Nguồn gốc của đa nguyên và những h́nh thái
của xă hội đa nguyên
Nguyễn Gia Thưởng,
Nguyệt
sanThông Luận số
167, năm thứ 16, tháng 02-2003
Cùng
với dân chủ và nhân quyền, đa nguyên là một trong
ba giá trị soi sáng của xă hội tiến bộ hiện
đại. Đa nguyên được nói đến
nhiều sau này là khi bức tường Bá Linh sụp
đổ (1989), Liên Bang Sô Viết tan vỡ và tất
cả các nước Đông Âu từ bỏ chế
độ gọi là xă hội chủ nghĩa. Đa nguyên
được xem như là giải pháp thay thế cho
những chế độ chuyên chế, độc tài,
nhất nguyên, coi nhẹ giá trị của con người,
của cá nhân. Đa nguyên kết tinh những khát vọng
đi t́m một cơ sở tư tưởng mới.
Tuy nhiên
đa nguyên không phải là một hiện tượng
xuất hiện mới đây, đa nguyên càng không phải
là một kết hợp những truyền thống,
những hệ thống giá trị, những nếp
sống, những nếp suy nghĩ khác biệt. Đa nguyên
không phải là tổng hợp của các hệ thống
trên. Khởi sự, đa nguyên là một cố gắng
thích nghi để sinh tồn của các xă hội
"lương" trong ḷng của xă hội ki-tô-giáo
đang thời ḱ thịnh phát vào giữa thế kỉ
thứ tư. Sự việc các vị sáng lập Giáo
Hội Công Giáo chấp nhận thỏa hiệp sống
chung với nếp văn hóa lương (tương phản
với văn hóa ki-tô-giáo) là khởi điểm phát sinh các
xă hội đa nguyên, và trải qua hằng thế kỉ,
nguyên lư "đồng nhất trong sự khác biệt"
đă thấm nhập các xă hội Âu châu. Như triết
gia Pierre Abélard (1079-1142) đă nhấn mạnh nguyên lư này :
"diversa non adversa" (khác biệt nhưng không là địch
thủ), Âu châu của nhất nguyên ki-tô-giáo trở thành
đa nguyên.
Danh
từ "đa nguyên" chỉ xuất hiện mới
đây thôi. Triết gia Đức Christian Wolff là
người đầu tiên xử dụng danh từ này vào
năm 1720. Ư niệm đa nguyên đă được các nhà
chính trị và văn hào như Benjamin Constant và Alexis de
Tocqueville đề cao như một phương thức
khả dĩ đem lại thái hoà cho xă hội.
Triết
gia và toán học gia Anaxagore de Clazomène (500-428 trước công
nguyên) được coi là cha tinh thần của đa
nguyên. Trong một vài bài ông để lại cho hậu
thế, ông mô phỏng thế giới như một kết
hợp của những phần tử rời rạc trong
một tổng thể. Ông thấy nơi mọi sự
vật chỉ là "qui tụ và tán phát", khởi
đầu của sự vật là qui tụ và kết thúc
của sự vật là tán phát.
Theo
Nietzsche, đa nguyên bắt nguồn từ tôn giáo đa
thần. Việc tạo dựng các vị thần linh, các
đấng anh hùng cũng như đủ lọai vật
ḱ dị phản ảnh bản năng phóng khoáng và h́nh thái
đa dạng của tư tưởng con người, nó
cũng bày tỏ những khát vọng của bản ngă,
của cá nhân.
Theo William
James, đa thần là biểu hiệu tính chất đa
nguyên của vũ trụ, là tổng hợp của
những h́nh thái và những nguyên lư bao trùm vũ trụ.
Theo
Friedrich von Wieser, con người không bao giờ trực
diện với xă hội, nhưng trực diện với
những tập hợp, những hiệp hội, hoặc
những định chế do xă hội lập nên.
Như
vậy đa nguyên là ǵ ? Thể hiện tinh thần đa
nguyên ra sao ?
Thể
hiện tinh thần đa nguyên là t́m cách giải thích cái
tổng thể dựa trên căn bản các phần tử
phân tán, rời rạc, bất túc, bất phân giản. Các
phần tử không những là khởi điểm của
tư tưởng mà cũng là kết quả của tư
tưởng. Người có tư tưởng "nhất
nguyên" giải thích sự vật theo một khuôn mẫu
nhất định, đă vạch định sẵn.
Họ gạt bỏ ra ngoài những phần tử dị
biệt. Trái lại, con người đa nguyên không dám
khẳng định ḿnh đă đạt được
cái nh́n rơ rệt của tổng thể.
