ĐO NHIỆT ĐỘ Ở TRẺ
EM.
Bs
Bùi
An B́nh
Lời
mở đầu:
Bố mẹ trong cuộc đời của ḿnh,
chắc hẳn sẽ không bao giờ quên
được, những lúc ngồi hằng giờ
bên đứa con bị sốt. Chốc chốc lại
sờ trán, nắm tay, nắm chân trẻ và nét mặt
hốt hoảng lo âu, khi sơ thấy trán trẻ
“nóng như lửa” hay giật ḿnh khi sờ thấy
tay, chân trẻ “lạnh như nước đá
”. Bác sỹ và sinh viên trong phiên trực chắc
hẳn cũng không bao giờ quên, khi thân nhân của
em bé,cầm lấy tay họ và nói : “ thưa bác
sỹ, trán cháu nó nóng quá đi và chân cháu nó lạnh
tanh. Nhờ bác sỹ xem lại cháu .”
Trán “nóng như lửa”
và chân tay “lạnh tanh” là biểu thị một
t́nh trạng nặng của bệnh hay nói một
cách khác là sốt cao. Ngoài ra, tay chân lạnh, rịn
ướt cũng là biểu thị của một
t́nh trạng bệnh nặng khác. Cách đánh gía
chỉ sờ bằng ḷng tay cũng có thể
phân biệt được bệnh nặng và
không nặng. Áp má vào trán, hay má kề má cũng
là một cách đo nhiệt độ, hoặc phát
hiện miệng trẻ nóng, khi bú vú để có
thể nói “ con Ty hay thằng Tèo, ngày hôm nay,
chúng nó ấm đầu đấy nhé”. Cho
đến nay mà nói th́ cách đánh gía sốt phổ
biến nhất về sốt, vẫn là sờ bằng
tay, áp má, hay bú vú mẹ. Sờ bằng tay, áp má
và bú vú mẹ là cách độ nhiệt độ
nhanh, dễ dàng, không tốn kém, cần lúc nào
có lúc đó. Có thể đây là cách đo nhiệt
độ có từ ngàn xưa.
Nghiên cứu của Bùi An B́nh năm
2003, trên 125 trẻ có sốt, đến khám tại
một cơ sở y tế, tại thành phố Huế
cho thấy, chỉ có 20/125 ( 16.0% ) có sử dụng
nhiệt kế tại nhà, trong đó 18/20( 90%) sử
dụng nhiệt kế thuỷ ngân. Có 1/20 xử
dụng nhiệt kế dán trán và 1/20 nhiệt kế
tai. 90% đo nhiệt độ ở nách, có 1 trường
hợp dùng nhiệt kế thuỷ ngân để
do nhiệt độ miệng ở trẻ 15 tháng
tuổi. Có 57/125 ( 45.6%) bố mẹ không biết
bao nhiêu độ gọi là sốt, và bao nhiêu
độ là sốt cao.
Lấy nhiệt độ ở trẻ em xem ra
đơn giản, tuy đơn giản như vậy,
lại có rất nhiều loại nhiệt kế
dùng để đo nhiệt độ, như nhiệt
kế đo nhiệt độ ở da, ở miệng
hay hậu môn ( chính xác là trực tràng nên trong
bài này dùng từ trực tràng thay cho hậu môn)
và hay cả ở màng nhĩ. Lựa
chọn loại nhiệt kế nào thích hợp
thật khá phức tạp cho bố mẹ và cán
bộ y tế .
Nhiệt kế cổ điển
nhất ( thật ra sờ bằng tay hay áp má mới
gọi là cổ điển ) phải kể là nhiệt
kế thuỷ ngân. Nhiệt kế này tồn tại
đến hàng trăm năm, nhưng nay vẫn c̣n
gía trị, và tiếp tục được sử
dụng rộng răi.
Ngày nay với tiến bộ
khoa học, đă có nhiều loại nhiệt kế
khác nhau được sử dụng để
đo nhiệt độ. Chúng gồm: nhiệt kế
thủy ngân, nhiệt kế kỹ thuật số,
nhiệt kế băng dán trán, nhiệt kế
trong núm vú, nhiệt kế tai đo nhiệt độ
bằng bức xạ hồng ngoại
Các
loại nhiệt kế hiện nay
Nhiệt
kế thuỷ ngân.
