-- |
CHO HAY KHÔNG NÊN CHO ACETAMINOPHENE
( PARACETAMOL) TRONG SỐT
DENGUE XUẤT HUYẾT?
BS Bùi An B́nh
Mục đích của bà i này nhằm
tŕnh bày một quan điểm
về việc xử dụng thuốc Paracetamol, một
trong những thuốc được dùng phổ
biến trong điều trị sốt Dengue và
Dengue xuất huyết, đặc
biệt dùng trong giai đoạn đầu của
bệnh này ở trẻ em.
Thực tế cho thấy việc sử dụng
thuốc này trong điều trị sốt Dengue và
Dengue xuất huyết ở trẻ em được
tôi ghi nhận như sau:
- Thuốc được thầy thuốc kê
đơn hay gia đ́
nh tự mua và tự
định liều lượng v́ đây là thuốc
được sử dụng không cần kê
đơn ( over the counter).
- Gia đ́
nh bệnh nhân thường có
khuynh hướng muốn hạ nhiệt nhanh
ở một bệnh mà sốt có đặc
điểm: sốt cao liên tục trong 5 đến
7 ngày. Làm hạ nhiệt khi trẻ sốt
cao và liên tục là quan tâm hàng đầu
của gia đ́nh bệnh nhi và sự quan
tâm này thường vượt qua những xử
trí khác thích hợp hơn như cho trẻ uống
nhiều nước và theo dơi các dấu hiệu
nguy hiểm. Chính v́ mục đích mong cho trẻ
hạ nhiệt mà trẻ đă được
cho uống paracetamol không kiểm soát
hay nói đúng hơn là quá liều.
- Thực tế cho thấy, sau khi uống
paracetamol, nhiệt độ trẻ không hạ
bao nhiê
u trong sốt Dengue ( hiện tại
chưa t́m được nghiên cứu nào nghiên
cứu về tác dụng của paracetamol trên sốt
trong sốt Dengue).
- Gan trong sốt Dengue là gan bị viêm, trong khi
paracetamol là một thuốc được chuyển
hoá tại gan. Khi gan bị viêm, sự chuyển
hoá thuốc sẽ không hoàn toàn và có thể
gây độc cho gan và gây tổn thương
gan. Bệnh sốt Dengue v́ thế có thể nặng
thêm ( hiện tại chưa t́m được
nghiên cứu nào nói đến
ngộ độc paracetamol trong sốt Dengue xuẩt
huyết).
Từ những ghi nhận trên đây tôi thấy
cần phải xem xét lại việc nên hay không
nên sử dụng thuốc paracetamol trong điều
trị sốt Dengue xuất huyết?
Để trả lời câu hỏi nà y, thật
cần thiết phải nhắc lại sinh lư và bệnh
lư về sốt, thuốc paracetamol, tác dụng,
chuyển hóa và ngô độc, gan trong sốt
Dengue xuất huyết.
Sinh lư của sốt:
Điều hoà nhiệt độ cơ thể
.
Nhiệt độ cơ thể người
được điều hoà chặc chẽ
ở năo bộ và sự điều hoà này phải
được thực hiện ở
đây, bởi v́ nó cần đến những phản
ứng hoá phức tạp, xảy ra từng giây từng
phút. Chúng ta cũng đă từng học hoá
học và biết rằng phản ứng hoá học
sẽ nhanh hơn khi nhiệt độ
tăng. Phần lớn tốc độ phản
ứng hoá học của cơ thể được
gia tăng nhờ một số protein đặc biệt,
đó là các enzym. Các chất này hoạt
động hữu hiệu nhất ở một dăi
băng rất hẹp của
nhiệt độ cơ thể : 35-42oC (
Bray J et al (1997) Lecture Notes in Human Physiology.Fourth
edition. Oxford, Blackwell Scientific). Trên 45oC, các enzym
này sẽ biến chất,
thay đổi h́nh thái và như vậy không
c̣n khả năng kiểm soát
các phản ứng được nữa.
Nhiệt độ cơ thể được
tạo ra do một số phản ứng hoá học
trong quá tŕ nh biến dưỡng.
Tốc độ biến dưỡng cà ng
cao th́ nhiệt sinh ra càng lớn. Trẻ em có tốc
độ biến dưỡng cao nhưng khối
lượng cơ thể lại nhỏ, như vậy
ở trẻ nhỏ, nhiệt sinh ra nhiều,
nhưng mất nhiệt lại ít hơn v́ diện
tích cơ thể bé. Chính v́ vậy mà quá tŕnh
sinh và mất nhiệt ở trẻ em dễ bị
rối loạn hơn ở người lớn. Tốc
độ biến dưỡng
của cơ thể được điều hoà
bằng các hóc môn như hóc
môn tăng trưởng GH, hoc môn giáp TH, bằng mức
độ hoạt động, bằng nhịp sống
đêm ngày, bằng thức ăn
ăn vào, và ở phụ nữ bằng các
chu kỳ kinh nguyệt.