Đa
nguyên là chú ư đến những mối tương quan
giữa những phần tử và khi hành động,
tạo nên những sợi dây liên kết mềm dẻo
không ngoài mục đích tôn trọng hoặc bảo tồn
tối đa tinh thần tự trị của các phần
tử.
Đa
nguyên là không bao giờ quên những khác biệt giữa
sự vật và sự việc và không gian ngăn cách chung,
đồng thời phải thấu hiểu những cơ
cấu trung gian của chúng.
Đa
nguyên là luôn cảnh giác với con số 1 (quyền lực
của một ông chủ độc nhất), là t́m cách thông
hiệp bằng những danh từ "một vài"
hoặc "số nhiều" nhưng không đi
đến một con số quá to lớn. Đa nguyên là
từ chối mọi chủ thuyết triết học và
xă hội học có tính cách đặt để nhân danh
lịch sử. Đa nguyên chủ trương tinh thần
cởi mở bằng cách thay thế động từ
"phải" (mà các đệ tử của Hegel thích
dùng) bằng động từ "có thể". Và theo
William James, đằng sau mỗi một lịêt kê nên thêm
chữ "vân vân" v́ "luôn luôn có một cái ǵ đó nó
thoát ra khỏi sự chú ư của chúng ta".
Đa
nguyên là gắn bó tha thiết với sự sống và thiên
nhiên (v́ bản chất của thiên nhiên là đa dạng), là
học hỏi bài học vô tận của những dữ
kiện. Về mặt khoa học, đa nguyên đồng
nghĩa với tinh thần thực tiễn, với
phương pháp luận thực nghiệm (pragmatisme)
Đa
nguyên là chấp nhận đối thọai, chấp
nhận những liên hệ cá nhân - liên tôn, liên tộc, liên
quốc - trong tinh thần tương kính và tinh thần bao dung.
Con
người đa nguyên nhận định thời ḱ
thống nhất các thể chế là một hiện
tựơng chậm trễ trong tiến tŕnh xây dựng
những nền văn hóa. Nguyên tắc này được
chấp nhận với một thái độ dè dặt (ví
dụ việc kết hợp các nước Âu châu vào
một thể chế chung).
Con
người đa nguyên lo lắng khi thấy xuất
hiện những lề luật, những tập quán có
khuynh hướng đồng nhất v́ khuynh hướng
đồng nhất xóa bỏ những yếu tố dị
thường, khác biệt và con người đa nguyên có
cảm quan đă mất đi một cái ǵ không thể
lấy lại được.
Dựa
trên những nhận xét trên, ta có thể quyết đoán mô
h́nh xă hội đa nguyên là một mô h́nh xă hội cởi
mở trái ngược với mô h́nh xă hội khép kín đă
được Platon, Hegel và Marx đề cao. Theo Karl R.
Popper, mô h́nh xă hội cởi mở là một h́nh thức
tổ chức xă hội mới xuất hiện sau này, phát
xuất từ sự tan ră của những xă hội khép kín
hoặc xă hội có tính cách bộ lạc.
Chúng ta
thử t́m hiểu các h́nh thái của những xă hội
đa nguyên. Một cách tổng quát, chúng ta có thể
nhận diện những xă hội đa nguyên qua những
đặc điểm sau :
1. Tính cách
thẩm thấu biên giới của các xă hội này cho phép
những trao đổi về mọi mặt như di
chuyển tự do, giao lưu tư tưởng và hàng hóa.
Đó là nguồn gốc của sự giàu có, sự phong
phú, sự thái ḥa của các xă hội. Điều này đă
được kiểm nghiệm với thời gian.
Thương mại là nền tảng không thể thiếu
vắng của tự do cá nhân và tự do cộng
đồng.
2.
Biết thích nghi với nguyên lư "biến dịch",
sự biến đổi bất tận của mọi
sự vật không mâu thuẫn với ư niệm liên tục,
ư niệm tiếp nối vốn sẵn có trong xă hội
đa nguyên. Việc cải tiến xă hội là công tŕnh
của những cá nhân tự do, năng động và có tinh
thần trách nhiệm. Trái ngược với các chế
độ thần quyền và chế độ chuyên
chế, xă hội tự do tiến hóa theo những hằng
số, trong đó "con người của muôn
thủa" là một hằng số biểu tượng
nhất.