Nhiệt
kế thuỷ ngân nói chung được xem là
nhiệt kế, cho nhiệt độ chuẩn vàng,
về độ chính xác. Mặc dầu lượng
thủy ngân bên trong nhiệt kế ít, nhưng vẫn
có thể gây ngộ độc, v́ vậy thận
trọng không làm vỡ nhiệt kế.
Nhiệt kế kỹ thuật số
Nhiệt
kế kỹ thuật số, cho biết nhiệt
độ bằng số hiện thị nhiệt
độ bằng chữ trên màng h́nh LCD. Đây
là loại nhiệt kế dễ sử dụng,
và tiện lợi hơn nhiệt kế thuỷ ngân,
và có độ chính xác càng lúc càng được
cải thiện, kể từ khi được
đưa ra sử dụng trong vài năm gần
đây. Nhiệt kế này được Hàn Lâm
Nhi Khoa Hoa Kỳ khuyến cáo dùng thay thế cho nhiệt
kế thuỷ ngân.
Nhiệt kế
tai
Nhiệt
kế tai đùng để đo nhiệt độ
của màng nhỉ, bằng cách đo bức xạ
hồng ngoại phát từ màng nhỉ. Đầu
của nhiệt kế tai được
đưa vào trong ống tai và đọc nhiệt
độ của màng nhỉ trong 2 giây. Nhiệt kế
tai không gây khó chịu hay sự hợp tác của
trẻ, tuy vậy nhiệt kế này cho đến
có độ chính xác không cao đối với trẻ
dưới 2 tuổi.
Nhiệt
kế dán ở trán.
Nhiệt
kế là một băng plastic được dán
vào trán và đọc nhiệt độ
tương ứng với màu lục xuất hiện
trên băng. Nhiệt kế dán ở trán đo nhiệt
độ da, chứ không đo nhiệt độ
cơ thể và có độ chính xác kém, đặc
biệt ở trẻ nhỏ, v́ vậy loại nhiệt
kế không được Hàn Lâm Viện Nhi Khoa
Hoa Kỳ khuyến cáo dùng.
Nhiệt kế trong núm vú giả.
Đây là loại nhiệt kế có
bộ phận đo nhiệt độ được
gài trong núm vú giả. Trẻ ngậm núm vú và bộ
phận báo cho biết trẻ có sốt hay không bằng
thay đổi màu hay bằng số trên màng h́nh.
Nhiệt
độ trẻ em
Những
vị trí cho nhiệt độ chính xác nhẩt của
cơ thể là những vị trí gần
Hypothalamus, trung tâm điều hoà nhiệt độ
của cơ thể, hay c̣n gọi là nhiệt
độ “lơi” của cơ thể. Nhiệt
độ trong động mạch phổi, trong thực
quản và bàng quang được xem là nhiệt
độ lơi. Tuy vậy, các vị trí này chỉ
đo được bằng cách đo có can thiệp
xâm nhập, và đây là cách đo không thích hợp
với cách đo nhiệt độ thường
qui.( 1 ).
Theo
cách hướng dẫn cổ điển th́ nhiệt
độ b́nh thường của cơ thể là
37oC (98.6oF) và được xem như có sốt
khi nhiệt độ hậu môn bằng hoặc
cao hơn 38oC ( 100oF).
Trẻ
dưới 36 tháng tuổi, nếu có sốt, thường
th́ do các nguyên nhân nhiễm trùng. Sốt ở trẻ
dưới 3 tháng, tuổi cần phải t́m hiểu
kỹ nguyên nhân của nhiễm trùng, và cũng
ở lứa tuổi này th́ nhiệt độ b́nh
thường hay thấp hơn b́nh thường
cũng có thể kèm theo nhiễm trùng nặng với
tất cả triệu chứng khác. Định
nghĩa sốt chưa rơ nguyên nhân cần phải
theo đúng những tiêu chí ( 2-3) (sốt kéo dài
quá 14 ngày và không t́m được nguyên nhân bằng
các xét nghiệm thường qui) và bảng ghi
theo dơi nhiệt độ chính xác ( 2-4). Theo dơi bảng
ghi nhiệt độ và không thấy sốt sẽ
làm cho bố mẹ và thầy thuốc an tâm, nhất
là bố mẹ, khỏi phải bị chứng dùng thuốc hạ nhiệt
độ liên tục, khám bệnh nhiều nơi,
và thử nghiệm không cần thiết (5).