Có một sự khác biệt 0.5 oC
giữa nhiệt độ lơi và nhiệt
độ bề mặt cơ thể. V́ vậy
khi bị sôt, điều quan
trọng là xác định các phương pháp
đánh gía nào được áp dụng để
đo nhiệt độ. Nhiệt độ lơi của
cơ thể được điều hoà hết
sức chặc chẽ bằng năo bộ nhờ
các luồng xung nhiệt đến từ các bộ
phận cảm nhiệt nằm rải rác ở da,
ruột, các mạch máu sâu trong bụng, và ngay
ở trong năo bộ. Các dây thần kinh đi
từ các bộ phận cảm nhiệt đến
hạ khâu và tại đây có một vùng
được cấu tạo bởi các tế
bào đặc biệt có chức năng như bộ
điều chỉnh nhiệt để duy tŕ nhiệt
độ lơi của cơ thể ở một nhiệt
độ đă được định sẵn,
gọi là nhiệt độ
điểm ( 37oC). Nếu các tín hiệu đến
báo cho biết, nhiệt độ thấp hơn
nhiệt độ định điểm, lúc
đó hạ khâu sẽ ra một lệnh đến
các phần đảm nhận chức năng sinh
nhiệt và giữ nhiệt của cơ thể. Nếu
nhiệt độ cơ thể cao, hạ khâu sẽ
phát lệnh làm giảm nhiệt
độ.
Mất nhiệt
Phần lớn nhiệt thừa được
thải ra ngoà i, qua da. Sự mất nhiệt
này xảy ra nhờ dẫn nhiệt, đối
lưu nhiệt, bức xạ nhiệt và bốc hơi
ở bề mặt da.
? chỗ nào có sự khác biệt về nhiệt
độ giữa da, và các vật ǵ mà da tiếp
xúc ( ví dụ, áo quần, nước,
đất ) th́ nhiệt sẽ di chuyển từ
chố cao đến chố thấp, và người
ta gọi đó là dẫn nhiệt. Đối
lưu nhiệt cũng tương tự như dẫn
nhiệt nhưng ở đây sự trao đổi
nhiệt xảy ra giữa da và không khí.
Tất cả các vật thể đều bức
xạ năng lượng dướt dạng nhiệt
và sự bức xạ này chiếm đến
50% của nhiệt mất của cơ thể lúc
nghỉ (Bray et al 1997). Sự mất nhiệt
này tuỳ thuộc vào diện tích của cơ
thể, v́ vậy trẻ em do diện tích da nhỏ
nên ít mất nhiệt bằng bức xạ. Mất
nhiệt bằng bốc hơi nước từ
da xảy ra liên tục và được
gia tăng nhờ mồ hôi. Mất mồ hôi
ở bề mặt da có hiệu quả cao với
thời tiết khô ráo nhưng có hiệu quả
thấp ở môi trường ẩm. Đổ mồ
hôi gây mất nước và gây mất thăng
băng điện giải của cơ thể. V́
vậy đối với trẻ em không nên để
mất mồ hôi nhiều và kéo dài ( sử
dụng thuốc hạ nhiệt liều cao và liên
tục sẽ gây cho trẻ mệt và có thể
gây sốc)
Dẫn nhiệt, đối lưu nhiệt và bốc
hơi tất cả đều được kiểm
soát bởi cơ thể thông qua hạ khâu. Cơ
thể con người c̣ n mất một ít
nhiệt khác và mất nhiệt không kiểm soát
được đó là
mất nhiệt qua đường
hô hấp, qua nước tiểu và phân.
Sinh nhiệt và giữ nhiệt.
Sinh nhiệt
Một trong cơ chế sinh nhiệt sinh nhiệt
rơ ràng nhất là run. Run là một hiện tượng
trong đó cơ vân co và duỗi nhanh; năng
lượng được đốt và nhiệt
được tạo ra. Đây là một tiến
tŕnh không tử chủ bắt đầu từ
½ người trên, sau lan ra toàn thân. Cử động
chủ động ức chế run, và run phải
cần năng lượng hay chất đốt.
Chất đốt ở đây là mỡ dự trữ.
Giáng hoá mỡ sẽ giải phóng năng lượng
dự trữ để các cơ vân sử dụng.
Ở trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ
có một nguồn sinh nhiệt khác, đó là
mỡ nâu. Mỡ nâu hiện diện ở những
trẻ này để sinh nhiệt.