3. Cá nhân
là mục tiêu, là đối tượng phục vụ
của Nhà Nước. Cá nhân tích lũy những truyền
thống, những tín ngưỡng và những giá trị
"bất diệt" hoặc "vĩnh cửu" do
cha ông truyền lại. Cá nhân
cũng là nguồn gốc phát huy sáng kiến. Cá nhân là trung
tâm của một hệ thống, một mạng
lưới liên hệ xă hội, một phần do
được thừa hưởng, một phần do y
gầy dựng. Mỗi một con người tự
tạo cho ḿnh một số dây liên lạc trong đó bao
gồm gia đ́nh, bạn bè, đồng nghiệp,
những thành viên hội đoàn và câu lạc bộ. Mọi
xă hội đều được cấu tạo bởi
toàn thể những hệ thống như vậy.
4. Đa
nguyên được thể hiện qua vai tṛ sáng tạo
của cá nhân, qua tương quan hỗ tương giữa
sáng kiến cá nhân và ư muốn bảo tồn giá trị
của tập thể, trái ngược với xă hội
tập quyền trong đó cá nhân là một chướng
ngại vật cần phải đè bẹp để xây
dựng một xă hội thuần nhất, rập khuôn xă
hội của loài ong, loài kiến, loài mối.
5. Trong xă
hội đa nguyên, cá nhân tự tạo cho ḿnh một
khoảng không gian riêng biệt, tự trị, không ràng
buộc.
6. Cá nhân
và tự do : những ư niệm này không phải là kết
quả của một chuỗi dài suy tư và học
hỏi, nó sẵn tiềm ẩn trong ḷng xă hội đa
nguyên. Một xă hội t́m cách giới hạn những
tự do bằng cách viện dẫn những trường
hợp lịch sử "khách quan", thường
cuối cùng xóa bỏ hoàn toàn những tự do này. Con
người không t́m đến tự do, con người
sinh ra trong tự do.
7.
Quyền sở hữu. Theo Aristote, con người có hai
động cơ chính : quyền sở hữu và cảm
t́nh ; hai yếu tố này không có chỗ đứng trong xă
hội khép kín của Platon. Xă hội mở, trái
ngược với xă hội khép kín, coi quyền sở
hữu như một định chế cho phép cá nhân
đương đầu với quyền lực của
chính quyền.
8. Một
chính quyền không mạnh quá mà cũng không yếu quá. Theo
Joseph de Maistre (1821), đó là lư tưởng trung ḥa mà
người Âu châu luôn mong ước và ông khẳng
định tất cả những suy tư, những
đ̣i hỏi của người Âu châu đối với
chính quyền là : "Làm thế nào để giới
hạn quyền lực tối thượng mà không phá
hủy nó ?".
9. Chính
quyền pháp trị. Những tương quan giữa công
dân và chinh quyền đặt trên căn bản pháp luật. Người dân
sống theo pháp luật chứ không theo vơ lực.
Jacob
Burckhardt (1818-1897) là người đầu tiên ghi nhận
phương thức sinh hoạt của một xă hội có
cơ cấu đa nguyên. Ông phân biệt ba yếu tố
lớn : chính quyền, tôn giáo và văn hóa. Yếu tố
văn hóa rất linh động, khác hẳn hai yếu
tố chính quyền và tôn giáo và được dùng làm kim
chỉ nam cho hai yếu tố kia. Cả ba yếu tố
này không có cùng một động năng. Trong một
trường hợp nào đó, một trong ba yếu tố
này trội hơn hai yếu tố khác. Có khi trong giai
đọan khủng hoảng, ta thấy có trường
hợp thoán đoạt, chẳng hạn như
trường hợp Giáo Hội Công Giáo tiếp thu quyền
lực của đế quốc La Mă khi đế quốc
La Mă tan vỡ. Khi chính quyền hoặc tôn giáo khống
chế các yếu tố khác, xă hội mất đi tính cách
đa nguyên (trường hợp xă hội Đức
thời quốc xă Hitler, xă hội Nga thời Liên Bang Sô
Viết, xă hội Iran và xă hội Việt Nam hiện nay,
vân vân…).
Ông
Burckhardt nhận định có 6 định hướng xă
hội : Văn hóa do Chính quyền định hướng
; Chính quyền do Văn hóa định hướng ; Văn
hóa do Tôn giáo định hướng ; Tôn giáo do Văn hóa
định hướng ; Chính quyền do Tôn giáo
định hướng ; Tôn giáo do Chính quyền định
hướng.
