá thể và tổng
thể tồn tại hài hòa." (36-37)
Sự khác nhau giữa chế độ quốc xã
và phát xít chỉ là: chế độ phát xít (Italia) dầu sao cũng thử dung hòa giữa
tổng thể và cá thể, mặc dù điều đó không bao giờ đạt được trong nhà nước độc
tài. Nhà nước độc tài không thể chấp nhận bất kỳ một sự khác biệt nào đối với
chính nó, không chấp nhận nhân bản, thậm chí kể cả nhân bản của một nghiệp đoàn.
Vấn đề quan trọng là: nhà nước
phục vụ cá nhân, hay cá nhân phục vụ nhà nước, cả Ðức và Italia đều cùng nhất
trí hoàn toàn như nhau - sự phục tùng vô điều kiện của cá nhân đối với nhà
nước. Từ đây dẫn đến "tự do" của cá nhân để làm việc - cho nhà nước.
Ngay từ năm 1933, tên quốc xã Gotfrid Buen, trong bài báo "Nhà nước mới và
bọn cá nhân chủ nghĩa", đã nêu chính xác nguyên tắc cơ bản này của chế độ độc
tài: "Tự do tinh thần? Trả lời: phục vụ nhà nước." (178-71)
Nhưng mặc những điều kiện khốc
liệt trong nhà nước độc tài, mặc dù không có khả năng để tạo nên xu hướng đối
lập, sớm hay muộn ở dạng này hay dạng khác, một xu hướng như thế nhất định sẽ
xuất hiện. Ðó là quy luật bởi vì ngay cả nền bạo chính dã man nhất cũng không
thể tiêu diệt được tư duy. Hơn thế nữa, bản thân nhà nước phát xít, một mặt
tiêu diệt tự do tư duy, mặt khác lại bắt buộc phải khuyến khích nó để khỏi lạc
hậu so với những nước dân chủ, hay ít ra để khỏi lạc hậu trong lĩnh vực khoa
học quân sự . Nhưng tư duy dễ dàng chuyển sang tư duy tự do, thành mâu thuẫn
với lối tư duy đang tồn tạị Từ đây tất yếu sẽ sinh ra xu hướng chống lại chế độ
.
Trong giai đoạn cực thịnh của nhà
nước phát xít, khi nhân dân còn mù quáng tin tưởng vào những tư tưởng của nó và
đi theo nó như thời kỳ đầu chiến tranh ở Ðức, xu hướng chống đối này mang tính
tiêu cực, bị cô lập, vì không được nhân dân ủng hộ . Khi đó xu hướng này được
thể hiện dưới dạng tỵ nạn ở nước ngoài hay "ẩn dật ở trong nước".
Ðến đầu chiến tranh, hàng trăm
nghìn nhà bác học, nhà văn, nhà thơ tài ba nhất đã rời bỏ nước Ðức, sống tị nạn
ở nước ngoài.
Một bộ phận khác trong giới trí
thức, vì lý do nào đó mà không thể sống tị nạn và không bị ném vào các trại tập
trung cải huấn, chuyển sang sống "ẩn dật trong nước", nghĩa là không
làm việc cho nhà nước, mà làm việc cho chính bản thân mình và chờ thời. Trên
quan điểm chính trị, kiểu chống đối này, dù không góp phần làm lung lay chế độ,
vẫn là biểu hiện của tinh thần dũng cảm. Nó đòi hỏi quyết tâm và sức chịu đựng,
vì thế một khi tinh thần đã cạn những người này thường tự kết thúc đời mình.
Tiếp theo, cùng với sự suy yếu dần
của nhà nước phát xít, xu hướng chống đối này ngày càng trở nên tích cực hơn.
Nhận thức nhà nước quẩn quanh không lối thoát, chuyển từ mê muội sang quỷ
quyệt. Lúc này nhân cách con người bị chia thành hai nửa đối kháng - một mang
tính xã hội và một mang tính cá nhân. Nửa nhân cách mang tính xã hội vẫn thực
hiện những nhu cầu của nhà nước; nửa nhân cách cá nhân chỉ được thể hiện trước
những người thân thích. Sự quỷ quyệt là đặc tính xã hội tổng thể trong giai đoạn
suy thoái tư tưởng của chế độ phát xít. Mọi người đều nói những điều trái với
suy nghĩ, tán thành những việc mà họ không bằng lòng; đồng thời công kích tất
cả những vấn đề này trước những người thân thích.
Tuy nhiên, trong trường hợp này sự
quỷ quyệt dầu sao cũng là biểu hiện cao nhất trong quá trình tiến hóa của nhận
thức xã hội ở chế độ phát xít, bởi vì người ta đã bắt đầu nhận ra sự thật. Nếu
như sự cuồng tín là niềm tin mù quáng, thì sự quỷ quyệt là tư duy phản kháng
ngấm ngầm, chưa thể hiện công khai.
Trong hoàn cảnh đó, giới trí thức
chưa dám thẳng thừng công kích chế độ phát xít, bởi vì người ta chỉ dám nói sự
thật ở những nơi kín đáo và tin cẩn, còn ở ngoài xã hội tất cả đều bắt buộc
phải nói dối.
Hành động cao nhất mà giới trí
thức có thể làm lúc này là, dùng những sự kiện hay hình tượng lịch sử để nói
lên những việc hiện tại đang diễn ra. Thí dụ năm 1935, Vener Bergengruen viết
tiểu thuyết Bạo Chúa và Quan Tòa thực chất là "kín đáo buộc tội
Hitler." (151-234)
B. Breht, năm 1934, đã viết Năm
cái khó cho những người viết về sự thật như sau: "Ngày nay, những ai muốn
vạch trần sự giả dối và quyết tâm viết về sự thật đều phải vượt qua ít nhất 5
cái khó. Cần phải dũng cảm để viết về sự thật, vì ở đâu người ta cũng cấm; Cần
phải có trí tuệ để nhận ra sự thật, vì ở đâu người ta cũng giấu; cần phải thông
minh để biến sự thật thành vũ khí đấu tranh; cần phải có khả năng để chọn những
người có thể sử dụng vũ khí này; và cũng cần phải khôn ngoan để truyền bá sự
thật cho những người này..." (11-27)
Ưu điểm của cách phản kháng kín đáo
này là, tác giả của nó có thể luôn luôn tự bảo vệ . Người ta chỉ có thể nghi
ngờ, chứ không buộc tội được tác giả, vì bao giờ cũng có thể nói, rằng không có
chủ định như thế... Nhược điểm lớn nhất của cách phản kháng này là không phải
ai cũng hiểu và dầu sao thì vấn đề này cũng vẫn không được đặt ra một cách công
khai như những vấn đề cần giải quyết hay cương lĩnh hành động. Ngoài ra những
người viết theo cách này luôn luôn có cảm giác về kiểm duyệt phát xít, dần dẫn đến
tự kiểm duyệt và làm giảm khả năng sáng tạo. Nhà văn Bồ Ðào Nha, Fereir Di Kastru,
viết: "Một câu hỏi luôn luôn ám ảnh chúng tôi: liệu người ta có cho in
không?" (33-53)
Chỉ có những người trí thức vượt
qua được vòng ma thuật của cách tư duy quỷ quyệt này, dám viết về những điều mà
mọi người vẫn trao đổi kín đáo với nhau, mới đạt thành hệ thống như cương lĩnh
nhằm chống lại hệ tư tưởng phát xít. Bằng cách đó, họ trở thành người cách
mạng, đặt nhiệm vụ cho mình trên bước đường công danh và không quản ngại những
nguy hiểm có thể xảy ra. Ðồng thời những người này trở thành những dại diện cho
giai đoạn thứ ba trong sự phát triển của cách tư duy lệ thuộc, khi nhà nước độc
tài đã trở nên yếu đuối, đến mức không còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng
những người chống đối, và khi sự tan rã của nó đã trở nên rõ ràng. Khi đó những
người phải sống giả tạo vứt bỏ cái mặt nạ xã hội và thể hiện khuôn mặt thực sự
của mình. Giờ đây họ công khai nói những điều mà họ suy nghĩ.
Do những dữ kiện quá dồn dập
(chúng ta không nên quên rằng, chế độ quốc xã chỉ tồn tại vỏn vẹn 12 năm và 4
tháng!) nước Ðức không trải qua giai đoạn này. Diễn biến kinh hoàng của chiến
tranh đã tạo điều kiện cho bộ máy khủng bố của nhà nước - Zetapo và SS - đàn áp
thẳng thừng mọi xu hướng chống đối. Ngoài ra, trong ngọn lửa chiến tranh tàn
khốc, những sáng tạo nghệ thuật theo hướng này rất khó có thể trở thành trung
tâm của cuộc đấu tranh chống chế độ . Trong những điều kiện như thế, đảo chính
quân sự là hình thức thích hợp và hiệu quả nhất.
Giai đoạn thứ ba này của quá trình
tư duy lệ thuộc, trong hình thức điển hình nhất, chỉ xảy ra duy nhất tại nước
Tây Ban Nha-Franco sau chiến tranh. Trong giai đoạn này, giới trí thức dựa vào
các tầng lớp xã hội, bao gồm những đối thủ của nhà nước phát xít, công khai đứng
ra chống lại nhà nước. Họ trở thành những nhà cách mạng, hay đúng hơn, những
người dân chủ, bởi vì lúc này những nguy hiểm không còn đáng sợ như trước nữa.
Trong lĩnh vực tinh thần, nhà nước
phát xít là nhà nước uy tín. Bởi vì nguyên tắc tư duy cao nhất trong đẳng cấp tập
trung quan liêu cao độ của nhà nước trở thành uy tín, thành niềm tin mù quáng
vào sự đúng đán của nó. Uy tín được xem như tiêu chuẩn cao nhất của sự thật:
không phải uy tín phụ thuộc vào sự thật, mà ngược lại - sự thật phụ thuộc vào
uy tín.
Người ta ngấm ngầm công nhận rằng,
trong hệ thống đảng cấp quan liêu, cấp càng cao thì suy nghĩ càng ít sai lầm và
có nhiều khả năng hơn để chứa đựng sự thật. Với cách tư duy này, cấp cao nhất,
nắm trong ty mọi quyền lực, được xem là chứa đựng sự thật tuyệt đối, không còn
phải bàn cãi hay nghi ngờ và đòi hỏi phải được phục tùng và tin tưởng vô điều
kiện. Thiếu niềm tin này, cơ cấu đó không thể tồn tại. Ðây là dấu hiệu có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà nước độc tài đến mức, sau ngày 20.7.1944
chánh án tòa án "nhân dân" đã định đề xuất đạo luật với mục đích theo
dõi những người nghi ngờ Thống lĩnh và thắng lợi cuối cùng...
Nhưng khi nói đến lối tư duy uy
tín như một dấu hiệu đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhà nước độc tài,
cần thiết phải xác định cụ thể hơn vấn đề này. Tất cả mọi đẳng cấp quan liêu,
mọi chế độ quân chủ, chế độ tư bản, chiếm hữu nô lệ đều có mối tư duy này, chứ
không phải chỉ riêng nhà nước phát xít. Cái mới, cống hiến "chính
hiệu" của chế độ phát xít trong lĩnh vực này là tư duy độc tài, được phân
chuyển tổng thể không chỉ tại các cơ quan, công sở nhà nước, mà còn cả trên
toàn bộ xã hội, các tổ chức quần chúng, đến tận những cơ sở công nghiệp, nơi mà
những ông chủ được xem như "thủ lĩnh" của nhà máy, công xưởng...
"Nguyên tắc tập trung" được nâng lên thành nguyên tắc lãnh đạo tối
cao trong đời sống chính trị, kinh tế và tinh thần của Ðệ Tam Ðế Chế và được
pháp luật bảo trợ .
Ở Italia, dưới hình thức khác -
thông qua yêu cầu phục tùng - lối tư duy uy tín được phân chuyển tổng thể .
1.Uy tín và sùng bái.
Trong chế độ độc tài không thể tồn
tại uy tín chính trị thực sự . Uy tín thực sự chỉ có trong xã hội dân chủ, nơi
mọi cá nhân cạnh tranh trong cùng một điều kiện và ai có khả năng hơn, người đó
sẽ chiến thắng; Chỉ có trong những xã hội mà tài năng luôn luôn thắng tầm
thường và bất tài.
Do cấu trúc đẳng cấp nghiêm ngặt
trong nhà nước độc tài, "uy tín" phụ thuộc vào quyền lực của các cá
nhân chứ không phụ thuộc vào phẩm chất công tác và trình độ tri thức của người đó.
Nhưng vì quyền lực phụ thuộc vào vị trí cao thấp trong đẳng cấp quan liêu, suy
ra rằng "uy tín" phụ thuộc vào địa vị chiếm giữ. Như vậy cái quan
trọng không phải phẩm chất và khả năng của con người, mà là địa vị chiếm giữ,
thậm chí không phụ thuộc vào việc leo lên địa vị đó bằng cách nào, có xứng đáng
hay không. Người ta công nhận, một khi đã có vị trí nào đó cũng đồng thời có đủ
phẩm cách cần thiết; rằng cấp trên thông minh và công bằng hơn cấp dưới. Ðây là
nguyên tắc cơ bản không thể thiếu cho mọi đẳng cấp quan liêu.