Ở đây, mỡ nâu tự đốt hơn là
chuyển năng lượng cho cơ vân để
đốt, và sau đó chuyển nhiệt sản
xuất cho các vùng của cơ thể, qua hệ
thống tuần hoàn. Ở trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ th́ đây là hệ thống sinh nhiệt
chính, v́ vậy thấy có hay không có run được
ở những trẻ này không phải là một
chỉ điểm tốt
để cho rằng có đáp ứng nhu cầu
gia tăng sản xuất nhiệt.
Giữ nhiệt ( bảo toàn nhiệt ).
Bên cạnh cơ chể sinh nhiệt, c̣n có cơ
chế bảo toàn nhiệt hay giữ nhiệt. Cơ
chế bảo toàn nhiệt được
kiểm soát bởi hạ khâu, bao gồm: giảm
dẫn nhiệt, đối lưu nhiệt, bức
xạ nhiệt và bốc hơi. Sự giảm
nhiệt này được
thực hiện bằng cách giảm số lượng
máu chảy đến da và như vậy, nhiệt
được giữ lại ở trong trung
tâm của cơ thể.
Số lượng máu lưu thông đến da
thay đổi rất lớn và được kiểm
soát bởi các trung tâm điều hoà nhiệt
và tim mạch ở năo qua trung gian hệ thần
kinh giao cảm (Bray et al 1997). Khi có nhu cầu
giữ nhiệt lại, hạ khâu sẽ phát những
tín hiệu qua trung gian dây thần
kinh giao cảm đến các mạch máu chuyên biệt
ở da, đặc biệt ở tay, chân, tai, mũi
và môi để gây co mạch. Máu lúc đó sẽ
đi đến chỗ khác và mất nhiệt
ở da giảm, v́ vậy chúng ta khi sờ sẽ
thấy da các vùng đó tái, lạnh và thấy
có vân tím.
Sốt.
Sốt được định nghĩa
như là một sự gia tăng bất thường
nhiệt độ lớn hơn 37.5 oC
( Porth 1994). Sốt được xem như có ích
cho cơ thể, v́ nó gia tăng tốc độ
chuyển hoá. Sự gia tăng nhiệt độ
có thể tiêu diệt các vi sinh vật xâm nhập,
và gia tăng khả năng
thải chúng ra khỏi cơ thể.
Tại mức độ tế bào, sốt
được khởi phát khi tác nhân nhiễm
trù ng như vi khuẩn, vi rút ( c̣n gọi là
các chất sinh nhiệt ngoại sinh) xâm nhập
vào các tế bào cơ thể ( đơn bào,
đại thực bào, tế bào nội mạc
và các tế bào khác ). Sự xâm nhập này phát
động phóng thích một số protein từ
các tế bào như Interleukin-1 ( IL-1) ; TNF a
( tumornecrosis factor ), Interleukin-6 ( IL-6) IFN (interferon g
) . Các chất này c̣n được gọi
là các chất sinh nhiệt nội sinh, và chúng cũng
được phóng thích khi tế bào bị tổn
thương trong các chấn thương.
Các chất sinh nhiệt nội sinh theo đường
máu đến hạ khâu, tại đây chúng tác
dụng trực tiếp hay qua trung gian chất
prostaglandin để làm thay đổi nhiệt
độ điểm ( b́ nh thường là
37oC). Do nhiệt độ
điểm tại hạ khâu đă được
chỉnh lại cao hơn b́nh thường nên
khi máu chảy đến hạ
khâu, được hạ khâu cho là thấp hơn
nhiệt độ điểm và phát lệnh
cơ chế giữ nhiệt và sinh nhiệt hoạt
động. Sốt được
sinh ra từ đó.( xem h́nh 1)
H́nh 1: Sinh lư bệnh của sốt.
Sốt thông thường diễn biến bằng
4 pha ( Porth 1994):
Tiền triệu: Trẻ
thấy khó chịu nhưng nhiệt độ
chưa tăng. Đây là giai đoạn mà
các chất sinh nhiệt ngoại sinh và nội sinh
đang t́m cách thay đổi
nhiệt độ điểm tại hạ khâu.
Run: Trẻ cảm thấy lạnh và run;
nhiệt độ cơ thể tăng dần lên.
Nhiệt độ điểm của bộ điệu
hoà nhiệt độ tại
hạ khâu: ví dụ được chỉnh
ở 39oC
nhưng nhiệt độ của máu lúc đó chỉ
37oC. Hạ khâu thấy có sự khác biệt về
nhiệt độ nên cho khởi phát có chế
sinh nhiệt bằng cách làm run cho đến chừng
nào nhiệt độ của
máu ngang bằng nhiệt độ mới chỉnh.Giai
đoạn này cũng cắt nghĩa một
số trường hợp run tiêm chuyền khi chuyền
các dịch ( ví dụ Ringer Lactate, Natri chloride 9% )
để lạnh, trong điều
trị sốt Dengue. Nhiệt độ thấp của
dịch chuyền làm hạ khâu
gia tăng sinh nhiệt bằng run lạnh.