Để giúp cho chẩn đoán đúng, cần
phải đo nhiệt độ chính xác, dựa
trên việc chọn lựa
nhiệt kế thích hợp, lấy nhiệt độ
đúng cách, và theo dơi bảng nhiệt độ.
Ngoài ra cũng cần phải nắm được
nhiệt độ trung b́nh ở các vị trí
đo khác nhau (xem bảng 1)
Bảng 1: Nhiệt độ trung b́nh đo
được ở trẻ em
Cách
đo
|
Nhiệt độ trung b́nh
|
Trực
tràng
|
36.6°C
đến 38°C (97.9°F to 100.4°F)
|
Tai
|
35.8°C
đến 38°C (96.4°F to 100.4°F)
|
Miệng
|
35.5°C
đến 37.5°C (95.9°F to 99.5°F)
|
Nách
|
34.7°C
đến 37.3°C (94.5°F to 99.1°F)
|
Nguồn gốc: (
Normal temperature ranges Temperature
measurement in paediatrics
Community Paediatrics Committee, Canadian Paediatric Society
(CPS)Paediatrics & Child Health 2000; 5(5), 273-6.Reference No.
CP00-01 Reaffirmed January 2002)
Cách
đo và phương pháp đo nhiệt độ
hiện nay.
Nhiệt độ trực tràng ( hậu môn ).
Đo
nhiệt độ trực tràng lâu nay được
xem là cách đo chuẩn vàng, trong các cách đo
nhiệt độ ( 7-8). Hiện nay nhiều nghiên
cứu cho thấy rằng, cách đo nhiệt
độ trực tràng có nhiều hạn chế
(9-10) .
Nhiệt độ trực tràng
thay đổi chậm so với
thay đổi của nhiệt độ lơi.
Thật vậy, nhiệt độ trực tràng vẫn
c̣n cao, trong khi hiệt độ lơi bắt đầu
giảm, và bệnh nhân đă thấy khoẻ và
ngược lại. Sự chậm trễ này
được cắt nghĩa là do tuần hoàn
máu ở trực tràng kém và phân trong trực
tràng có tác dụng như tấm cách nhiệt
(Terndrup and Milewski, 1991).
Nhiệt độ trực tràng cũng c̣n bị
ảnh hưởng bởi độ sâu của
nhiệt kế đưa vào trong trực tràng, bởi
các điều kiện ảnh hưởng đến
tuần hoàn tại chỗ, và sự hiện
diện của khối phân. Ngoài ra nhiệt kế
có thể đâm thủng trực tràng, và nếu
không tiệt trùng, nhiệt kế có truyền các
mầm bệnh của phân.
Bố mẹ thật ra không quen và thích cách đo
nhiệt độ này, và trẻ em
thường phản ứng lại v́ cách
đo gây khó chịu cho chúng.
Kỹ
thuật đo nhiệt độ trực tràng.
Nếu
sử dụng nhiệt kế thủy tinh, phải
xử nhiệt kế dành cho trực tràng ( nhiệt
kế với đầu đo có bầu to hơn
nhiệt kế nách hay miệng )
·
Làm sạch
nhiệt kế bằng nước xà pḥng và rữa
sạch
·
Rảy cho
đường thuỷ ngân ở vị trí dưới
36 oC ( 96.8 o F)
·
Bôi đầu
đo nhiệt kế một ít mỡ vaseline.
·
Cho trẻ
nằm ngửa, đầu gối co
·
Đưa
nhẹ đầu nhiệt kế ( chạm đầu
nhiệt kế ở ŕa hậu môn cho trẻ làm
quen với xúc giác) vào trực tràng khoảng 2.5
cm ( 1 inch) và giữ nhiệt kế bằng ngón
tay.
·
Đọc
nhiệt độ ít nhất sau 2 phút.
·
Rửa sạch
nhiệt kế.