Những đặc thù đặc biệt này của nhà
nước độc tài che chở cho nó khỏi lộ nguyên hình là chế độ chính trị và phản động.
Ðồng thời chúng giúp chúng ta phát
hiện ra một đặc tính đặc biệt khác: không tồn tại những cá nhân, những công dân
vĩ đại có vai trò xã hội không phụ thuộc vào nhà nước.
Trong những điều kiện của nền dân
chủ truyền thống, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển của nó có thể tồn tại
những cá nhân đại diện cho xã hội trước nhà nước. Họ là nhà văn, diễn viên, nhà
bác học hay những người hoạt động chính trị tại những xu hướng đối lập. Do sự
cống hiến của mình cho xã hội, những người này có vai trò chính trị đối với nhà
nước. Bởi vậy họ có thể đại diện cho những bộ phận, những nhóm công dân, đứng
ra phê phán nhà nước hay cán bộ lãnh đạo của các cơ sở nhà nước.
Trong nhà nước phát xít không có
các công dân, mà chỉ có những kẻ phục tùng, bắt buộc phải phục vụ và thi hành.
Nhà nước phát xít phân chuyển những nguyên tắc của đẳng cấp quan liêu trên cả
xã hội công dân. Xã hội không có chút quyền tự chủ nào đối với nhà nước, chứ đừng
nói gì đến xu hướng đối lập. Trong hoàn cảnh đó, đương nhiên nhà bác học hay
người làm công tác nghệ thuật không có thể đại diện cho nguyện vọng xã hội.
Trong nhà nước độc tài, có thể có những nhà văn lớn, nhà bác học lớn, nhà triết
học lớn, song họ không thể trở thành những Công Dân, mà chỉ là những công dân đáng
tiếc, run sợ rước quyền lực của đảng và nhà nước phát xít quan liêu.
Trên thực tế, chỉ có bọn cầm quyền
của chế độ phát xít là đại diện duy nhất cho xã hội công dân. Quyền thống trị
chính trị bạo tàn trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội cho phép chúng tự
khoác cho mình những đặc tính tốt đẹp nhất: thông minh nhất, uy tín nhất, công
bằng nhất, nguyên tắc nhất, trong sạch nhất, v.v...
Nhưng đó chỉ là ánh hào quang giả
tạo, xuất phát từ quyền lực chính trị vô hạn. Trong nhà nước phát xít có thể
nói, cầm quyền không phải vì thông minh, mà- "thông minh" vì có
quyền, cầm quyền không phải vì trong sạch, mà- "trong sạch" vì có
quyền, cầm quyền không phải vì có nguyên tắc, mà- "có nguyên tắc" vì
có quyền, sau cùng- giữ vị trí lãnh đạo không phải vì uy tín, mà- "uy
tín" vì là lãnh đạo chính trị .
Trên cơ sở những phân tích trên,
chúng ta rút ra một kết luận quan trọn rằng, trong nhà nước độc tài không có và
không thể có những uy tín chính trị thực sự, bởi vì con đường duy nhất để đạt được
uy tín là tham gia cộng tác với đẳng cấp quan liêu, nghĩa là muốn có uy tín thì
trước hết phải là người nhà nước. Trong vấn đề này sự khác nhau giữ nhà nước
phát xít và nền dân chủ tư sản truyền thống là, trong nền dân chủ tồn tại con đường
khác, không phải là con đường hành chính, cho những người hoạt động chính trị
và điều này có tác động ngược lại, làm thay đổi bản thân hệ thống quan liêu.
Vì lý do này, nhà nước phát xít
bắt buộc phải thay uy tín thực sự bằng uy tín giả hiệu, đạt được nhờ bộ máy
tuyên truyền khổng lồ của đảng, nhà nước và những tổ chức quần chúng. Hành động
này không tránh khỏi bị chuyển thành tôn thờ thần tượng hoang dại và vô độ . Nó
tô vẽ cho lãnh tụ những đặc tính siêu phàm, mà về nguyên tắc không thể tồn tại
trong cùng một con người. Như vậy, thay cho uy tín, nhà nước tạo nên sự sùng
bái cá nhân các lãnh tụ chính trị . Hitler được thể hiện như con người hoàn hảo
nhất: "người bạn của thiên nhiên", "người am hiểu nghệ
thuật", "người đồng chí kính yêu", "người bạn của công
nhân", "người bạn của nông dân", người bạn của thế hệ trẻ",
"con người vì sự nghiệp", "người bạn của các vận động
viên". Trên một số tranh ảnh trong thời gian này, Hitler được ghi chú như
"người cha của dân tộc", "người cha của nhân dân" (69-75),
"người cầm lái vĩ đại", "người anh hùng áo vải"... Hay như
các tác giả của Ðệ Tam Ðế Chế viết: "Người am hiểu nền kinh tế nông
nghiệp, cũng như kỹ thuật, như nghệ thuật và cả kỹ nghệ đóng tàu."
(151-292).
Ở Ytalia, cũng có sự sùng bái
tương tự đối với Muxolini. Người ta cũng tô vẽ cho ông những phẩm chất vĩ đại:
Ðutre, trong bộ quân phục, đang dùng cuốc chim phá vỡ hòn đá tảng; với thanh
gươm trong tay đang chuẩn bị luyện võ; điều khiển máy giặt, lái máy kéo, cỡi
ngựa...
Franco ở Tây Ban Nha cũng được
giành một sự sùng bái vô độ: "xung quanh tên tuổi ông ta được bao bọc sự
sùng bái chưa từng thấy trong lịch sử Tây ban Nhạ Tất cả những gì tốt đẹp đều được
gắn cho Tướng Franco: chiến thắng Tây Ban Nha "đỏ", "sự nghiệp
xây dựng" nhà nước Tây Ban Nha mớị" (20- 280) Hoxe Garxia đã viết như
vậy.
Trong thời gian này ở Ðức, có một
số lượng khổng lồ những bài thơ ca ngợi Hitler, ví ông ta như ngọn cờ, như vì
sao, như mặt trời... Chúng tôi xin dịch một số khổ thơ như thế.
*Trích từ bài "Kính Tặng
Thống Lĩnh" của Herman Harder viết năm 1936:
Chúng con yêu người như yêu nước
Ðức
Chiến đấu cho Người, cho nước Ðức
thân yêu
Và sẵn sàng hy sinh vì Người.
Bởi có Người nước Ðức thành vĩ đại.
............................
Giờ đây chúng con càng yêu thêm
nước Ðức và yêu Người - lãnh tụ kính yêu Trong áo vải giản đơn ánh hào quang
vẫn tỏa.
(180 - 359)
*Trích từ bài "Ðêm Thanh
Bình" do Frix Fon Rabenau viết năm 1934:
"Ðêm thanh bình, đêm trong
sáng
Tất cả ngủ yên rồi,
Riêng Người vẫn thức thôi
Người
trăn trở nỗi niềm hạnh phúc
Cho chúng con, cho nước
Ðức thân yêu.
Ðêm thanh bình, đêm trong sáng
Tất cả ngủ yên rồi,
Riêng Người vẫn thức thôi
Aldolf Hitler với số phận nước Ðức
trong tay
Dẫn chúng con đến vinh quang, bình
yên và hạnh phúc
Cho chúng con niềm tin."
(180-346)
*Trích từ bài "Vĩ Ðại"
do Fon Sirah viết năm 1937 như sau:
Người là hiện thân của vĩ đại lãnh
tụ của chúng con, vị anh hùng sao thân thiết và vô cùng giản dị, Người nắn giữ
cội nguồn vũ trụ vạch đường đi cho những vì sao, và vẫn hiện nguyên Người mộc
mạc, giản đơn, bình dị dường nàọ
(180 - 365)
* Hay trích từ "Khi Thống
Lĩnh Nói" do Carl Emil Ufof viết 1935:
Thống Lĩnh nói! Lời nói thành sự
nghiệp và những câu từ bình dị. bỗng trở nên có sức mạnh siêu phàm. Thống Lĩnh
nói: lời Người thành pháp luật.
(180 - 366)
*Trích từ "Hình Ảnh người
Trong Trái Tim Chúng Con" của Hainrih Anacer:
Chúng con mang hình người trong
trái tim, Chúng con nâng người trên biểu ngữ! Người vẫn cùng chúng con trên mọi
gian lao, dẫn dắt chúng con qua hiểm nguy, giông tố
(180 - 104)
*Trích trong bài "Bài Ca Tự
Do của Adolf Hitler" do Luxca Irenau viết năm 1933:
Chúng con trao cho Người tất cả
mọi trái tim!
Luôn đứng bên Người trong niềm vui
và đau khổ !
Hitler muôn năm!
Ðó là bài hát tự do!
Chúng con sẽ chiến đấu như Người
hằng mong muốn!
Bình minh đến rồi, tự do vẫy gọi!
Hãy ca vang bài ca nước Ðức tự
hào!
Cầu Thượng Ðế!
Xin giúp người tất cả!
Người sẽ chiến đấu và đời đời sống
mãi với chúng ta!
*Trích từ bài thơ của Volfarm
Crupca (báo Fanalgedihte, Berlin, 1933:
Người đứng đó với đôi mắt sáng
(Hitler không bao giờ có đôi mắt
sáng! J.J.)
Dẫn dắt chúng con, dìu dắt chúng
con đi, Từ trận thắng này tiếp kề theo trận khác, cờ Ðảng bay quanh Người.
Người khẳng định: nước Ðức luôn chiến thắng! Giản dị, đơn sơ, mà vô cùng vĩ đại
Người dẫn đầu thế hệ đấu tranh.
Tất nhiên, những khổ thơ như trên
chỉ là một phần không đáng kể trong số khổng lồ các bài thơ ca ngợi Hitler.
Nhưng chừng đó cũng đủ nói lên rằng, trong nhà nước độc tài, sùng bái cá nhân đã
đạt đến mức tôn thờ thần tượng chính trị vô độ . Những nhà thơ tài ba nhất là
những người viết được những vần thơ đẹp nhất về lãnh tụ đảng và nhà nước.
Trong lãnh vực báo chí cũng có thể
quan sát thấy một hiện tượng tương tự . Chỉ cần Thống Lĩnh đọc một vài lời nào đó,
là đủ để cho toàn bộ diễn đàn, như có người chỉ huy, phân tích, diễn giải hàng
tuần sau đó. Những lời của Thống Lĩnh được xem như "bước ngoặt số
phận" hay "cuộc đảo chính cách mạng" trong lĩnh vực tương ứng.
Adolf Xigler Chủ Tịch Ban Nghệ
Thuật Ðức, đã đánh giá bài diễn văn do Hitler đọc nhân kỷ niệm Ngày Nghệ Thuật
Ðức năm 1937 như sau:
"Kính thưa Thống Lĩnh kính
yêu! Nhân dịp kỷ niệm Ngày Nghệ Thuật Ðức, người đã đến dự; và bằng hành động
trong sáng này, Người không chỉ khai mạc cuộc triển lãm này, mà còn chỉ ra con đường
đúng đắn cho nền nghệ thuật Ðức. Mỗi người trong chúng con, được vinh dự sống
trong những ngày này, là nhân chứng cho bước ngoặc quyết định trong đời sống văn
hóa nước nhà. Cuộc triển lãm đầu tiên này được tổ chức theo nguyện vọng và với
sự tham gia của người, là khẳng định không còn bàn cãi, rằng cần phải chọn
riêng ra những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại. Ngoài ra cuộc triển lãm "Nghệ
Thuật Thoái Hóa" đã làm sáng tỏ nguyện vọng của người trước thế giới. Như
vậy Ngày Nghệ Thuật Ðức năm 1937 nhờ sự sáng tạo của Người đã trở thành một
bước ngoặc quyết định cho nền nghệ thuật Ðức, mà sự vĩ đại cùng tầm cỡ của nó
ngày nay chúng con chưa thể cảm nhận được đầy đủ . Song chúng con biết rằng,
lúc nào đó lịch sử sẽ viết về sự kiện này như mở đầu cho sự phục hưng mới của
nền nghệ thuật Ðức. Chúng con, những họa sĩ Ðức chân chính, xin chân thành cảm
ơn Người và chúng con xin hứa với Người là sẽ phấn đấu hết sức mình để xứng đáng
với ngày hôm nay." (178- 339)
Báo chí Ðức ngày 20 và 21-7-1937 đăng
hàng loạt những bài tán dương diễn văn của Quốc Trưởng đến tận mây xanh.