Ửng đỏ da: Trẻ cảm thấy
khoẻ, da nóng và khô và nhiệt độ
tăng. Tại pha này nhiệt độ cơ thể
đă ngang bằng nhiệt độ ở bộ
phận điều nhiệt tại hạ khâu. Nhiệt
độ này được duy tŕ cho đến
chừng nào nhiệt độ điểm
được chỉnh lại, hoặc khi tác
nhân gây bệnh bị loại trừ hay khi có sự
can thiệp của dược lư.
Vă mồ hôi: Trẻ
ửng đỏ, vă mồ hôi và cảm thấy
nóng, nhiệt độ xuống
dần. Hạ khâu khám phá ra rằng máu quá nóng
so với nhiệt độ điểm nên khởi
động cơ chế giảm nhiệt. Nếu
nhiệt độ tụt đột ngột ( a
‘crisis’ ), trẻ có thể bị choáng do dăn
mạch ở diện rộng và nhanh.
Bên cạnh các cơ chế tăng và giảm
nhiệt cơ bản kể trên , một số yếu
tố khác có thể ảnh hưởng đến
tăng hay giảm nhiệt.
Nóng và ẩm có thể gây tăng
nhiệt độ v́ chúng làm giảm sự
mất nhiệt ở bề mặt da.
Ngoài ra, bất cứ điều kiện nào,
trong đó có sự giảm lưu thông tuần
hoàn, ví dụ như trong mất nước và
choáng, sẽ làm nhiệt độ
tăng thêm. Trong trường hợp giảm
thể tích tuần hoàn, trung tâm tim mạch ở
năo bộ sẽ điều khiển hạn chế
máu lưu thông đến da
để giữ nhiệt cho các cơ quan sinh tồn
bên trong. Lúc đó da trẻ sẽ tái, tay chân lạnh
và nổi vân tím. Sờ da lúc đó không thấy
nóng, nhưng nhiệt độ lơi cơ thể
có thể cao.
Tính nguy hiểm của sốt.
Mối quan tâm chính của sốt đối với
trẻ em là nó có thể gây co giật. Tuy vậy
nhiệt độ tăng cao
đột ngột là yếu tố khởi
phát co giật hơn là mức độ
cao của nhiệt độ. Ngoài ra sốt
c̣n gây phá huỷ protein cơ thể và ngay cả
tế bào. Mất nước qua mồ hôi, trong
giai đoạn vă mồ hôi có thể đưa
đến mất nước và rối loạn
điện giải. Run lạnh có thể gây chấn
thương cho trẻ.
Xử trí sốt.
Đối với sốt nhẹ ( < 38oC) ở
một trẻ khoẻ mạnh, chúng ta để yê n
và không can thiệp bằng hạ sốt. Chúng ta
t́m hiểu nguyên nhân và điều trị nguyên
nhân. Không nên can thiệp quá mức v́ sốt
trong trường hợp này có thể giúp làm ngắn
thời gian bị bệnh.
Đối với sốt cao, có thể đe doạ
gây co giật, hay ở nhũng trẻ có kè m
những nguy cơ khác ví dụ như bị suy miễn
dịch, th́ những trẻ này phải được
theo dơi và xử trí. Điều
trị bao gồm, xác định và loại
trừ nguyên nhân gây bệnh, làm hạ nhiệt
và chỉnh lại nhiệt độ
điểm cho trở về b́nh thường
ở bộ phận điều nhiệt ở hạ
khâu. Cũng cần lưu ư, thuốc hạ
nhiệt không pḥng ngừa được co giật
Giai đoạn sinh nhiệt run lạnh.
Do
bộ phận điều hoà nhiệt ở
hạ khâu được chỉnh
nhiệt cao, nên hạ khâu làm nóng cơ thể
lên bằng run và co mạch ngoại biên. Trong giai
đoạn này, không nên t́m cách hạ nhiệt bằng
cách lau và chườm mát, v́ cơ thể sẽ
bù trừ lại bằng gia tăng sinh nhiệt thêm
.
Lúc này, nên để nằm yên từng nào tốt
từng đó, và cho thuốc để làm hạ
nhiệt độ điểm xuống.
Trong giai đọan ửng đỏ và
vă mồ hôi.