Nếu xử dụng nhiệt kế kỹ thuật
số th́ lau nhiệt kế bằng bông tẩm cồn,
hay rửa bằng nước xà pḥng ấm (
không nóng) sau đó rữa sạch bằn nước.
Bấm nút mở, đặt đầu ḍ vào hơm
nách. Giữ nhiệt kế tại chỗ trong 1
phút hay khi nghe tiếng kêu bíp.
Đo nhiệt độ nách.
Đây là cách đo nhiệt độ đơn
giản nhất ( so với do nhiệt độ miệng
và trực tràng) nhưng cũng là cách đo cho
nhiệt độ ít chính xác so với nhiệt
độ lơi ( 7,9,10,11). Nhiệt kế sử dụng
để đo nhiệt độ nách là nhiệt
kê cổ truyền thuỷ ngân, hay nhiệt kế
kỹ thuật số, được đặt vào
vị trí của động mạch nách hơn 4
phút. Nhiệt độ đo được chịu
ảnh hưởng rất nhiều với điều
kiện xung quanh ( nhiệt độ bên ngoài, vị
trí đặt nhiệt kế, độ kín của
phần da nách ôm nhiệt kế, thời gian
đo v.v).
Mặc
dầu cách
đo có độ nhạy và độ đặc
hiệu thấp để phát hiện sốt, song
đo nhiệt độ nách vẫn được
Hội Hàn Lâm Nhi Khoa Hoa Kỳ khuyến
cáo sử dụng đo nhiệt độ nách cho
trẻ sơ sinh trong các tét sàng lọc v́ đo
nhiệt độ trực tràng có thể gây thủng
hậu môn bằng nhiệt kế trực tràng
(22).
Kỹ thuật đo nhiệt độ nách.
Phương pháp này được
sử dụng để đo nhiệt độ
của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nếu
là nhiệt kế thuỷ ngân, xử dụng nhiệt
kế trực tràng hay nhiệt kế miệng:
·
Làm sạch
nhiệt kế bằng nước xà pḥng và rữa
sạch
·
Rảy cho
đường thuỷ ngân ở vị trí dưới
36 oC ( 96.8 o F)
·
Đặc đầu nhiệt kế vào
trung tâm của hơm nách..
·
Đảm bảo là
cẳng tay của trẻ ôm sát vào thân.
·
Để
nhiệt kế tại chỗ ( không mở ra xem
hay kiểm tra vị trí của nhiệt kế
trong quá tŕnh đo).
·
Lấy nhiệt kế và đọc.
·
Làm sạch nhiệt kế.
Nếu
xử dụng nhiệt kế kỹ thuật số
th́ lau nhiệt kế bằng bông tẩm cồn,
hay rửa bằng nước xà pḥng ấm (
không nóng) sau đó rữa sạch bằng nước.
Bấm nút mở, đặt đầu ḍ vào hơm
nách. Giữ nhiệt kế tại chỗ trong 1
phút hay khi nghe tiếng kêu bíp.
Đo nhiệt độ miệng.
Vùng
dưới lưỡi là vùng dễ lấy nhiệt
độ và phản ảnh nhiệt độ của
động mạch lưỡi. Tuy vậy nhiệt
độ lưỡi chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố như mới ăn
và uống, thở
(12)
Để lấy
nhiệt độ miệng chính xác, miệng phải
ngậm kín, lưỡi đè lên nhiệt kế
từ 3-4 phút. Điều này thật khó thực
hiện đối với trẻ em. Trẻ có thể
cắm và làm vỡ nhiệt kế. V́ vậy
cách đo này không được dùng cho trẻ
nhỏ, bệnh nhân hôn mê hay bệnh nhân không hợp
tác. Nhiệt kế ở dạng núm vú giả
đă được sản xuất nhưng
chưa được đánh gía (13).Nh́n chung th́
độ chính xác của đo nhiệt độ
bằng miệng nằm ở giữa đo nhiệt
độ nách và trực tràng. Độ chính xác
gia tăng theo với tuổi v́ độ chính
xác chủ yếu phụ thuộc vào kỹ thuật
đo.
Kỹ thuật đo nhiệt độ miệng.