Diễn văn của Thống Lĩnh hàng tháng
sau vẫn được các nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật quan tâm. Nó trở thành chuẩn
mực để đánh giá các tác phẩm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tạo của người nghệ sĩ
trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, thành cương lĩnh nghệ thuật và phải theo đó mà
thực hiện và lãnh đạo.
Khi chiến tranh bắt đầu xảy ra,
báo chí Ðức đặc biệt viết rất nhiều về "thiên tài Quân sự" của Thống
Lĩnh. Ngày 20-4-1941 Hitler tròn 52 tuổi. Toàn bộ diễn đàn chúc mừng ngày sinh
nhật của Thống Lĩnh bằng những bài viết dài, trong đó Hitler được vẽ lên như
"vị tướng soái" vĩ đại nhất trong tất cả mọi thời đại. Thiên tài của
Thống Lĩnh được tô vẽ bằng những chiến thắng ở Ba Lan, Hà Lan, Pháp...
Ðương nhiên, sự sùng bái Thống
Lĩnh được những lãnh tụ đảng khác châm ngòi. Thí dụ, Fon Sirah, Thủ Lĩnh Ðế Chế
về vấn đề thanh niên, là tác giả bài thơ "Vĩ Ðại". Sau này tại tòa án
Niurnberg, Fon Sirah công nhận: "Tôi tôn thờ Hitler và tôi làm theo tất cả
những gì ông ta nói và ông ta viết, như đối với một thần tượng." (88- 320)
Trong diễn văn nhân dịp thành lập
Ban Ca Kịch Quốc Gia, Gobelx đã phát biểu như sau: "Ngày nay các ngài được
sống trong giai đoạn hạnh phúc và vĩ đại. Các ngài có vinh dự nhìn thấy trước
mắt mình một lãnh tụ của nhân dân và nhà nước, đồng thời là người am hiểu và
che chở cho nghệ thuật. Người yêu mến các nghệ sĩ bởi vì bản thân Người cũng là
nghệ sĩ. Dưới cánh tay thiên thần của Người, một luồng hào quang sán lạn và mới
mẻ đang tỏa sáng trên bầu trời nước Ðức." (179-49)
Sùng bái lãnh tụ như mọi sùng bái
khác đều có nghi lễ của nó. Trong mọi công sở, văn phòng, giảng đường, trường
học, trong từng nhà, từng gia đình, chân dung của Thống Lĩnh được đặt nơi trung
tâm trang trọng nhất. Xung quanh chân dung Thống Lĩnh luôn luôn có hoa tươi,
thể hiện tình yêu và lòng tôn kính vô hạn của nhân dân đối với lãnh tụ . Thống
Lĩnh khai mạc những cuộc triển lãm nghệ thuật lớn, những ngày hội quốc tế và
dân tộc long trọng, bổ nhát cuốc đầu tiên và cắt băng khánh thành cho những
công trình quan trọng...
Trong nghi thức sùng bái Hitler
bao hàm cả cách thể hiện hình ảnh ông ta. Ông ta không thể mệt mỏi, buồn rầu
hay chán nản, không thể có yếu điểm và khuyết tật thể chất. Ngược lại, Thống
Lĩnh cần trong sạch một cách lý tưởng và thẳng thắn như tia sáng. Mọi họa sĩ và
nghệ sĩ nhiếp ảnh có nghĩa vụ phải thể hiện Thống Lĩnh theo những phẩm chất đó.
Nghi thức sùng bái trở nên nghiêm
ngặt đến mức bản thân Hitler cũng bắt buộc phải quan tâm đến nó. Các tác giả
của Ðệ Tam Ðế Chế định công bố ảnh của Thống Lĩnh, chụp khi ông ta đang viết
với cặp kính trên mắt. Nhưng vì hình dáng ông ta với cặp kính hoàn toàn không ăn
nhập, bản thân Thống Lĩnh đã xé tấm hình này và cấm không được công bố. Ðồng
thời để khỏi phải mang kính, mỗi khi ra trước công chúng, các thư ký của Hitler
viết những bài diễn văn hay bài phát biểu cho ông ta bằng kiểu chữ in to. Tuân
theo nghi thức sùng bái của mình, nghi thức đòi hỏi Thống Lĩnh phải khiên tốn
và gần gũi với những người dân thường, Hitler không bao giờ dùng trang phục
trang trọng. Trang phục thường xuyên của ông ta, sau khi nắm chính quyền, là bộ
đảng phục, không có dấu hiệu gì khác biệt, so với những đảng viên thường.
Những câu nói, không phải bao giờ
cũng liên quan lôgic của Thống Lĩnh, được xem là mở đầu cho thời đại mới của
nghệ thuật hùng biện.
"Như mọi thiên tài bẩm sinh,
Hitler mang trong mình một thứ văn mỹ hoàn toàn mới mẻ . Những lời của Người
không ngọt ngào và đối xứng như bàn cờ. Những câu nói và suy nghĩ của Người
giống như những khối nặng, như dung nham thổi bùng lên từ ngọn núi lửa và rơi
tự do quanh đây, rồi bằng vẽ đẹp hùng tráng đầu tiên của mình, chinh phục và điều
khiển nhận thức con người.
... Những lời nói của Thống Lĩnh
giống như những nhát búa gõ vào cánh cửa đóng kín của nhận thức và trái tim
chúng ta. Mục đích của Người không phải an ủi, mà là thâm nhập và điều khiển
chúng ta." (128- 130)
Những địa danh liên quan đến tên
tuổi của Thống Lĩnh cũng trở thành linh thiêng. Người ta còn giữ được cuốn phim
quay cảnh Fon Sirah - Thủ Lĩnh Thanh Niên- đang dẫn những thành viên ưu tú của
"Thế Hệ Hitler", với ngọn đuốc trong tay đến thăm nhà tù Landberg,
nơi Hitler đã viết Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi. (72- 102)
Việc toàn dân học tập Cuộc Chiến
Ðấu Của Tôi, thông qua cơ sở đảng và những tổ chức quần chúng, là một trong
những hình thức đặc trưng cho sự sùng bái Hitler. Ðảng phát xít xem nó như cẩm
nang cho chế độ quốc xã, còn trong lần tái bản Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi được xem
như triết tác của các chiến sĩ lão thành. (78- 142)
Trong những năm cầm quyền của chế độ
quốc xã, Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi được xuất bản tới 6,5 triệu cuốn. Thậm chí có
những lúc chính quyền với danh nghĩa đảng đã dùng no làm quà tặng cho những đôi
vợ chồng mới cưới như quà tặng quý giá nhất cho gia đình tương lai.
Người ta còn tìm được những thước
phim trong tài liệu của bọn quốc xã, kể về một bản sao Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi, được
gọi là Sách Của người Ðức. Bản sao này được đặt trong hộp đặc biệt, có thể giữ được
1000 năm, thời gian dự trù tồn tại của Ðệ Tam Ðế Chế. Giấy của bản sao được làm
từ da trâu theo kỷ nghệ và dụng cụ đặc biệt của thế kỷ XVIII. Một đội thợ mỏ được
cử xuống lòng đất đào quặng, và người ta dùng quặng này để luyện kim loại đặc
biệt làm chữ viết cho bản sao này! ... /72- 10)
2. Biến nhân dân thành quần thể không tính cách.
Rõ ràng, Hitler đã được tôn thờ
như thần tượng. Theo lời Hamsic: "Niềm say mê cuồng nhiệt đối với ông ta đã
đạt tới đỉnh điểm, mà không một nhà tiên tri tôn giáo nào dám mong ước."
(125) Albert Speer, trong hồi ký viết tại nhà tù Spandaux, khẳng định rằng nhân
dân "bị ông ta mê hoặc, như chưa từng có dân tộc nào trong lịch sử bị mê
hoặc đến mức đó." (125). tất cả những điều này là sự thật. Rất nhiều tài
liệu khẳng định như thế.
Tất nhiên khả năng đó của Hitler
là do chế độ độc tài mang lại. Trong chế độ độc tài không tồn tại xu hướng đối
lập, các đảng phái đối lập, không cho phép công kích, ý kiến xã hội khác với
nhà nước; ngược lại, mọi phương tiện tuyên truyền (diễn đàn, đài phát thanh,
phim ảnh, nhà hát...) đều đồng loạt tô vẽ cho sự thông thái của đảng quốc xã và
lãnh tụ đảng. Ðây là cách giải thích khoa học cơ bản cho việc tôn thờ Hitler vì
một nhân cách chính trị không thể không liên quan đến hệ thống chính trị được
thiết lập.
Một vài tác giả giải thích khả năng
đặc biệt này của Hitler bằng nghệ thuật hùng biện của ông ta và bản thân ông ta
cũng tin như thế. Những đúc kết của Hitler về vấn đề này là:
1.Lãnh đạo quần chúng "là
nghệ thuật theo ý nghĩa đúng đắn nhất của từ này. Và cũng giống như mọi nghệ
thuật khác, cái hoàn hảo chỉ đạt được bằng lao động miệt mài." (90- 130)
2. "Tôi khuấy đảo quần chúng
và chưa đi vào vấn đề, trước khi họ bị biến thành quần thể ." (99- 131)
3. "Quần chúng như một động
vật, chỉ phục tùng bản năng của nó. Ðối với quần chúng, lôgic và lý lẽ là hoàn
toàn vô nghĩa." (99- 131)
4. "Tôi mê hoặc quần chúng để
từ đó tạo ra những công cụ chính trị ." (99-131)
Và đây là nguyên văn lời bàn của Hitler
về vấn đề này với Rausing, Bí Thư Khu ủy Ðanxig:
"Những đối thủ của tôi nhìn
tôi nghi ngờ. Họ tự hỏi một cách ghen tị: Làm thế nào mà con người này thành
công được trước công chúng? Theo những người xã hội và cộng sản thì quần chúng
là một thể độc đoán, chặt chẽ. Quần chúng khống chế các phòng họp và lá những
ông chủ trên đường phố. Thế mà tự nhiên có một người chạm đến và ngay lập tức
sinh ra một phong trào quần chúng rộng lớn. Ðây là ngẫu nhiên hay do sai lầm
của quần chúng? Chúng ta hãy tha lỗi cho các ngài đáng kính đó, nhưng rõ ràng
là họ đi lạc vấn đề. và bản thân chúng ta cũng phải trả giá cho những cách thức
và biện pháp của chúng ta.
Quần chúng không có đầu óc phê
phán, điều này không cần bàn cãi, nhưng không phải theo cách hiểu của các nhà
mácxít và những kẻ ngốc nghếch của chúng ta. Quần chúng cũng có những cơ quan
công kích, chỉ có điều chúng khác với những cơ quan tương ứng của một con
người. Quần chúng như một động vật chỉ phục tùng bản năng của nó. Ðối với quần
chúng, logic và lý lẽ là hoàn toàn vô nghĩa. Nếu như tôi đã thành công trong
việc tạo ra một phong trào quần chúng rộng lớn nhất trong mọi thời đại, là vì
không bao giờ tôi sử xự mâu thuẫn với tâm lý của quần chúng và mạt sát những
mẫn cảm của họ . Những mẫn cảm này có thể là nguyên thủy nhưng chúng luôn mang
trong mình một sức mạnh thiên nhiên không đổi. Khi quần chúng phải chịu đựng
những gì không thoải mái, như ở những giai đoạn đói kém hay lạm phát, họ không
bao giờ còn có thể quên được nữa. Quần chúng có bộ máy cảm nhận và suy nghĩ đơn
giản. Tất cả những gì họ không hiểu đều làm cho họ sợ . Chỉ khi tôi làm chủ được
những quy luật tự nhiên, tôi mới có thể điều khiển được quần chúng. Người ta
buộc tội tôi là đã mê hoặc quần chúng. Những nhà tâm lý kinh nghiệm khuyên nên
vỗ về quần chúng, giữ ho trong trạng thái mơ màng về quyền bình đẳng. Không,
thưa ngài, vấn đề là phải làm ngược lại. Tôi chỉ có thể lãnh đạo được quần
chúng khi họ đã bị mê hoặc mà thôi. Quần chúng thờ ơ là mối nguy hiểm ghê gớm
nhất cho mọi thứ chính trị . Sự thờ ơ bảo vệ cho quần chúng, là nơi cư trú tạm
thời, tích lũy sức mạnh và sẽ bùng nổ những phản kháng bất ngờ, hoàn toàn không
mong đợi. Người lãnh đạo nhà nước, mà không thi hành những biện pháp khẩn cấp,
một khi thấy quần chúng đã trở nên bình đẳng, thì xứng đáng đưa ra tòa xét xử
...