Chườm và lau mát
Trong giai đoạn nà y chúng ta có thể
áp dụng phương pháp chườm lau mát và
quạt để giúp nhiệt
độ hạ nhanh hơn trở lại nhiệt
độ b́nh thường. Tuy vậy
phương pháp này không được
ủng hộ đối với trẻ em v́
có thẻ gây khó chịu và mệt cho trẻ v́
nhiệt độ có thể
hạ quá nhanh. Theo Blumenthal (2000), sự khác biệt
về hiệu quả giữa thuốc hạ nhiệt,
cọng với chườm lau mát, so với với
thuốc hạ nhiệt đơn thuần, là
không quá 0.5oC. Sự khác biệt này tương
đương với sự
khác biệt nhiệt độ giữa ngày
và đêm.
Tắm nước lạnh và các biện pháp
làm mát ép buộc khác xem ra không thích hợp, và
có thể đưa đến
choáng.
Thuốc hạ nhiệt.
Các protein tác động lên hạ khẩu để
tăng nhiệt độ điểm của bộ
phận điều hoà nhiệt độ là
những protein tạo ra prostaglandin. Tổng hợp
prostaglandin bị ức chế bởi paracetamol và
nhóm chống viêm không steroid ( NSAID). H́nh ảnh số
2 tŕnh bày cơ chế tác dụng của hai loại
thuốc này
Paracetamol có tác dụng chống
đau và hạ nhiệt nhẹ (Rang et al 1995,
Younger 1993).
Thuốc paracetamol ức chế tổng hợp
prostaglandin là những chất hoá học gây sốt
và đau cho cơ thể.
Sự ức chế này ( khác hẳn với thuốc
NSAID) là một sự tách tạm thời các enzym
dùng để tổng hợp prostaglandin, v́ vậy
paracetamol không gây tác dụng phụ khó chịu như
aspirin và ibuprofen. Thuốc an toàn ở liều b́nh
thường, nhưng rất nguy hiểm nếu dùng
quá liều.
Chuyển hoá Paracetamol
Paracetamol được chuyển hoá tại gan
(Higgins 1996, Rang et al 1995). Với liều
b́nh thường, gan sử dụng hai con đường
hoá học để tẩy độc paracetamol (
xem h́nh 3)
Con đường đầu tiê n là chuyển
đổi một số lượng paracetamol thành
các chất hoà tan trong nước để
được thải ra qua nước tiểu.
Con đường thứ hai phức tạp
hơn được sử dụng để chuyển
đổi paracetamol thành một hợp chất
độc acetylimidoquinone (NAPQI). Chất này kết
hợp với glutathion, là một chất biến
hợp chất độc này thành chất không
độc để
được thải ra qua nước tiểu.
Gan chỉ chứa một số lượng nhất
định glutathion, v́ vậy gan trẻ nhỏ,
chưa trưởng thành khó có thể thải một
lượng lớn paracetamol.
Trong trường hợp nguồn cung cấp
glutathion bị thiếu hụt, chất chuyển
hoá độc NAPQI của paracetamol tác dụng
lên protein trong tế bào gan và huỷ hoại chúng.
Ngoài ra khả năng gan chuyển hoá paracetamol sẽ
bị giảm khi có sự hiện diện của
một số thuốc khác như thuốc chống
co giật và rượu.
Aspirin và các thuốc NSAID ức chế vĩnh
viễn các enzym tổng hợp prostaglandin, v́ vật
mà tác dụng của chúng rộng hơn so với
paracetamol. Ngoài tác dụng gây sốt, prosraglandin
c̣n có tác dụng điều hoà tuần hoàn và tạo
a xít ở trong dạ dày và lưu thông máu qua thận.
NSAID có thể gây tác dụng phụ như khó
tiêu, buồn nôn, chảy máu dạ dày, và ảnh
hưởng đến tốc
đọ lọc cầu thận (Rang et al 1995).
Ngoài ra nó c̣n khởi phát và làm nặng cơn hen
hay dị ứng.
Ngộ độc acetaminophen ( paracetamol).
Acetaminophen được cho phép sử dụng
từ năm 1960 Liều dùng : 10-15mg/kg/liều
ở trẻ em mỗi 4 –6 giờ.Liều gây
độc cấp ở trẻ em: 150mg/kg.
Tổn thương gan do thừa NAPQI xảy ra
trong 4 t́nh huống sau:
- Lượng uống vào nhiều acetaminophen
- Hoạt động của CYP2E1 gia tăng do bị
hoạt hoá bởi các thuốc khác hay bởi rượu.
- Tương tranh giữa các enzyme kết hợp.
- Thiếu hụt dự trữ glutathion do suy
dinh dưỡng, do uống rượu măn tính.