Chúng ta chú
ư đến ba định hướng đầu :
- Văn
hóa do chính quyền định hướng. Đây là
trường hợp của văn hóa Ai Cập thời
Trung Cổ, của văn hóa Pháp thời Louis XIV
đồng thời cũng là trường hợp
của văn hóa Nga thời
Liên bang Sôviết, văn hóa các nước Đông Âu vào
những năm 1948 và 1989, văn hóa Việt Nam hiện nay,
v.v.
- Chính
quyền do Văn hóa định hướng . Đây là
thời kỳ "cách mạng văn hóa" của
thời buổi Ánh Sáng, do công tŕnh của Voltaire, của
Jean Jacques Rousseau và giới trí thức Paris ở Pháp.
- Văn
hóa do Tôn giáo định hướng. Đây là trường
hợp của Islam (Hồi Giáo), của đế quốc
Byzance (330-1453) và của một số cộng ḥa thần
quyền thời Phục Hưng (Renaissance) và thời
Cải cách (Réforme).
Sau đây
là nhận định tổng quát về tinh thần
chỉ đạo xă hội đa nguyên. Một xă hội
trong đó sự hợp nhất được thực
hiện qua những định hướng vừa có tính
cách bổ túc, vừa có tính cách mâu thuẫn gồm những
đặc điểm chung :
1. Luôn có
những xung khắc hay xung đột có tính cách nội
tại hoặc cơ cấu v́ những ước vọng
muốn chế ngự phạm vi ảnh hưởng
của các phần tử cấu tạo nên xă hội đa
nguyên.
2. Sự
hiện hữu của những tổ chức hoặc
những thủ tục hoà giải để giải
quyết những mâu thuẫn. Nói chung, sức thuyết
phục thay thế cho sức bạo động. Con
người đa nguyên là con người của
thương thảo.
3.
Những giải pháp đề nghị luôn có tính cách
tạm thời, có thể thay thế bằng những
phương thức mới để kịp thích ứng
với trạng huống mới. Chính v́ vậy nó đ̣i
hỏi chữ "khiêm" nơi những vị xây
dựng luật pháp, những nhà thương thuyết.
4. Ư
niệm thỏa hiệp, trong bối cảnh này, mang
một sắc thái tích cực, nơi đây không có kẻ
thắng người bại. Những giải pháp chấp
nhận không làm tổn thương danh dự của
cả hai bên.
5. Tinh
thần chấp nhận khác biệt và tinh thần
tương kính giữa các phần tử trong xă hội
6. Trong các
xă hội đa nguyên , thường phát sinh những cảm
giác xa lạ và ngăn cách v́ những cảm quan dị
biệt, và có những câu hỏi thường
được đặt ra như : "Có phải chúng ta
cùng trong một xă hội không ?", "Chúng ta có những
điểm tương đồng nào với những
người kia ?".
7. Lư
tưởng "trung dung" hay "trung ḥa" là nền
tảng cơ sở của xă hội đa nguyên.
8. Tinh
thần bao dung cũng đóng giữ một vai tṛ quan
trọng. Không có tinh thần này th́ mọi cơ cấu,
mọi guồng máy chính trị, xă hội, v.v. mặc dù
đă được xây dựng với bao nhiêu kiên
nhẫn, có thể bị hao ṃn, khựng đứng và
gẫy đổ.
9. Tinh
thần thực nghiệm (pragmatisme) thấm nhập vào
luật pháp. Nó yêu cầu các nhà sọan thảo luật pháp
tránh mọi quan điểm có tính cách chủ nghiă hay giáo
điều Những giải pháp "có giá trị đối
với mọi người và ở mọi nơi" không
phù hợp với kiểm nghiệm lịch sử của
thể chế đa nguyên. Tinh thần thực tiễn, óc
quan sát thực tế, những sự thật hiển nhiên,
những sự vật hiển hiện và nhất là
"thân phận con người", tất cả những
yếu tố này không thể thiếu vắng trong xă
hội đa nguyên.
Thêm vào
cơ cấu định chế của những xă hội
đa nguyên đă được tŕnh bày, c̣n có một vài
điểm khác cần nêu lên:
- Việc
h́nh thành những quyền lực trung gian, làm trái
độn giữa "trên"
và "dưới", giữa cấp lănh đạo
và người dân. Những trạm quyền lực trung
gian chính là cơ cấu quyết định, dựa vào
đó các hiệp hội nảy nở và bao trùm xă hội
dân sự (ngược lại trong xă hội khép kín, các
cơ quan hành chánh chỉ là những "sợi dây
chuyển tiếp" mệnh lệnh của chính quyền
trung ương).