Tôi mê hoặc quần chúng - Hitler
nói tiếp - để từ đó tạo ra những công cụ chính trị . Tôi thức tỉnh quần chúng,
bắt họ tự nâng mình lên, trao cho họ chức năng và ý nghĩa. Người ta buộc tội
tôi là, đã khuyến khích cả những thú tính thấp hèn nơi quần chúng. Hoàn toàn
không phải như vậy. Nếu tôi tỏ ra thông minh trước quần chúng, họ sẽ không hiểu
tôi; nhưng nếu tôi kích thích được những mẫn cảm mà họ có, họ sẽ chấp nhận ngay
lập tức khẩu hiệu do tôi nêu ra. Trong một cuộc họp quần chúng không có chỗ cho
nghĩa lý. Và vì tôi cần đến môi trường này, bởi đó là nơi bảo đảm cho những lời
nói của tôi có trọng lượng, tôi tập họp càng nhiều càng tốt những thính giả và
biến họ thành một quần thể: Trí thức cũng như công nhân. Tôi khuấy đảo quần
chúng và chưa đi vào vấn đề, trước khi họ bị biến thành quần thể - Hitler suy
nghĩ một lát rồi nói tiếp - Tôi tự khẳng định rằng, trong nghệ thuật chinh phục
quần chúng, không ai có thể sánh được với tôi cả, ngay cả Gobelx. Cái đạt được
bằng trí khôn là lĩnh vực riêng của Gobelx. Nhưng điều khiển thực sự được quần
chúng là điều không thể học được. Và ngài đừng quên rằng, quần chúng càng đông
bao nhiêu, càng dễ điều khiển bấy nhiêu. Hỗn hợp quần chúng càng đa dạng bao
nhiêu: nông dân, công nhân,viên chức thì càng dễ mang đặc thù quần thể bấy
nhiêu. Sẽ không đạt được gì trong cuộc họp những người có văn hóa, những đại
diện các tổ chức công đoàn... Ðiều mà ngài khẳng định hôn nay bằng những giải
thích lôgíc, ngày mai sẽ bị phủ nhận với những minh chứng đối ngược. Nhưng
những gì mà ngài nói với nhân dân, khi họ đã là một quần thể trong trạng thái
dễ cảm nhận và hy sinh cuồng nhiệt, sẽ chịu được những công kích lôgíc. Nhưng
ngài chớ quên rằng, cũng như trong hệ thần kinh của một cá thể có những điểm mà
các bác sĩ không dám động đến, quần chúng có những chỗ đau riêng không thể mạt
sát. Một trong những điều tối kỵ này là các vấn đề liên quan đến lạm phát và đói
kém. Tôi có thể dễ dàng đòi hỏi quần chúng những hy sinh to lớn, song đồng thời
phải chuẩn bị tinh thần cần thiết để giúp họ chịu đựng.
... Ngài hãy làm tất cả những gì
ngài muốn, nhưng đừng nói với tôi thêm về mất giá hay lạm phát. Bởi vì quần
chúng không thể phân biệt được sự khác nhau giữa chúng." (99-130. 132,
134)
Cái cho phép Hitler biến được nhân
dân thành quần thể vô bản sắc, không biết suy nghĩ, không thể công kích, là
xuất phát từ nhà nước độc tài, chứ không phải từ khả năng hùng biện của ông ta.
Nhà nước độc tài đã làm cho nhân dân thành quần thể, tước đi của họ các đảng
phái và tổ chức chính trị, diễn đàn đối lập, tính công khai, ý kiến xã hội, tự
do bầu cử, cưỡng ép họ vào các tổ chức quần chúng quốc gia và đặt những tổ chức
này dưới sự kiểm soát tổng thể của nhà nước. Nhà nước độc tài đã biến nhân dân
thành quần thể, tiêu diệt mọi suy nghĩ, thị hiếu và tư tưởng của họ .
Như vậy ảnh hưởng đặc biệt của
Hitler đối với quần chúng không phải là do tài hùng biện của ông ta, mà xuất
phát từ bản chất của nhà nước độc tài. Và nếu cần phải đánh giá thiên tài quái đản
Hitler thì đó không phải là nghệ thuật lãnh đạo quần chúng, mà là việc đã tạo
ra nhà nước độc tài.
Không phải bản thân nhà hùng biện,
mà là chế độ chính trị này đã biến các tầng lớp nhân dân khác nhau thành quần
thể. Nếu trong một cuộc họp quần chúng lẫn lộn hàng chục nghìn công nhân, nông
dân, nhà văn, kỹ sư, bác sĩ... là do họ bị các tổ chức quần chúng, mà trong đó
họ là thành viên và không thể không là thành viên, cưỡng ép đến. Tất cả đều
hiểu rằng, sự tham gia của mình trong cuộc họp thể hiện tư cách chính trị và
cấp trên nhìn vào đó để đánh giá quan điểm của họ . Ðây là đặc thù tự nguyện-
cưỡng ép của chế độ phát xít. Nhà nước độc tài thi hành khủng bố và kiểm soát
tổng thể và toàn diện, đến mức mọi công dân đều sử xự đúng như nhà nước mong
muốn. Người ta đã quen xem mọi hành động của nhà nước là đúng đắn nhất, luôn
luôn tán thành với chúng, không hề nghĩ là không ai cho phép họ sử xự khác hơn.
Kết quả là họ bắt đầu tự lừa dối rằng. luôn luôn hành động một cách tự nguyện,
trong chừng mực cưỡng ép và tự nguyện còn có thể dung hòa với nhau.
Hitler xem việc mê hoặc quần chúng
là một trong những điểm cơ bản của nghệ thuật chinh phục quần chúng, nhưng cả điều
này cũng chỉ là kết quả của nhà nước độc tài hơn là khả năng hùng biện của ông.
Toàn thể nhân dân không thể bị mê hoặc nếu chế độ độc tài không được xây dựng.
Chế độ này đã sử dụng mọi công cụ tuyên truyền, cưỡng ép nhận thức của quần
chúng một cách có hệ thống, theo một đối tượng nhất định; đồng thời mọi vấn đề
chỉ đưa thông tin theo một chiều, phủ nhận và phỉ báng mọi ý kiến phản đối. Sự
thật, không một lãnh tụ chính trị nào có thể mê hoặc được quần chúng trong
những điều kiện của nền dân chủ tự do, là một minh chứng hùng hồn rằng, nếu
không có sự thống trị tuyên truyền thì không thể tồn tại những kẻ mị dân như
Hitler, vì các đảng và diễn đàn đối lập ngay lập tức sẽ vạch mặt và đả kích
chúng. Nơi nào có công kích và tiếng cười công khai, nơi đó không thể có sự mê
muội. Thực chất, bản thân Hitler cũng chỉ mê hoặc được quần chúng và biến họ
thành quần thể hoang dại mãi sau khi nắm chính quyền và xây dựng bộ máy nhà
nước của mình.
Trước khi Hitler tuyên bố là được
thiên mệnh cử xuống làm Thống Lĩnh cho nhân dân Ðức, rất nhiều người đã tin như
thế. Ngay từ năm 1933, khi Hitler mới chân ướt chân ráo lên nắm chính quyền,
Fon Papen đã tiên đoán như sau: "Trong những thời kỳ khó khăn này, Thượng
Ðế nhân từ đã gia ơn đã ban cho nước Ðức một lãnh tụ, để dẫn dắt nước Ðức vượt
qua mọi khó khăn nguy hiểm đến tương lai hạnh phúc huy hoàng." (88- 397)
Các nhà thơ cũng sáng tác dựa trên
tinh thần này. Ðảng Quốc xã và Hitler khuyến khích những tâng bốc vô độ, vì
chúng nhìn thấy trong đó công cụ thống nhất nhân dân để xây dựng sự thống nhất
tinh thần- chính trị bền vững. Kết quả là không chỉ đảng và nhân dân, mà ngay
cả Hitler cũng tin vào "sự thật" này.
Trong vấn đề này, những suy nghĩ
của Ialmar Saht về Hitler tại tòa án Niurnberg rất tinh tế:
"Tôi nghĩ rằng, ban đầu ông
ta không có những tính cách xấu xa như vậy; rõ ràng ông ta là nhà tư tưởng,
mong muốn những điều tốt lành, nhưng dần dà ông ta trở thành nạn nhân cho sự
tôn thờ của quần chúng nhân dân, bởi vì những kẻ làm tha hóa quần chúng đều kết
thúc bằng việc bị quần chúng tha hóa.
Những mối quan hệ tương tự giữa
người lãnh đạo và những người dưới quyền, dẫn đến việc người lãnh đạo bắt đầu
sai lầm phục tùng bản năng của quần chúng, điều mà tất cả những lãnh tụ chính
trị cần phải tránh xa." (80- 164)
3. Tôn thờ các lãnh tụ đảng và nhà nước khác của chế độ
phát xít.
Cấu trúc hình kim tự tháp của nhà
nước phát xít tạo ra sự tôn thờ cá nhân cán bộ lãnh đạo chính trị, vì người này
không thể bị thay đổi từ phía dưới, không bị kiểm soát và có quyền lực vô hạn đối
với những kẻ thừa hành của mình. Vấn đề chỉ còn là mức độ của sự sùng bái này,
rõ ràng là phụ thuộc trực tiếp vào khả năng quyền lực mà người đó nắm giữ.
Quyền lực càng nhiều bao nhiêu, sùng bái càng lớn bấy nhiêu. Như vậy sùng bái
không có gì khác hơn là uy tín giả tạo, mà sức mạnh ghê gớm của quyền hành sinh
ra chung quanh một cá thể, chỉ có điều cả người này và những người xung quanh đều
tin là thật. Vì vậy uy tín này chỉ tồn tại khi quyền lực bạo tàn và vô hạn còn
nằm trong tay cá thể đó. Mất quyền lực hay chính quyền sụp đổ, cũng đồng thời
mất luôn uy tín và sự tôn thờ.
Trong đẳng cấp tôn thờ của Ðệ Tam
Ðế Chế, Hitler chiếm vị trí cao nhất. Ông ta là tuyệt đối và lý tưởng, tương
ứng với quyền hành tuyệt đối và vô hạn của Thống Lĩnh. Ông ta ở khắp nơi và
biết hết mọi điều như Ðức Chúa Trời.
Sau Hitler đến các thủ lĩnh chính
trị khác.Trong các công sở, trường học... chân dung của Goring, Himler, Hex... được
treo bên cạnh chân dung của Thống Lĩnh ở những vị trí trang trọng nhất. Ðường
phố, trường học, nơi công cộng... thường mang tên một thủ lĩnh vĩ đại nào đó.
Quỹ giúp đỡ những người làm công tác nghệ thuật mang tên "Herman
Goring"...
Các bài phát biểu và "những
công trình" của lãnh đạo đảng và nhà nước được xuất bản ngay tức khắc với
số lượng khổng lồ. Huyền Thoại Thế Kỷ XX của Rozenberg được xuất bản tới hai
triệu cuốn.
Các nhà báo thường nhân cách hóa
những thủ lĩnh đế chế như những nhân vật thơ mộng. Hanx Frixrih Blunc, trong
bài báo "Các Nhà Lãnh Ðạo Chính Trị mới", đã mô tả như sau:
"Cách đây 20 năm, họ là những họa sĩ trẻ hay nhà thơ mơ mộng, đã từng rung
cảm về tình yêu và tự do của dân tộc và từng hạnh phúc về một buổi dạo chơi với
người bạn gái ngây thơ." (180- 168)
Báo chí thường xuyên công bố long
trọng ngày sinh của các Thủ Lĩnh chính trị . Bằng vách đó, nhắc nhở một cách hệ
thống vai trò của đảng quốc xã như lực lượng lãnh đạo trong Ðệ Tam Ðế Chế, luôn
luôn nhồi nhét vào ý thức của mọi công dân rằng, nước Ðức không thể tồn tại nếu
không có đảng quốc xã. Thí dụ báo Nasional Xaitung trong số ra ngày 24- 4-1941 đã
viết về Rudolf Hex được gọi là "linh hồn của đảng". Nếu như chúng ta
hỏi tái sao Phó Thống Lĩnh lại được tặng danh hiệu cao quý này, thì câu hỏi này
có thể trả lời không chút khó khăn: không một sự kiện nào trong cuộc sống chúng
ta mà lại không liên quan đến tên tuổi của Phó Thống Lĩnh. Người vô cùng năng động
và sáng tạo trong công tác và mọi lĩnh vực, đến mức không thể nói lên bằng một
vài lời... Rất nhiều biện pháp được chính phủ triển khai, đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế, quân sự và trong đảng là do sáng kiến của Phó Thống
Lĩnh." (90- 211)
Và đây là lời chúc mừng của báo
chí nhân dịp Alfret Rozenberg, nhà tư tưởng của đảng quốc xã, nhận giải thưởng
Dân Tộc Ðức năm 1937: "Alfet Rozenberg với những tác phẩm của mình đã giúp
đỡ đặt nền móng cho những cơ sở tinh thần và khoa học, củng cố và phát triển
triết học quốc xã... Chỉ tương lai mời có thể đánh giá được đầy đủ cống hiến
của Alfet Rozenberg cho những cơ sở triết học của nhà nước quốc xã." (90-
231)
Như chúng ta đã nhiều lần nhấn
mạnh, cơ sở của sự sùng bái nằm trong quyền lực ghê gớm và vô biên mà nhà nước
quốc xã trao vào tay giới cầm quyền chóp bu.