H́nh 3: Chuyển hoá Acetaminophen ( paracetamol ) tại
gan
Nguồn gốc: Black M: Acetaminophen
Hepatotoxicity;Gastroenterology: 1980;78:385
Gan trong sốt dengue.
Người ta đă ghi nhận t́m thấy
vi rút Dengue ở trong gan và trong sốt Dengue
có xuất huyết xảy ra tại đây, ngoài
ra, gan trong sốt Dengue lớn và có thâm nhập mỡ.
Có tổn thương tế bào gan và thay đổi
chức năng gan với men transaminase tăng và
proteine máu giảm. Biến chứng của sôt
Dengue xuất huyết gồm tổn thương năo,
viêm cơ tim và suy gan.
Như vậy trong sốt Dengue, gan thật sụ
đă bị tổn thuơng, v́ vậy nên
thận trọng cân nhắc sử dụng bất
kỳ các loại thuốc ǵ, v́ thuốc có thể
gây tổn thương thêm cho gan.
Bàn luận.
Sốt: có ích hay có hại.
300 trước công nguyên đến 1700 người
ta cho rằng sốt có lợi. Tuy vậy từ thế
kỷ 19 do việc phát hiện vi trùng tác nhân nhiều
bệnh có sốt th́ sốt được cho là
có hại và cùng với việc khám phá ra thuốc
hạ nhiệt th́ thuốc hạ nhiệt cho
đến nay vẫn
được xử dụng rộng răi.
Quan điểm hiện nay với các bằng
chứng cho thấy rằng, sốt là phản
ứng có lợi cho cơ thể đối với
các bệnh nhiễm trùng, ví dụ năm
1917, Wagner von Jaure được giải Nobel v́
chữa giang mai thần kinh bằng sốt rét.
Ngoài ra người ta cũng ghi nhận sốt cao
và kéo dài làm giảm tiến tŕnh ung thư ( ví dụ
bệnh Hodgkin giảm tiến triển sau khi bị
sởi ). Ngoài ra sốt c̣n có ích, v́ tăng
chuyển hóa cơ bản. Nhiệt độ cao c̣n
tiêu diệt các tác nhân xâm nhập và quét nhanh
chúng ra khỏi cơ thể.
Mất mát trong sốt:
Tăng 1 oC sẽ làm tăng 13% nhu
cầu O2,, tăng nhu
cầu calo và nước.
Sốt gây tăng chuyển hoá và sự tăng
này có thể gây stress cho thai nhi hay bệnh nhân
đang có vấn đề tuần hoà n năo
và tim. Sốt cũng làm giảm tổng hợp
albumin, tăng sản xuất C-reactive protein,
haptoglobin, ceruloplasmin, fibrinogen & triglyceride và làm
giảm sắt, kẽm, natri trong huyết tương.
Sốt c̣n làm tăng ACTH, Hocmon GH, Insulin, Cortisol,
và ADH.. Sốt cao làm tăng
mất nước, gây co giật ( co giật xảy
ra do thay đổi đột ngột nhiệt
độ hơn là nhiệt độ cao), nói sảng
và giảm natri trong huyết tương.
Có nên cho Acetaminophen trong sốt Dengue và Dengue xuất
huyết?
Đối với các bệnh khác không phải
sốt Dengue?
Ư kiến về cho thuốc hạ sốt hiện
nay cho sốt không kể ǵ đến nguyên nhân
c̣n đang được bàn
căi. Quyết định và mức độ sử
dụng thuốc hạ nhiệt
thay đổi khác nhau tuỳ theo quyết định
của thầy thuốc kê đơn và sự hiểu
biết của gia đ́nh v́ phần lớn
thuốc hạ nhiệt là thuốc bán tự do
không cần kê đơn.
Khuynh hướng hiện nay đối với gia
đ́nh trẻ là sử dụng rộng răi
thuốc mỗi khi trẻ có sốt mà không
kể đến nguyên nhân. Có thể nói rằng
“chăm sóc ban đầu” của gia đ́nh khi
khám phá thấy trẻ nóng đầu là cho
Paracetamol.
Về y học, th́ quan điểm
cho thuốc hạ nhiệt có thể tóm tắt
theo bảng 1 dưới đây. Đây là một
bảng tham khảo mà tôi cho rằng rất hữu
ích mỗi khi chúng ta có quyết
định sử dụng hạ sốt.
Bảng 1. Diễn giải việc dùng thuốc
hạ nhiệt
Nên dùng thuốc hạ nhiệt |
Không nên dùng thuốc hạ nhiệt |
Quan điểm cho rằng sốt nguy hiểm
và có hại cho sức khoẻ
Sốt nếu không điều trị sẽ
dẫn đến nguy hi ểm, gây tổn
thương hệ thần kinh trung ương
Làm cho bố mẹ yên tâm
Nguy cơ gây co giật
Làm giảm sự khó chịu và các triệu
chứng khác kèm theo với sốt như
đau cơ, buồn ngủ, và nói sảng.