Đo nhiệt độ miệng bằng nhiết
kế thuỷ tinh có thể bị vỡ do trẻ
cắn v́ vậy không đo nhiệt độ miệng
bằng nhiệt kế thuỷ tinh cho trẻ
dưới 5 tuổi.
·
Làm sạch
nhiệt kế bằng nước xà pḥng và rữa
sạch
·
Rảy cho
đường thuỷ ngân ở vị trí dưới
36 oC ( 96.8 o F)
·
Đặt
đầu nhiệt kế cẩn thận nằm
dưới lươi theo vị trí ở h́nh (1).
·
Bảo trẻ
ngâm chặc môi, và lưu nhiệt kế trong 3-4
phút.
·
Lấy nhiệt
kế ra và đọc.
·
Lau sạch
nhiệt kế.
Nếu xử dụng nhiệt kế kỹ thuật
số th́ lau nhiệt kế bằng bông tẩm cồn,
hay rửa bằng nước xà pḥng ấm (
không nóng) sau đó rữa sạch bằn nước.
Bôi
trơn đầu ḍ bằng dầu không. Bấm
nút mở, đặt đầu ḍ vào dưới
lưỡi ở vị trí h́nh (1). Giữ nhiệt
kế tại chỗ trong 1 phút hay khi nghe tiếng
kêu bíp.
Đo nhiệt độ màng nhỉ.
Để
đo nhiệt độ màng nhỉ, phải có một
dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với
màng nhỉ. Năm 1969, nghiên cứu cho thấy
đo nhiệt độ màng nhĩ, phản ánh
nhiệt độ lơi tốt hơn nhiệt độ
lơi đo bằng nhiệt kế ở trực tràng.
Lúc đầu, để có nhiệt độ màng
nhĩ, bộ phận đo nhiệt độ phải
tiếp xúc trực tiếp với màng nhĩ, nên
cách đo này không thực tế cho việc lấy
nhiệt độ hằng ngày.
Hiện
nay, thay v́ đo trực tiếp màng nhĩ, các nhiệt
kế màng nhĩ đo
bức xạ nhiệt phát ra từ mang nhĩ và
tai trong, và v́ vậy, các nhiệt kế được
gọi là các bộ phận phát hiện bức xạ
hồng ngoại (PHBXHN). Do lượng bức xạ
phát ra tỷ lệ thuận với nhiệt độ
màng nhĩ, nên bức xạ hồng ngoại có
thể ước tính khá chính xác nhiệt độ
màng nhĩ (14 )
Khác với các vị trị khác của cơ thể,
lượng tưới máu cho màng nhĩ gần
giống như lượng tưới máu cho
hypothalamus, trung tâm điều hoà nhiệt độ
của cơ thể. Chính v́ vậy mà mang nhĩ
là nơi lư tưởng cho việc đánh gía nhiệt
độ lơi. Khóc, viêm tai giữa, hay ráy tai đă
cho thấy không có ảnh hưởng
rơ đến kết quả đọc nhiệt
độ.
Bộ phận PHBXHN có thể đo bức xạ
hồng ngoại của màng nhĩ bằng hai cách:
Một bộ phận cảm nhiệt thermopile phát
hiện bằng cách đo nhanh và liên tiếp mức
độ nóng tại vùng nằm ngay cạnh
màng nhĩ. Một bộ phận cảm
điện pyoloelectric, phát hiện luồng nóng bằng
cách đo tốc độ của luồng
năng lượng phát xuất từ màng nhĩ
chạy qua bộ phận cảm điện, tại
đây chúng được bắt giữ và ghi lại
như bắt h́nh của phim chụp h́nh. Cả
hai phương pháp đều cho độ chính
xác giống nhau.
Kỹ thuật đo nhiệt độ màng nhĩ.
·
Lau đầu
ḍ mỗi lần sử dụng, thực hiện
đo theo hướng dẫn của nhà sản xuất
·
Nắm nhẹ
vành tai. Kéo vành tai ra phía sau. Kéo tai ra sau làm cho
ống tai trở nên thẳng và làm thông
đường đến màng nhĩ.
·
Đưa
nhẹ nhiệt kế vào tai cho đến khi
ống tai ôm chặc lấy ông nhiệt.