Bản thân cấu trúc quan liêu tự
tiến dần đến tập trung quyền lực. Do đó, các cán bộ trong đẳng cấp này luôn có
tham vọng thâu tóm quyền lực về tay mình. Ðây là một trong những điều kiện quan
trọng nhất, để có thể đứng vững trước những cuộc tranh giành quyền lực ngày
càng nhiều.
Lúc đầu, Hitler chỉ mới là lãnh tụ
tối cao và Thủ Tướng chính phủ . Bằng sắc luật ra ngày 1.8.1934 Hitler sát nhập
trọng trách Tổng Thống và Thủ Tướng, thâu tóm quyền lực Tổng Thống vào tay
mình. Ngày 4-2-1936, Hitler tự phong làm Tổng Chỉ Huy Tối Cao các lực lượng võ
trang Ðức. Như vậy, Hitler vừa là lãnh tụ tối cao của đảng, nhà nước và các lực
lượng vũ trang (Thống Lĩnh, Thủ Tướng, Tổng Chỉ Huy Tối Cao), nghĩa là không
còn chút quyền hành nào lọt qua khỏi tay ông ta.
Goring mới đầu chỉ là Bộ Trưởng Bộ
Không Bộ của chính phủ Hitler, dần dần biến thành Bộ Trưởng Bộ Không Quân,
Tướng Lĩnh SS và SA, Toàn Quyền Ðặc Biệt của Kế Hoạch Bốn Năm, Nguyên Soái Ðế
Chế, Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Phòng, Giám Ðốc Sở Mật Thám Zetapo tại Pruxia.
Albert Speer là Bộ Trưởng Vũ Trang
và Công Nghiệp Quân Sự, đại diện trong văn phòng đảng về những vấn đề kỹ thuật,
Hội Trưởng Hội những Nhà Kỹ Thuật Ðức, Tướng Lĩnh SS, SA...
Ðiều này chỉ ra, thực chất quá
trình tập trung quyền lực vào một số người, đứng trên pháp luật và lương tâm,
nhưng lấy danh nghĩa là theo nguyện vọng của Thống Lĩnh, quyền lợi của đảng và
nhân dân, mang hình dáng hoàn thiện của nhà nước độc tài phát xít.
4. Sùng bái đảng phát xít.
Việc đảng phát xít được xem là
thông thái tuyệt đối và không thể sai lầm cũng xuất phát từ quyền lực vô hạn
của nó. Tất cả đều phải phục tùng vô điều kiện nguyện vọng của đảng: nhà nước,
các tổ chức quần chúng, những cơ sở văn hóa... thậm chí cả những vấn đề riêng
tư của gia đình và cá nhân. Cuộc đời người chỉ được xem là có nghĩa nếu có cống
hiến gì đó cho sự nghiệp của đảng quốc xã.
Ðảng là uy tín tối cao về chân lý,
sự thông thái, lẽ công bằng. Ðảng không cần phải giải thích với bất cứ người
nào về những hành động của mình, mà xem đó như thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả
. Chân lý là những gì phù hợp với quyền lợi của đảng và giới lãnh đạo chóp bu.
Ðối với chế độ phát xít, không tồn tại chân lý khách quan, không phụ thuộc vào
nguyện vọng và mục đích của đảng.
Tại đại hội đảng tháng 9-1935,
Hitler tuyên bố, "Uy tín của đảng cần được chấp nhận như tòa án tối cao,
như cấp kiểm soát và quyết định cuối cùng. Ai không hiểu được điều đó thì không
có quyền suy nghĩ về lịch sử, sáng tạo và cấu trúc... ở đây, không thể nêu vấn đề
sai lầm hay không sai lầm. Giống như một tướng lĩnh, một cấp chỉ huy, một đội
quân hay thậm chí một người lính không có quyền nghi ngờ về sự đúng đắn của các
mệnh lệnh được giao trong lãnh đạo chính trị và đeo đuổi mục đích, một cá nhân
riêng biệt không thể hành động theo những quan điểm mà mình cho là đứng đắn và
xem những quan điểm, chỉ thị và mệnh lệnh của đảng là sai lầm." (128-
270,271)
Từ cách "nhận thức" như
trên về đảng dẫn đến không ít những luân lý độc tài, rằng đảng luôn luôn quang
minh chính đại. Do đó mọi hành động xa rời đường lối của đảng đều là sai lầm và
cần phải loại bỏ .
Trong điều lệ đảng ghi rõ:
"Phục vụ cho phong trào (phong trào quốc xã- J.J.) là đúng đắn và cũng là
phục vụ cho nước Ðức." (89-25) Gobelx năm 1933 còn xây dựng rõ ràng hơn
nguyên tắc tinh thần cơ bản này của đảng: "Tất cả những gì phục vụ cho chế
độ quốc xã là đúng đắn, tất cả những người làm hại đến chế độ quốc xã là xấu xa
và cần phải gạt bỏ ." (119-126)
"Ðứng ngoài phong trào quốc
xã thì không thể phục vụ cho nước Ðức và nhân dân Ðức, bởi vì- như chúng ta đã
nhiều lần nhấn mạnh- trên quan điểm tư tưởng của chế độ quốc xã, đảng đồng nhất
với nhà nước, nhân dân và quê hương. "
Theo cách suy luận lôgíc này, đảng
quốc xã có quyền lấy danh nghĩa nhân dân để loại bỏ tất cả những gì không phù
hợp với thị hiếu và nguyện vọng của nó. Trong tập san lý luận của đảng quốc xã,
Gương Mặt Ðảng, có đoạn viết: "Cần phải sử dụng những biện pháp, và nếu
cần - cả những biện pháp trừng phạt - nếu như cá nhân có những hành động làm
tổn hại đến bản thân và những người xung quanh." (89-16)
Cá nhân không có quyền và không
thể đánh giá, khi nào thì những hành động của mình có hại đến bản thân và những
người xung quanh. Chỉ có đảng quốc xã mới có quyền đó và sử dụng những biện
pháp tương ứng để "giúp đỡ", không cần quan tâm đến việc người đó có
yêu cầu hay không. Theo quan điểm của đảng phát xít, cá nhân cần phải cảm thấy
hạnh phúc trong những điều kiện mà đảng cho phép. Cá nhân có thể có cách nhìn
nhận về hạnh phúc, khác với kiểu hạnh phúc tập thể quần chúng- kiểu hạnh phúc
cơ bản của mọi nhà nước phát xít, nhưng điều đó là vô nghĩa.
Sự sùng bái đảng phát xít còn được
thể hiện trong những cống hiến đối với đảng.Trong lý lịch cá nhân cần phải nêu
bật đã có những cống hiến gì cho đảng quốc xã, có phải là đảng viên không, vào đảng
từ bao giờ, trước hay sau khi đảng nắm chính quyền được đặc biệt chú trọng.
Trong đơn xin việc, hay xin tham
gia một tổ chức nào đó, nhất thiết phải nêu rõ những vấn đề như trên, đồng thời
phải khai những chi tiết tương tự về cả những người thân thích của mình.
Tóm lại, đảng quốc xã là giá trị
cao nhất trong nhà nước phát xít. Vì vậy một khi đã có những cống hiến cho đảng,
thì điều đó được xem là cơ sở chính trị tốt nhất và những người như thế có thể
xứng đáng cho bất kỳ vị trí công tác nào, thậm chí cả những nơi đòi hỏi phải có
trình độ học vấn caọ Vấn đề quan trọng không phải bằng cấp, khả năng tri thức,
bậc thợ, mà là sự hy sinh và những cống hiến cho đảng phát xít và lãnh tụ .
Ðể "củng cố" uy tín
chính trị và bảo vệ sự sùng bái cho đảng, hàng loạt tượng đài, ghi nhớ công lao
những chiến sĩ đã hy sinh vì thắng lợi của "cuộc cách mạng quốc xã", đã
được xây dựng.
Nhưng vì đảng là một khái niệm
tổng thể không biết suy nghĩ, đồng thời lại phải trao tư duy cho những thành
viên không biết suy nghĩ của mình, nên tư duy tổng quát này cần được chấp nhận
một cách chung nhất. Trong thứ bậc của đảng quốc xã, tư duy này không thể là
của người nào khác ngoài lãnh tụ của đảng. Như vậy, tư duy của lãnh tụ trở
thành tư duy của đảng, và tinh thần của lãnh tụ cũng trở thành tinh thần của đảng.
Những đặc tính cá thể của một nhân cách trở thành của chung và đặc tính chung
của đảng nằm trong nhân cách của lãnh tụ . Từ đó, suy ra đảng và lãnh tụ không
thể tách rời, hay đúng hơn- đảng là lãnh tụ . Lãnh tụ ca ngợi đảng, cũng chính
là ca ngợi mình; và đảng tô vẽ cho lãnh tụ thêm vĩ đại, cũng chính là khẳng định
giá trị của mình.
Tại đại hội đảng ngày 16-9-1935 ở
Niurnberg, chính Hitler đã nêu rất chính xác nguyên tắc này:
"Ở đây, cần phải chấn chỉnh
lại một quan niệm sai lầm của một số công dân khi họ nói: "Lãnh Tụ đúng đắn,
nhưng còn đảng là chuyện khác". Hoàn toàn không thể như thế, thưa các
ngài! Lãnh Tụ là Ðảng và Ðảng là Lãnh Tụ . Tôi có cảm giác mình như một bộ phận
của đảng, thì đảng cũng phải là một bộ phận của tôi. Tôi không biết bao giờ
mình sẽ từ giã cõi đời. Nhưng đảng thì tiếp tục sống mãi. Và đảng, thông qua
mọi cá nhân, yếu đuối cũng như dũng cảm, sẽ làm nên tương lai huy hoàng cho dân
tộc Ðức; tôi tin tưởng và tôi biết như thế!" (128-272,273)
Sự khác nhau giữa một đảng chính
trị thông thường và đảng phát xít là, đối với một đảng chính trị thông thường,
các đảng viên giữ được nhân cách, suy nghĩ và trách nhiệm của mình, còn đảng
phát xít thì tước đoạt toàn bộ những cái đó và biến những thành viên của mình
thành công cụ vô bản sắc. Ðiều này giải thích tại sao đảng phát xít có tất cả,
trong khi các đảng viên của nó không có gì. Nếu các đảng viên muốn có được
quyền lợi nào đó, họ chỉ có thể nhận được thông qua đảng: Ðiều này đúng cho cả
lĩnh vực vật chất cũng như tinh thần. Từ đó sinh ra niềm tin của các đảng viên,
rằng cái gì đảng cũng có thể làm, cái gì cũng có thể biết, sinh ra thần tượng đảng
và sự tôn thờ.
Sự sùng bái đảng phát xít đòi hỏi đảng
được công nhận không chỉ là vĩ đại, mà còn đồng thời phải thân thiết và gia ơn
cho những người tin tưởng vào nó.
Ðảng quốc xã được thể hiện như
"trách nhiệm và nguyện vọng" của nhân dân. Trong những giờ phút lịch
sử hiểm nghèo, đảng như một anh hùng huyền thoại đã cứu thoát dân tộc Ðức khỏi
bị hủy diệt ngay trên bờ vực thẳm. Hitler từng tuyên bố trên diễn đàn tại Ðại
Hội Ðảng: "Ðảng quốc xã đã mang lại những cống hiến không kể xiết. Không
phải các nhà kinh tế, các nhà bác học, giáo sư, những người lính, các diễn
viên, những nhà tư tưởng, nhà thơ của chúng ta, mà là sách lược chính trị đặc
biệt của đảng đã cứu thoát dân tộc Ðức khỏi hiểm nghèo. Ngày nay chúng ta mới
cảm nhận được phần nào công ơn của đảng. Chỉ có các thế hệ tiếp theo mới đánh
giá được đầy đủ giá trị vĩnh hằng của đảng.
Rồi đây, tất cả mọi cái rồi sẽ mất
đi, chỉ riêng đảng là vẫn sống mãi." (128-269)
5. Sùng bái và trách nhiệm.
Hơn ai hết, nhà nước phát xít nói
nhiều nhất về trách nhiệm - trách nhiệm chính trị, lịch sử, tinh thần v.v...
nhưng thực tế bản thân nó lại hoàn toàn vô trách nhiệm. Ðiều này có thể giải
thích dễ dàng.
Sau khi sát nhập với đảng phát
xít, nhà nước trở thành chủ soái của toàn bộ đời sống xã hội. Tất cả đều phải
có trách nhiệm trước nhà nước: các tổ chức quần chúng, các hiệp hội trí thức,
mọi công dân, mọi gia đình...
Như vậy, nhà nước là chủ soái của
tất cả, còn Ðảng Công Nhân Quốc Xã là chủ soái của nhà nước. Tất cả đều phải có
trách nhiệm với nhà nước, kể cả xã hội công chúng, còn nhà nước phải có trách
nhiệm trước Ðảng Quốc Xã.