Hạ nhiệt độ giúp giảm thiểu
mất nước. |
Sốt bản thân tự khỏi và ít khi
nguy hiểm với điều kiện nguyên
nhân được biết rơ và nước
mất được bù đầy
đủ
Sốt, ngoại trừ trường hợp
sốt quá cao, thường được
điều chỉnh bởi hạ khâu để
không gây tăng quá mức.
Thời gian dùng để kê đơn
thuốc có thể được sử dụng
để giải thích cho bố mẹ về
lợi ích của sốt.
Thuốc hạ nhiệt không pḥng ngừa
được co giật.
Nhiệt độ tăng cao đột ngột
là yếu tố khởi phát co giật hơn
là mức độ cao của
nhiệt độ.
Làm hạ nhiệt độ
bằng thuốc hạ nhiệt có thể khuyến
khích hoạt động và cần đến
năng lượng. Đây là trái với
điều khi sốt cần nghỉ ngơi và
để dành năng lượng dùng
trong việc sản xuất kháng thể.
Trong một số trường hợp, sốt
diễn biến theo một khuôn mẫu, qua
đó giúp chẩn đoán được bệnh.
Dù ng thuốc hạ sốt có thể làm
thay đổi khuôn mẫu khiến gây khó
khăn cho chẩn đoán. Hiệu quả của
việc dùng kháng sinh cùng lúc có thiểt
bị che dấu.
Thuốc hạ nhiệt có thể các tác dụng
phụ, đôi khi rất nguy hiểm.
Sốt giúp bảo vệ cơ thể chống
lại nhiễm trùng. Dùng thuốc hạ nhiệt
ảnh hưởng đến sự bảo vệ
này.
|
Đố i với bệnh sốt Dengue và
Dengue xuất huyết?
Theo phác đồ điều trị sốt
Dengue và Dengue xuất huyết của WHO th́
thuốc Paracetamol được khuyến cáo sử
dụng nó khi cần thiết.
Theo ư kiến của tôi th́ không nên cho
Paracetamol trong điều trị sốt Dengue v́ những
lư do sau:
- Dựa trên kinh nghiêm thực tế th́ trong sốt
Dengue, Paracetamol không làm giảm nhiệt độ
và nếu có giảm th́ sự là rất giảm
ít ( không có sự khác biệt giữa cho và
không cho thuốc ), và chính thực tế này
mà gia đ́nh có khuynh hướng tiếp tục
cho thuốc mong làm giảm nhiệt độ và
như vậy nguy cơ ngộ độc thuốc
là điều không tránh
khỏi? Vấn đề này chưa được
nghiên cứu.
- Không sợ co giật trong sốt Dengue v́ thực
tế và sách hướng dẫn của WHO cho
rằng co giật ít gặp trong sốt Dengue, hơn
thế nữa tuổi mắc bệnh của sốt
Dengue thường là tuổi lớn hơn 5 tuổi
là lứa tuổi ít gặp co giật do sốt
cao, ngoài ra sốt Dengue là sốt cao đột
ngột lúc đầu sau là sốt liên tục,
trong khi co giật chỉ xảy ra khi có sự
thay đổi đột
ngột về nhiệt độ.
- Nếu kê đơn cho thuốc Paracetamol mà
không có lời hướng dẫn giải thích
th́ gia đ́nh sẽ xem trọng thuốc hạ
nhiệt hơn việc cho uống nước.
Hậu quả là bệnh nhi bị thiếu nước
và điện giải và sẽ dẫn đến
suy tuần hoàn. Máu tưới gan giảm, cùng
với lượng paracetamol thừa khi gan đă
bị viêm sẽ làm gan nhanh chóng dễ bị
tổn thương và suy gan ( thiếu glutathion,
thải thuốc qua đường tiểu giảm
do suy tuần hoàn, gây ứ đọng
paracetamol trong gan).
-
Uống paracetamol cùng sốt Dengue dễ gây nôn
hơn khi chỉ có sốt Dengue ( nôn là triệu
chứng của ngộ độc paracetamol và cũng
là triệu chứng chiếm đến 57,9%
trong sốt Dengue xuất huyết). Nôn sẽ
gây cản trở việc uống nước,
và ṿng luẩn quẩn sẽ xảy ra: Nôn mất
nước và điện giải. Ngoài ra trên
thị trường hiện nay th́ paracetamol
được phối hợp với các thuốc
khác như chlorpheniramine và vitamine. Chlorpheniramine
có thể gây ngủ gà và khó chịu cho trẻ
và v́ vậy sẽ hạn chế việc cho trẻ
uống nước.