- Thay vào
khuynh hướng "Nhà Nước/Quốc gia" là
khuynh hướng tản quyền. Hiện nay ở Âu châu
đang xuất hiện những phong trào "tự trị
vùng".
- Chen vào
các hệ thống liên lạc hàng dọc là các hệ
thống liên lạc hàng ngang. Các cấp lănh đạo vùng
và địa phương có thể liên lạc trực
tiếp với nhau.
- Trong mô
h́nh xă hội khép kín, quyền phát kiến (phát huy sáng
kiến) tùy thuộc triệt để vào cấp lănh
đạo nằm trên đỉnh cao của kim-tự-tháp.
Trái lại trong mô h́nh xă hội mở ( xă hội đa
nguyên), mỗi thành phần của xă hội đều có
quyền ảnh hưởng lên Nhà Nước, lên những
khu vực họat động của xă hội.
- Nhà
nước và xă hội dân sự nằm trong trạng thái
năng động thường trực. Cá nhân đối
với sinh họat cộng đồng có thái độ tích
cực, trái ngược với chế độ
độc tài, chuyên chế, Nhà nước kềm kẹp
xă hội trong một t́nh trạng bất động
thường trực và đ̣i hỏi sự tham dự
của cá nhân trong những cuộc biểu diễn lực
lượng không đ̣i hỏi trách nhiệm nơi họ.
- Các thành
phần gọi là "sống bên lề xă hội" không
bị gạt ra ngoài. Họ cũng được chú
trọng như mọi thành phần xă hội khác.
-
Những buổi lễ ăn mừng không nằm trong khuôn
khổ định chế nhà nước cho phép con
người thoát ra khỏi những g̣ bó của cuộc
sống hàng ngày.
Đa
nguyên chính trị và xă hội thường được
xem như một hiện tượng chậm trễ và có
tính cách chuyển tiếp. V́ đa nguyên dựa trên những
giá trị nhân bản như ḷng bao dung, tính ôn ḥa, tinh
thần trung chính, óc thỏa thuận, nên dễ bị
hiểu lầm là một thể chế chuyển tiếp
giữa hai thời kỳ chuyên chế. Nhiều
người lầm tưởng rằng những
đối thủ truyền kiếp của đa nguyên -
độc tài chuyên chế và chủ nghĩa quốc gia
hẹp ḥi - có những vũ khí mạnh gấp bội
để giới hạn đa nguyên trong thời gian.
Nhưng thực tế không phải như vậy.
Hiện
tượng đa nguyên mang rất nhiều h́nh thái. Đó
là một trạng thái của tinh thần, đó là một
quan điểm triết học, đó là một cảm quan
của cá nhân đối với thế giới và trên
hết là một mô h́nh tổ chức xă hội bắt
nguồn từ thời Thượng Cổ. Đa nguyên c̣n
tồn tại cho đến ngày nay là nhờ nó bắt
rễ ăn sâu vào bản thể con người.
Về
mặt tư tưởng, đa nguyên nổi bật trong
văn hóa chính trị ngày nay cùng với những giá trị
: con người, tự do, đời sống cộng
đồng, quyền sở hữu, Nhà nước pháp
trị, v.v.
Về mô
h́nh tổ chức xă hội, xă hội đa nguyên
vượt trội hơn những mô h́nh xă hội khép kín.
Xă hội Đức vào thời Hitler trong một thời
gian ngắn nhưng đẫm máu đă khước từ
mô h́nh đa nguyên. Trong ṿng 40 năm, đa nguyên tiềm
ẩn trong những nền dân chủ xă hội chủ
nghĩa tại các nước Đông Âu để rồi
vào những thập niên 1970 và 1980 trở lại mạnh
mẽ hơn bao giờ. Năm 1989 khai mào một kỷ
nguyên mới mang h́nh thái đa nguyên cho cả Đông Âu.
Tại
Việt Nam, chế độ xă hội chủ nghĩa
sẽ chỉ là một dấu ngoặc nhỏ trong quá tŕnh
xây dựng đất nước. Mặc dù Việt Nam
đă trải qua rất nhiều chế độ quân
chủ, có một điều chắc chắn mô h́nh xă
hội đa nguyên đă được thực thi, v́ trong
pháp chế sử Việt Nam có câu : "Phép vua thua lệ
làng". Việc khảo cứu mô h́nh xă hội đa nguyên
trong lịch sử Việt Nam
thuộc phạm vi của một chương tŕnh
nghiên cứu khác.
Nguyễn Gia Thưởng
(Brussels, Belgium)