Nhưng, một khi nắm trong tay toàn
bộ quyền hành và số phận của nhà nước và xã hội, đảng quốc xã không còn phải
chịu trách nhiệm trước bất cứ ai ngoài chính bản thân mình. Song thế nào là một
đảng chịu trách nhiệm trước bản thân mình, khi đảng này được xây dựng trên
nguyên tắc tập trung quan liêu? Ðiều đó có nghĩa là đảng này phải chịu trách
nhiệm trước lãnh tụ cao nhất của mình. Chúng ta nhận được bức tranh toàn cảnh
như sau về đẳng cấp vô trách nhiệm: xã hội chịu trách nhiệm trước nhà nước, nhà
nước- trước đảng phát xít, đảng phát xít- trước lãnh tụ của mình.
Do đặc tính tập trung cao độ của đảng
và nhà nước phát xít, tất cả đều phải chấp hành mệnh lệnh và chỉ thị của cấp
cao hơn. Ðồng thời thói cơ hội cùng tham vọng quyền hành và tiền tài trong mọi
cán bộ khiến kẻ đó thêm bớt ít nhiều trong khi thừa hành mệnh lệnh. Người cán
bộ không thể từ chối không thi hành mệnh lệnh, mà chỉ có thể thực hiện thật tốt
hay ít ra là ở mức trung bình. Trường hợp từ chối không thi hành mệnh lệnh,
người đó sẽ bị loại ra khỏi "trò chơi" với lề luật hà khắc.
Ðiểm đặc biệt này của chế độ độc
tài cho phép các tội nhân của chính quyền lẫn trốn và đùn đẩy trách nhiệm cho
cấp cao hơn. Khi phải trả lời trước tòa về tội lỗi của mình, tất cả các cán bộ
cấp thấp đều nói rằng, họ chỉ là những người thừa hành nhiệm vụ, mệnh lệnh hành
chính và không có quyền lựa chọn, hay mạo hiểm từ chối không thực hiện.
Khi ra trước tòa (thí dụ như tòa
án Niurnberg) cho thấy một điều quái đản là, không ai có lỗi cả: có nạn nhân,
tội ác nhiều vô kể, nhưng những kẻ giết người, nhưng tội nhân thì không có.
Không ai tán thành cùng với Hitler, đa phần bí mật công kích ông ta, những
người khác thì chống lại, nhưng mặc dù vậy, tất cả đều tham gia vào những tội
ác kinh hoàng chống lại con người và loài người. Chỉ một mình nhà độc tài đã chết
là có tội. Và nếu không có Hitler thì những tội ác tương tự chắc chắn đã không
thể xảy ra! Thật là kiểu bao biện chưa từng có trong lịch sử !
Chỉ một mình nhà độc tài đã chết
là có tội, chứ không phải là chế độ chính trị quốc xã (duy nhất chỉ riêng Speer
có ý kiến ngược lại). Và những người khác không thể theo ông ta, vì như thế là
công nhận mình cũng tham gia gây tội ác và phải chịu trách nhiệm. Nhưng một
mình Hitler có thể xây dựng chế độ này không? Liệu một người duy nhất có thể
làm được điều đó không?
Goring khai trước tòa rằng không đồng
ý với Hitler trong vấn đề hủy diệt người Do Thái, nhưng không thể ngăn cản ông
ta được. Fon Sirah khẳng định vì quá tin tưởng vào Hitler nên mãi tận giờ phút
cuối mới vỡ lẽ là ông ta phạm tội. Caitel và Iodul, những kẻ thiết kế các đồ án
quân sự phản động nhất của phát xít Ðức và đã ký những sắc lệnh giết hàng loạt
tù binh, cũng biện bạch là bị Hitler cưỡng ép. Họ cũng không đồng ý với nhà độc
tài tàn bạo, nhưng vì là người lính nên phải thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy quân sự tối cao.
Nếu căn cứ vào lời khai của Speer
Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, thì mãi tận giờ phút cuối ông ta cũng mới hiểu được
những nguy hiểm ghê gớm ẩn giấu trong nền chuyên chính của Hitler.
Tóm lại, chỉ mỗi mình nhà độc tài đã
chết là có tội, toàn bộ trách nhiệm về tội lỗi đều đổ lên đầu ông ta. Ông ta
khống chế tất cả . Những kẻ giúp việc và cộng tác với ông ta trong nhà nước này
là vô tội. Họ là nạn nhân của một sự lừa dối quái đản: không biết tí gì về việc
giết người Do Thái, về máy hơi độc trong các trại tập trung... thậm chí cả sự
tồn tại của chính những trại tập trung này.
Trong hồi ký của mình, Tiến sĩ
Djibert, bác sĩ tâm thần thuộc tòa án Niurnberg, đã kể về những phản ứng của
các bị cáo khi xem cuốn phim quay những cảnh diễn ra trong quá trình gây ngạt
bằng máy hơi độc tại các trại tập trung.
Caitel: "Thật kinh khủng! Khi
nhìn những hình ảnh này, tôi thật là xấu hổ vì mình là người Ðức... Không bao
giờ tôi còn dám nhìn thẳng vào mặt người khác." (95-5)
Fon Papen: "Tôi không muốn
nhìn nỗi nhục của nước Ðức."
Func, giám đốc nhà băng bảo quản
tài sản cho SS gồm nhẫn vàng và đồ trang sức của các nạn nhân, suốt buổi xem
luôn nhắc đi nhắc lại: "Thật kinh khủng! Thật kinh khủng!" (95-5)
Hanx Fritre, Thứ Trưởng của
Gobelx: "Tất cả nước đại dương cũng không thể rửa được nỗi nhục này cho đất
nước tôi." (95-5)
Như vậy bọn phạm nhân trở thành vô
tội.
Ðiều này không chỉ đúng cho bọn
tội phạm đầu sỏ tại tòa án Niurnberg, mà còn cho mọi tội nhân cấp thấp khác.
Tất cả đều đùn đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn, cấp cao này lại đùn đẩy cho cấp
cao hơn nữa, cứ như vậy đến tận đỉnh chóp. Kết quả là chỉ một mình lãnh tụ tối
cao có tội.
"Sự thật đơn giản" là,
tất cả các Thủ lĩnh đảng và nhà nước, bọn tướng lĩnh, bọn chủ công nghiệp, bọn
cảnh sát đều có tội. Và rộng hơn, tất cả những kẻ đã phục vụ cho nhà nước này đều
có tội. Vấn đề là, chế độ phát xít gây tội ác ngay trong cơ cấu của nó, vì được
củng cố bằng bạo lực và khủng bố tổng thể (về thể chất, chính trị, tinh thần,
tư tưởng). Chế độ phát xít không thể tồn tại nếu không gây tội ác. Hủy diệt mọi
quyền công dân và tự do chính trị, trao quyền hành vô hạn vào tay một cá nhân,
chế độ quốc xã phạm tội trước cả khi gây tội ác chống lại các nước láng giềng.
Vì vậy cần phải xử tội chế độ này, những cơ cấu của nó cùng những cá nhân nắm
giữ trọng trách.
A. Ý nghĩa và mục đích của trại tập trung cải huấn.
Nhà nước phát xít không thể tồn
tại nếu không có các trại tập trung cải huấn. Những trại tập trung này là địa
ngục trần gian của chế độ, và được giữ bí mật cả trong và ngoài nước. Chúng trở
nên cần thiết vì mức độ khủng bố và đàn áp tổng thể ghê gớm của chế độ chính
trị . Năm 1939, trong các trại tập trung và nhà tù ở Tây Ban Nha có tới 1 triệu
tù nhân. Nhà nước phát xít và trại tập trung liên quan mật thiết với nhau đến
mức có thể nói, không tồn tại nhà nước phát xít nào mà không có trại tập trung.
Những nhà tù điển hình không đủ
cho nhà nước độc tài vì hai nguyên nhân: Thứ nhất, không phải ai nhà nước cũng
có thể buộc tội; Thứ hai, về mặt tài chính nhà tù rất tốn kém. Các trại tập
trung cải huấn, như một phát hiện mới, khắc phục được những khó khăn này. Trại
tập trung có nhiều ưu điểm hơn so với nhà tù, vì kinh tế hơn và thậm chí có thể
làm lợi về kinh tế bằng cách bóc lột sức lao động của tù nhân. Ngoài ra thông
qua cách giáo dục cải tạo lao động quái đản này (trên cổng các trại tập trung ở
Ðức thường treo khẩu hiệu "Lao động giải phóng con người"), có thể
công khai hủy diệt thể chất (cho ăn đói, bắt làm nhiều) của những người không
có lợi cho chế độ .
Ý nghĩa thật sự của trại tập trung
cải huấn - phát minh quái đản của thế kỷ XX - được Himler tuyên bố trắng trợn
trước đội cận vệ của Thống Lĩnh:
"Như tôi đã nói, công tác này
rất quan trọng, thứ nhất, để loại bỏ những phần tử xấu trong nhân dân Ðức; thứ
hai, bắt họ một lần nữa phải làm việc cho cộng đồng dân tộc vĩ đại, phá đá và đúc
gạch để Thống Lĩnh xây dựng những công trình của mình; và thứ ba, để số tiền
kiếm được bằng cách này dùng vào việc mở đất, Xây các làng mạc cho các sĩ quan
và chiến sĩ của chúng ta sống, có nhà cửa, tạo nên những gia đình hạnh phúc đông
vui." (111- 205)
Ở Ðức, lúc đầu các trại tập trung được
sử dụng với mục đích cách ly những đối thủ chính trị của chế độ, để họ không
thể gây ảnh hưởng "xấu" được nữa. Việc bắt người theo quyết định của
cảnh sát, không cần lập biên bản, không cần xét xử, tuyên án, không báo trước
thời gian giam giữ được gọi là bắt triệt để .
Chính phủ quốc xã giam giữ tất cả
các đối thủ chính trị của mình trong trại tập trung, không phụ thuộc vào đảng
phái, dân tộc, thế giới quan, tuổi tác và giới tính. Khủng bố được tiến hành
theo nguyên tắc: "Ai không theo chúng ta là chống lại chúng ta."
Tại tòa án Niurnberg, Goring đã
nói về vấn đề này như sau: "Người ta bắt giam vào trại tập trung cả những người
chưa phạm tội gì, nhưng nếu để họ tự do thì có thể gây những hành động có hại
cho nhà nước Ðức." (90-28)
Trong lịch sử của trại tập trung
Ðức có hai giai đoạn: trước chiến tranh (trước khoảng năm 1939), mục đích chính
là để đàn áp những xu hướng chính trị đối lập trong nước; và trong chiến tranh,
mục đích chính là sử dụng sức lao động cưỡng ép, bóc lột triệt để các trại viên
như một lực lượng sản xuất thực sự . Tất nhiên trong những ngày đầu tiên, các
trại tập trung đã được xem như những trại lao động bắt buộc, như một hình thức
trừng phạt và để bù lại những khoản chi phí cho tù nhân. Trong chiến tranh, khi
số lượng trại tập trung và số tù nhân tăng lên gấp bội, một vấn đề được đặt ra:
bằng cách nào để có thể sử dụng được sức lao động của những "phần tử
xấu" này trước khi giết họ . Lúc này vấn đề không chỉ bù lại những khoản
chi phí của nhà nước cho các nhà tù, mà chủ yếu là bóc lột trắng trợn sức lao động
không lương của những tù nhân vì lợi ích quốc gia, đặc biệt là trong ngành công
nghiệp quân sự .
Thậm chí chiến tranh đã thay đổi đáng
kể vai trò của các trại tập trung đến mức, có những lúc ban chỉ huy và bản thân
Thủ Lĩnh SS đã phải phấn đấu để giảm mức chết cho tù nhân, vì lúc này mục đích
chính là sức lao động của tù nhân, sau đó mới đến việc hủy diệt họ . Trong một
thông báo của Phòng Hành Chính Kinh Tế Cơ Bản của SS ngày 28-12.1942, "Về
công tác y tế trong trại tập trung", có đoạn viết: "Chúng tôi gửi cho
các anh bản thống kê danh sách tù nhân trong tất cả các trại tập trung. Có thể
thấy rõ một điều là, trong tổng số 1360000 người vào trại tập trung thì có tới
70000 người đã chết. Với mức chết cao như vậy, số lượng trại viên sẽ không bao
giờ đạt được con số ấn định của Thống Lĩnh. Các bác sĩ trưởng, trong các trại
tập trung, cần phải sử dụng mọi biện pháp để giảm mức chết này xuống. Người bác
sĩ giỏi không phải là người tỏ rõ được sự độc ác của mình, mà là người thông
qua những phương tiện y tế hay thay đổi vị trí làm việc, giữ được khả năng lao động
càng lâu càng tốt." (111-240)
B. Thực chất của trại tập trung cải huấn.
Phụ thuộc vào điều kiện chính trị
cụ thể, nhà nước phát xít có thể chú trọng mặt này hay mặt kia trong mục đích
của trại tập trung cải huấn. Thí dụ trong thời gian chiến tranh, nước Ðức chú
trọng đến vấn đề sử dụng sức lao động cưỡng bức, trong khi Tây Ban Nha tiến
hành hủy diệt thể chất của các trại viên (chỉ riêng trong giai đoạn từ năm
1940-1945 đã có tới hơn 150 nghìn tù nhân bị bắn). Việc hủy diệt tù nhân được
chú trọng đặc biệt vào năm 1944 khi quân Ðồng Minh đổ bộ vào Na Uy, và trên bầu
trời Tây Ban Nha- Franco treo lơ lửng một mối đe dọa quân sự (20-277).