- Paracetamol là thuốc được ghi chú là
sử dụng cẩn thận trong các bệnh về
gan như viêm gan mà gan trong Dengue xuất huyết
là viêm gan.
- Chỉ cho nước uống một ḿnh, gia
đ́nh sẽ thấy tầm quan trọng của
uống nước (cần giải thích cho gia
đ́nh về vai tṛ quan trọng của nước
và điện giải trong sốt Dengue).
- Câu hỏi đặt ra là phải chăng có
một số trường hợp nặng là
do dùng paracetamol quá liều
( không quá liều đối với người
mạnh khoẻ ) mà vẫn nghĩ là do bệnh
nặng: Đây là vấn đê cần
được nghiên cứu !!!
Như vậy nếu xem xét giữa cái lợi
và bất lợi của việc dùng paracetamol trong
điều trị sốt Dengue xuất huyết th́
tôi khuyên không nên cho. Thật vậy, những
điểm lợi của
paracetamol ( giảm đau cơ, và hạ nhiệt
ít ) thật không có giá trị bao nhiêu so với
những tác hại của nó có thể gây ra trên
gan khi sử dụng nó trong điều trị sốt
Dengue. Chúng ta có thể sử dụng các phương
pháp hạ nhiệt khác, mà những phương
pháp này chẳng những không gây tổn thương
cho gan nhưng lại có lợi như uống nhiều
nước có chất điện giải. Chườm
ấm, tắm ấm cũng là một phương
pháp hạ nhiệt mới thay cho phương pháp
trước đây là chườm lạnh và tắm
lạnh.
Kết luận.
Hiểu biết hiện nay về sinh lư bệnh
của sốt, về cơ chế tác dụng của
thuốc hạ nhiệt và dược học của
nó sẽ giúp cho người thầy thuốc cân
nhắc khi sử dụng thuốc hạ sốt
ở trẻ em. Với đặc
điểm của bệnh sốt Dengue xuất huyết
và thái độ xử trí hiện nay của gia
đ́nh bệnh nhân, và dựa trên thực tế,
tôi cho rằng không nên sử dụng thuốc
Paracetamol trong sốt Dengue xuất huyết. Cho thuốc
Paracetamol trong điều trị sốt Dengue xuất
huyết có thể gây tổn thương thêm cho
gan và ảnh hưởng đến tiến tŕnh
của bệnh sốt Dengue xuất huyết,
theo chiều hướng xấu đi. Vấn
đề này cần phải được nghiên
cứu thêm.
Phần c̣n lại là làm sao giải thích cho gia
đ́nh bệnh nhi về vai tṛ của sốt
trong bệnh tật, điều lợi và không lợi
khi sử dụng thuốc hạ nhiệt, đặc
biệt trong sốt Dengue xuất huyết. cùng giới
thiệu các phương pháp hạ nhiệt khác
an toàn hơn, như uống nước đầy
đủ . Đây là cả một quá tŕnh
dài và không phải là không có nhiều khó khăn.
Tài liệu tham khảo
- Wong Chin Khoon, fever in children. www.med.nus.edu.sg
- Boulant JA:
Thermoregulation. In: Machowiak PA, eds.: Fever:
Basic Mechanisms and Management. New York, NY: Raven Press, 1991, pp
1-22.
- Casey G.
Fever management in children.Nursing Standard. 14,
40, 36-40. 2000
- Lieu TA, Baskin MN, Schwartz JS, Fleisher GR
. Clinical and
cost effectiveness of outpatient strategies for management of
febrile infants. Pediatrics 1992;89:1135-44.
- Normal temperature ranges
Temperature measurement in
paediatrics Community Paediatrics Committee, Canadian Paediatric
Society (CPS)Paediatrics & Child Health 2000; (5),
273-6.Reference No. CP00-01 Reaffirmed January 2002)
- McCarthy PL
. Fever. Pediatr Rev 1998;19:401-7.
- Blazka ME, Elwell MR, Holladay SD, Wilson RE, Luster MI.
Histopathology
of acetaminophen-induced liver changes: role of interleukin 1 alpha
and tumor necrosis factor alpha.www.emedicine.com
Susan E Farrell, MD, Toxicity,
Acetaminophen.www.emedicine.com
Policy Statement. Acetaminophen Toxicity in Children
PediatricsVolume 108,
- Number 4 October 2001, pp 1020-1024.
- WHO Regional Office for South-East Asia
. Regional
Guidelines on Dengue/DHF. Prevention and Control,Last
Modified : 20-Nov-2001
|
|