Nhưng dù có những dao động trong
"chính sách trại tập trung" của nhà nước phát xít, mục đích cơ bản
hoàn toàn không thay đổi: cách ly và từng bước hủy diệt, các đối thủ chính trị
.
Ở Ðức, chiến tranh có thay đổi ít
nhiều trong mục đích chính của trại tập trung, nhưng không hoàn toàn từ bỏ nó.
Ðiều này nói lên rằng, khi nghiên cứu mối quan hệ nội tạng giữa chế độ độc tài
và trại tập trung cải huấn, cần phải lấy giai đoạn trước chiến tranh khi chúng đang
tồn tại thuần chất, không có những ảnh hưởng bên ngoài. Trong trường hợp đó
trại tập trung cải huấn có thể xem như nhà tù kết hợp với lao động cưỡng bách
không hạn định thời gian.
Nhà nước độc tài thường xuyên
quảng cáo các trại tập trung cải huấn như những trại cải tạo lao động. Năm
1944, Tổng Giám Ðốc Các Nhà Tù ở Tây Ban Nha khoe khoang rằng, dưới sự lãnh đạo
của ông ta, các nhà tù đã "cải tạo" được ít nhất là 300 nghìn người
(93-129). Tuy nhiên ông ta đã quên không nói rằng, cũng trong năm 1944, bình
quân mỗi ngày ở Tây Ban Nha có tới 400 người bị bắn. Và thế nào là giáo dục cải
tạo trong những điều kiện của nhà nước phát xít? Ðiều đó có nghĩa là mài mòn
tinh thần, tư tưởng chính trị và thể chất con người. Chế độ đạt được mục đích
mà không cần phải bắn những nạn nhân của mình.
Thực chất chế độ độc tài không có
lợi ích gì trong việc trả tự do cho các trại viên, thậm chí kể cả khi họ đã làm
việc hết sức mình và cải tạo tích cực trong nhiều năm. Bởi vì không có gì để đảm
bảo là sau khi được tự do, những người đó lại không tiếp tục thực hiện hành động
trước đây, thậm chí dù đã "cải tạo", việc trả tự do cho những người
như thế vẫn không có lợi, vì họ là nhân chứng sống về những gì đã xảy ra trong
trại tập trung, về tội ác ghê tởm của chế độ trong các địa ngục trần gian này;
trong khi mọi phương tiện tuyên truyền ngày đêm ra rả tô vẽ cho nó như một nhà
nước nhân dân và pháp quyền: nghiêm khắc nhưng công bằng, đảm bảo luật lệ .
Do đó đối với chế độ, tốt hơn cả
là hủy diệt thể chất và tinh thần những kẻ thù của mình, hoặc giữ họ lại trong
các trại tập trung, cho đến khi họ chết một cách "tự nhiên". Trại tập
trung cải huấn là sự chà đạp thô bạo và tội lỗi nhất đối với nhân cách của con
người và loài người nói chung. Mọi cái trong trại tập trung đều nhằm mục đích
làm giảm giá trị của con người và loài người. Những đặc điểm đặc biệt trong địa
ngục trần gian này là:
1. Không có con người, chỉ có số
hiệu trên lưng các tù nhân; con người trở thành con số vô nghĩa. Bọn quản đốc trại
không gọi ai theo tên mà chỉ gọi theo số; đối với chúng, không có nghĩa lý gì
việc số X là nhà y học lớn hay số Y là nhà văn lớn.
2. Tù thường phạm được coi trọng
hơn tù chính trị; tù thường phạm thường được bổ nhiệm làm tù trưởng, giúp bọn
quản đốc giữ trật tự trong trại.
3. Tù nhân làm việc dưới sự giám
sát của đội bảo vệ, có cho béc.giê đi kèm; chân bị xích vào nhau, theo luật có
thể bắn không cần báo trước.
4. Thời gian làm việc trên thực tế
không hạn định, dẫn đến hao mòn thể chất mau hơn và đến cái chết "tự
nhiên".
5. Vì không thể tránh được nạn
tham nhũng, trong bộ phận quản đốc trại, nên các trại viên còn bị bóc lột thêm
một lần nữa trong khẩu phần ăn; người tù luôn luôn ăn đói và nếu không chết do
bệnh tật, thì cũng chết vì hao mòn thể lực.
6. Giúp đỡ y tế trong trại tập
trung không phải vì nhân đạo, mà là nhiệm vụ chính trị .
7. Người ta thưởng cho bọn cai tù
có công bắn tù nhân trong trường hợp "có ý định chạy trốn". Việc này đương
nhiên là khuyến khích bọn cai tù và bọn quản đốc phạm tội nhiều hơn.
8. Bất cứ ai bước vào trại tập
trung cũng đều có tội, dưới địa ngục không có người vô tội. Vì thế về nguyên
tắc, không ai được sống sót ra khỏi trại.
VỊ Mối liên quan giữa các cơ cấu trong cấu trúc nhà
nước độc tài.
1. Tính cần thiết của mối liên quan.
Mới thoạt nhìn có thể nghĩ, giữa
các cơ cấu trong cấu trúc độc tài không có sự kiên quan cần thiết, rằng đó hoàn
toàn là ngẫu nhiên và chúng có thể sắp xếp theo một thứ tự bất kỳ trong khi
thiết lập chế độ này.
Thực chất, mối liên quan này rất
sâu sắc, cần thiết và bắt buộc cho bất cứ nhà nước phát xít nào. Mối liên quan
này được thể hiện trong hai vấn đề: thứ nhất, đối với dạng nhà nước này không
thể thiếu được bất kỳ cơ cấu nào trong 5 cơ cấu đã nêu; thứ hai, mọi cơ cấu
muốn phát triển toàn diện và tổng thể nhất thiết phải sản sinh ra và xác định
cơ cấu tiếp theo.
Nói cách khác, giữa các cơ cấu
trong cấu trúc độc tài, tồn tại một trật tự nghiêm ngặt: mọi cơ cấu đều có vị
trí và giá trị xác địnhđến mức không thể thay đổi mà không gây nên sự phá vỡ
tổng thể của toàn hệ thống.
Sở dĩ chúng ta miêu tả cấu trúc độc
tài bắt đầu bằng cơ cấu một đảng trị và đặt nó lên vị trí thứ nhất trong quá
trình nghiên cứu là vì bàn thân việc xây dựng nhà nước phát xít ở Ðức, Ytalia
và Tây Ban Nha đều khởi đầu bằng việc thiết lập cơ cấu này. Trong ba nhà nước
phát xít điển hình thì Ðức là kiểu mẫu hoàn thiện hơn cả; mọi dấu hiệu của nó được
thể hiện rõ ràng và rạch ròi nhất. Mặc dù Ytalia đầu tiên đi theo con đường
phát xít, nhưng nó không thể là hình ảnh hoàn thiện nhất của nhà nước độc tài.
Thực tế này cũng là một trong nhiều trường hợp trong lịch sử, khi phong trào
xuất hiện lần đầu tiên chưa hẳn đã hoàn hảo nhất.
Nhà nước phát xít không thể được
thiết lập nếu không có cơ cấu một đảng quyền, không hủy diệt các đảng phái
khác. Ðây là hòn đá tảng, là nền móng để xây dựng nhà nước phát xít; và để ổn định
bền vững, đòi hỏi phải có sự sát nhập giữa nhà nước và đảng phát xít. Hình thức
sát nhập và thống nhất này phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, tập tục dân
tộc cụ thể của từng nước, nhưng nhất định phải được tiến hành nhằm củng cố sự
thống trị ổn định cho đảng phát xít. Vì nếu không như thế, cơ cấu một đảng
quyền có thể bị phá vỡ.
Sau khi cơ cấu một đảng quyền được
thiết lập, sự thống nhất triệt để giữa đảng và nhà nước phát xít là điều cần
thiết tuyệt đối. Và để có thể tồn tại bền vững và lâu dài, sự thống nhất này
cần phải mang giá trị vật chất. Các đảng viên phát xít chỉ cảm thấy nhu cầu
thống nhất này cần thiết, nếu họ nhìn thấy trong đó những quyền lợi vật chất và
ưu ái cá nhân. Như vậy nguyên tắc thứ hai này (sự thống nhất giữa đảng và nhà
nước phát xít) không chỉ xuất phát từ nguyên tắc đầu tiên, mà còn là sự củng cố
và tiếp diễn của nó. Cơ cấu một đảng quyền chỉ được xây dựng hoàn hảo nếu sau
khi hủy diệt các đảng phái khác, đảng phát xít điều khiển nhà nước và đồng nhất
bản thân mình với nhà nước về mọi mặt: tài chính, chính trị, cán bộ; khi mà
"đảng trở thành nhà nước". (Hitler).
Tiếp theo khi cơ cấu một đảng
quyền và sự thống nhất giữa đảng và nhà nước phát xít được thiết lập, quá trình
này vẫn chưa thể kết thúc. Còn xã hội công chúng, với quyền tự trị đối với đảng
và nhà nước phát xít, luôn luôn có thể là nguồn gốc cho mọi bất ngờ chính trị .
Trong xã hội có thể sinh ra những tư tưởng trái ngược, lòng căm thù chế độ,v.v...
mà trong những hoàn cảnh đặc biệt có thể làm cho nó tan rã, còn trong điều kiện
bình thường, ít nhất cũng khiến nền móng của chế độ lung lay. Từ đây dẫn đến
bước tiếp theo của quá trình xây dựng nhà nước độc tài: đặt xã hội công dân
dưới sự kiểm soát của nhà nước và đảng phát xít, để khống chế mọi biểu hiện và
phong trào chống đối. Khi bước thứ ba này kết thúc, nhà nước phát xít ít nhiều đã
trở thành hệ thống hoàn chỉnh, những lực lượng bên ngoài đe dọa sự ổn định của
nó không còn nữa, nếu không phải vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một thời gian
dài.
Sau khi thiết lập ba cơ cấu trên,
nhà nước phát xít về cơ bản đã được xây dựng. Các cơ cấu này mở đường cho hai
cơ cấu tiếp theo phát triển: tư duy uy tín và trại tập trung cải huấn. Hai cơ
cấu sau cùng này tu bổ nội tạng cho chế độ và làm cho nó trở nên hoàn thiện. Dù
vậy các cơ cấu này cũng có đặc tính cần thiết và nếu thiếu chúng, hệ thống
chính trị hoàn toàn không thể hoạt động. Chúng có giá trị và vị trí xác định
trong hệ thống chính trị, liên quan khăng khít với nhau và không thể tách rời.
Thí dụ, đồng hóa xã hội không thể triệt để và hiệu quả, nếu không thâu tóm mọi
suy nghĩ, tư tưởng và toàn bộ lãnh vực tinh thần. Tất cả cần phải phục tùng
cách tư duy uy tín, bởi vì chỉ có thể đồng hóa một khi đã đồng nhất về hình
dạng.
Ðến lượt mình, đồng hóa xã hội, sự
phục tùng của xã hội đối với nhà nước, phải sinh ra các trại tập trung cải
huấn. Cần phải cách ly những người không muốn phục tùng sự kiềm soát của đảng
phát xít và hệ tư tưởng của nó, để họ không thể "làm hại" xã hội bằng
những tư tưởng nguy hiểm. Trại tập trung cải huấn là công cụ lý tưởng của nhà
nước phát xít, để giải quyết những mâu thuẫn đối kháng giai cấp bằng cách hủy
hại thể chất các đối thủ chính trị .
Từ những phân tích trên đây có thể
rút ra kết luận rằng, giữa các cơ cấu trong cấu trúc của nhà nước phát xít tồn
tại một mối liên quan mang tính quy luật, khăng khít và cần thiết, và nếu mối
liên quan này bị phá vỡ sẽ dẫn đến sự thay đổi tổng thể không tránh khỏi của
toàn hệ thống.
Ðương nhiên trong giai đoạn đầu
khi thiết lập chính quyền, bọn phát xít vẫn chưa biết về sơ đồ lý thuyết quá
trình xây dựng nhà nước đặc thù của mình. Ngược lại, thường thường các Thủ lĩnh
phát xít có những ý đồ chính trị xa rời hoặc thậm chí đi ngược lại sơ đồ này,
nhưng tính logic khách quan của quá trình đã điều chỉnh và khiến họ đã đi theo
phương án tối ưu. Sau khi thiết lập một cơ cấu đảng quyền, theo bản năng họ
tiến đến khống chế toàn bộ nhà nước và tiếp theo kiểm soát tổng thể toàn xã
hội.
Thí dụ lúc đầu Muxolini dự định
xây dựng "chế độ phát xít" với cơ cấu không đảng phái vì nếu không,
sẽ phải hủy diệt tất cả các đảng phái chính trị khác. Nhưng sau đó cho thấy để
có thể thiết lập sự thống trị toàn diện của đảng phát xít, cần thiết phải hủy
diệt mọi đảng phái khác. Và như vậy, cơ cấu một đảng quyền của chế độ phát xít được
thiết lập, lúc đầu chỉ là công cụ để đạt được mục đích, sau đó trở thành mục đích.
Trong những năm đầu tiên, Muxolini
cũng đã định điều hành nhà nước với chính phủ không đảng phái (liên minh các Bộ
Trưởng không đại diện cho các đảng phái của mình), nhưng sau năm 1924, ông ta
phải từ bỏ ảo tưởng này và thiết lập chính phủ phát xít thuần chủng.
Bọn quốc xã, đi theo con đường này
9 năm sau đó, đã không phải trả giá cho những ảo tưởng tương tự . Ở đây, bằng
con đường ngắn nhất, cơ cấu một đảng quyền được thiết lập và được củng cố bằng
sắc luật thống nhất giữa đảng và nhà nước phát xít. ở Ytalia, chế độ độc tài được
xây dựng trong gần bốn năm, còn ở Ðức việc này diễn ra vẻn vẹn không đầy một năm.
Trước không kết thúc năm 1933, Ðức đã là một nhà nước độc tài hoàn chỉnh.
Tất nhiên, Hitler cũng bắt buộc
phải sửa đổi một vài chi tiết mâu thuẫn với sơ đồ lý thuyết nói trên. Nhưng
ngay cả ở chi tiết này, ông ta cũng buộc phải sửa sai, điều này càng cho chúng
ta thấy mối liên quan khắng khít giữa các cơ cấu của cấu trúc độ tài. Thời gian
đầu, Hitler đã đồng ý với tòa thánh Vatican, cho phép nhà thờ giáo dục một bộ
phận thế hệ trẻ trong các trường dòng. Sau đó ông cảm thấy, những trường này
mang đến một thứ tư tưởng khác xa tư tưởng quốc xã. Từ đó dẫn tới việc giải tán
các trường này. Một khi đã được thiết lập, chế độ độc tài không thể chấp nhận
những vật lạ trong cơ thể mình. Vì mối ràng buộc khắng khít giữa các cơ cấu,
bất kỳ một vật lạ nào cũng làm cho hệ thống bị hư hỏng hoặc tan rã. Về mặt cấu
trúc, nhà nước phát xít là một hệ thống biệt lập, trong đó mọi chi tiết riêng
lẻ ràng buộc chặt chẽ với những chi tiết còn lại, và sự biến dạng của một chi
tiết nào đó sẽ dẫn đến đổ vỡ không tránh khỏi của cả hệ thống. Tính chất đặc
biệt này là đặc trưng cho nhà nước độc tài và vì vậy, nó có vai trò hết sức
quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất nhà nước này. Trong vấn đề này nền dân
chủ tư sản tỏ ra bền vững hơn nhiều. Sự thay đổi cơ cấu thành phần tất nhiên sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động của nó, nhưng không gây nên sự đổ vỡ tổng thể của toàn
hệ thống.
Ðể có thể phân biệt rõ hơn sự khác
nhau giữa nhà nước độc tài và nền dân chủ tư sản, ta hãy liên hệ chúng với bộ
máy cơ học và một cơ thể sống. ở đây, nhà nước độc tài có thể ví như một cỗ máy
cơ học kiểu mẫu, hoạt động hết sức đồng bộ, khi mọi chi tiết của nó đều làm
việc chính xác, không sai sót. Nhưng nếu một chi tiết nào đó tách rời khỏi cơ
cấu, nó sẽ đe dọa phá vỡ toàn hệ thống.
Trong điểm này nền dân chủ tư sản
gần giống một cơ thể sống hơn là bộ máy cơ học. Sự hư hỏng trong một chi tiết
nào đó không thể phá vỡ toàn bộ hệ thống. Nhờ tính bền vững cao trong mối quan
hệ giữa tổng thể với các bộ phận và giữa những bộ phận với nhau, hệ thống này điều
hòa những sai sót trong các chi tiết như một cơ thể sống tự thích nghi với
những biến đổi trong các tế bào riêng biệt. Vì lý do này, nền dân chủ tự do
trong khuôn khổ nhất định có thể tự điều chỉnh mà không dẫn đến hủy diệt, trong
khi nhà nước độc tài phát xít chỉ có một cách thay đổi duy nhất: sự tan rã hoặc
phá vỡ tổng thể . Vì những mâu thuẫn nội tạng khổng lồ và sự ràng buộc nghiêm
ngặt giữa các bộ phận, một hư hỏng nhỏ trong chi tiết nào đó, có thể đe dọa phá
vỡ toàn hệ thống độc tài. Và nếu không kịp thời sửa chữa sai sót này, thì sau đó
khó lòng chống lại được sự đổ vỡ dây chuyền. Ðây là lý do giải thích tại sao
nhà nước độc tài sử dụng những biện pháp hết sức tàn nhẫn, cương quyết và độc
ác để đàn áp cả những biểu hiện chống đối không đáng kể .
2. Cấu Trúc và chức năng.
Với sự phân tích này, chúng ta đã
tiến gần đến mối quan hệ giữa cấu trúc chính trị được thiết lập và phương thức
hoạt động mang tính quy luật, xuất phát từ cấu trúc đó. ở đây, muốn nói đến
khía cạnh nguyên tắc giúp chúng ta hiểu kỹ hơn, đầy đủ hơn về bản chất của chế độ
phát xít cùng những cơ cấu cơ học và đòn bẩy tương hỗ của nó.
Cấu trúc xác định phương thức hoạt
động. Một khi được thiết lập, cấu trúc hoạt động tương ứng với sự ràng buộc nội
tạng của các cơ cấu thành phần. Quy luật tổng quát của các cấu trúc xã hội là
xu hướng tự bảo tồn. Dưới tác động của ngoại cảnh, một cấu trúc nào đó, thay đổi
phương thức hoạt động hoặc không thể tự thích nghi sẽ bị biến dạng hoặc bị hủy
diệt. Trong cả hai trường hợp, nó đều không còn là cấu trúc ban đầu nữa, mà là
chuyển sang một dạng khác. Nhưng một khi đã được thiết lập, cấu trúc không thể
hoạt động theo phương thức nào khác ngoài phương thức xuất phát từ bản chất của
nó.
Trong trường hợp của chúng ta,
những phân tích tổng quát trên đây có ý nghĩa như sau: một nhà nước phát xít
không thể hoạt động theo phương thức dân chủ, giống như một chế độ dân chủ
không thể điều hành theo phương thức độc tài. Hitler chắc chắn sẽ không sáng
lập nhà nước quốc xã nếu như nền Cộng Hòa Vaimar có thể thực hiện được vai trò
mà ông ta cho là cần thiết. Những nhiệm vụ mới đòi hỏi cấu trúc mới, dạng nhà
nước mới, dựa hoàn toàn trên bạo lực.
Từ đây suy ra rằng, hy vọng nhà
nước phát xít dân chủ hóa chỉ là ảo tưởng. Việc nhà nước phát xít tự dân chủ
hóa hay tự do hóa là hoàn toàn không bao giờ có, cũng như bắt một động vật ăn
thịt phải ăn cỏ vậy. Ðộng vật này sẽ chết vì cấu trúc sinh học của nó là động
vật ăn thịt. Trong thời gian này, phần lớn giới trí thức Ðức có suy nghĩ, sau
khi củng cố chắn chắn, chế độ quốc xã nhất định phải quay trở về phương thức điều
hành theo hiến pháp và sẽ phục hồi nền dân chủ tư sản truyền thống. Ảo tưởng
này xuất phát tứ giới trí thức tự do, trong đó có cả những bộ óc vĩ đại như
Marc Planc (9-77). Người ta hy vọng rằng, chế độ quốc xã chỉ sử dụng những biện
pháp tàn nhẫn và phi pháp cho đến khi khống chế được toàn bộ bộ máy nhà nước;
sau đó bắt buộc phải từ bỏ bạo lực, thậm chí phải chấp nhận cả những xu thế đối
lập và có thể công khai phê phán chế độ . Không còn khả năng nào khác, vì sau
khi đã điều hành toàn bộ bộ máy nhà nước, sẽ không còn ai để chế độ dàn áp và
theo dõi! Ảo tưởng này là kết quả của nhận thức sai lầm về cấu trúc nhà nước
mới mà chủ nghĩa phát xít xây dựng. Chế độ phát xít không đơn giản là chế độ
cảnh sát, mà là dạng nhà nước mới- nhà nước độc tài. Về nguyên tắc, nhà nước
này loại bỏ mọi tư tưởng tự do thậm chí kể cả những tư tưởng có lợi cho nó.
Ðôi khi người ta thử đồng nhất bản
chất nhà nước phát xít với tính chất giai cấp của nó rằng, nhà nước phát xít là
công cụ của bộ phận tư bản đế quốc phản động nhất, nên dân chủ với giai cấp này
và chỉ chuyên chính với các tầng lớp lao động.
Trong ý nghĩa tổng quát, điều này đúng:
tư bản tài chính là tầng lớp có nhiều ưu việt về kinh tế nhất trong nhà nước
phát xít. Nhà nước phát xít đảm bảo cho giai cấp này sức lao động rẽ mạt, không
biết bãi công, không muống tăng lương và thay đổi điều kiện lao động, và đồng
thời là lực lượng dự bị hùng hậu cho quân đội... Nhà nước phát xít là thiên đường
cho giới tư bản tài chính trong ý nghĩa này.
Nhưng mặc dù vậy vẫn không thể
ngây thơ với ý nghĩ rằng, nhà nước độc tài là dân chủ cho giới tư bản phát xít,
còn chuyên chính với các tầng lớp lao động. Ngoài lãnh tụ tối cao, không ai có
quyền được phê phán nhà nước và chế độ chính trị . Và thậm chí cả lãnh tụ tối
cao cũng không thể phủ nhận toàn bộ hệ thống chính trị, vì dù có sự tôn thờ,
ông ta vẫn sẽ bị giới cầm quyền chóp bu- những kẻ ràng buộc khăng khít với cấu
trúc nhà nước này - gạt bỏ . Thậm chí, cấu trúc chính trị này gạt bỏ cả những
tư tưởng dân chủ trong giới cần quyền chóp bu. Trường hợp xảy ra với Greger
Straxer và Ialmar Saht có thể minh họa cho điều này. Vì những biểu hiện không
tán thành với chính sách chính trị của chế độ, người đầu tiên bị giết ngày
30-6-1934, còn người thứ hai sống sót một cách khó tin sau một năm bị giam
trong trại tập trung cải huấn. Mặc dù Saht là một trong những người đóng góp
nhiều nhất và xứng đáng nhất cho việc xây dựng Ðệ Tam Ðế Chế; đã từng là
"nhà độc tài tài chính" nhiều năm liên tục của nước Ðức- Hitler. Bí
Thư Khu ủy Herman Rausning đã phải bỏ chạy sang tận bên kia đại dương để viết
sách phê phán chế độ quốc xã và Hitler.
Nhưng vấn đề không phải bản thân
các thí dụ này, mà là tính logic của chúng: nhà nước độc tài không cho phép cả
giới cầm quyền chóp bu có quyền tự do (tự do ngôn luận, in ấn, kết hội, tị
nạn...), bởi vì điều đó có thể làm tan rã nhà nước. Hơn thế nữa, đối với dạng
nhà nước này, trao quyền tự do cho giới lãnh đạo chóp bu đặc biệt nguy hiểm, vì
họ là hạt nhân của chính quyền và có thể làm cho nó tan rã từ bên trong. Vì vậy
cả ba nhà nước phát xít- Ðức, Ytalia và Tây Ban Nha- đều triệt để chống
"chủ nghĩa tự do" và "sự sa ngã" chính.
Tại đây, nguyên lý "cả những kẻ áp bức cũng
không có quyền tự do" được thể hiện một cách đầy đủ nhất. Bởi vì để có một
hệ thống có thể đàn áp, trước hết nó cần phải được tổ chức như một hệ thống đàn
áp, nếu không nó sẽ không thực hiện được chức năng đó. Mặt khác hệ thống này
trao quyền tự do cho những đại diện của mình được đàn áp, khủng bố theo luật lệ
của cấu trúc được xây dựng, nhưng không có quyền phê phán hay chống lại các
luật lệ đó. Trong trường hợp ngược lại, họ không tránh khỏi trở thành nạn nhân
của hệ thống này.
(còn tiếp)