·
Ấn nút
on/off và giữ trong một giây.
·
Rút nhiệt
kế ra và đọc.
So sánh độ
chính xác của các loại nhiệt kế.
Nhiệt kế cổ điển thuỷ ngân và
nhiệt kế kỹ thuật số. (
15) Nhiệt kế kỹ thuật số cho
nhiệt độ thấp hơn một ít so với
nhiệt độ đo được bằng
nhiệt kế thuỷ ngân. Nhiệt độ
đo thấp hơn là do nhiệt độ bị
mất trong nhiệt kế kỹ thuật số,
trong quá tŕnh đo. Nếu nhiệt kế kỹ
thuật số có phần điều chỉnh sự
mất nhiệt độ này th́ sẽ không c̣n sự
chênh lệch giũa hai loại nhiệt kế này
Độ chính xác của cách đo nhiệt độ
màng nhĩ và cách đo cổ điển.
Việc
sử dụng nhiệt kế hồng ngoại
trong lâm sàng gặp những sự ủng hộ (
15,16,25,26) và chống đối ( 27-30), v́ vậy
mà nhiều thầy thuốc đă ngờ vực
về độ chính xác của cách đo. Một
cuộc phỏng vấn gần đây cho các thành
viên của Hội Hàn Lâm Nhi Khoa Hoa Kỳ và Hội
Hàn Lâm Thầy Thuốc Gia Đ́nh Hoa Kỳ về
việc sử dụng nhiệt kế hồng ngoại
cho thấy rằng: 78% người trả lời
đă có sử dụng một lần và 65% thầy
thuốc nhi khoa và 64% thầy thuốc gia đ́nh
thường xuyên xử dụng. Phần lớn
các thầy thuốc đă bỏ dùng loại nhiệt
kề này, v́ cho rằng nó ít chính xác và các
đồng nghiệp chưa tin tưởng nó cho
lắm.
Độ
chính xác của nhiệt kế màng nhĩ.
Có rất
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả của đo nhiệt độ
ở tai, ví dụ cấu trúc của ống tai,
đầu ḍ, ví trí của đầu ḍ, độ
kín của đầu ḍ với ống tai, vị
trí của đầu ḍ với màng nhĩ, thành
ông tai (16) Như vậy để đọc
được chính xác nhiệt độ màng nhĩ
th́ đầu ḍ hồng ngoại ( có đường
kính 8mm) phải vừa nhỏ đủ đi sâu
vào đến meatus để hướng bộ cảm
ứng đối diện với mang nhĩ ( 17
)Điều này không có vấn đề ǵ đối
với trẻ lớn hơn 2 tuổi v́ đường
kính ông tai của nhưng trẻ này lớn hơn
8 mm. Đường kính trung b́nh của ống
tai trẻ mới sinh là 4mm, lúc 2 tuổi, 5 mm, v́ vậy
ống tai có thể bị chấn thương nếu
sử dụng nhiệt kế hông ngoại màng nhĩ
với đầu ḍ có 8 mm đường kính. Nếu
đầu ḍ quá lớn, đầu ḍ sẽ ghi
nhận các tia hồng ngoại không những
ở màng nhĩ mà cả từ cấu trúc thành
meatus v́ vậy sẽ cho kết quả không chính
xác. Ngoài ra độ chính xác c̣n tuỳ thuộc
vào kỹ thuật, và các hướng dẫn sử
dụng của nhà sản xuất có được
thực hiện đúng đắn hay không?
Chọn
kỹ thuật đo nhiệt độ cho trẻ
em.
Để
xem trẻ có sốt hay không, cần phải xác
định nhiệt độ cơ thể. Cho
đến nay chưa có chưa có nghiên cứu
nào, xác định mối tương quan chính
xác giữa nhiệt độ miệng, trực tràng,
tai ( màng nhĩ) và nách, tuy vậy, mối tương
quan có thể khái quát như sau ( 21):
·
Nhiệt
độ b́nh thường trung b́nh của miệng
là 37 0C. Nhiệt độ miệng, thấp
hơn nhiệt độ trực tràng hay nhiệt
độ tai.
·
Nhiệt
độ trực tràng cao từ 0.28 0C
đến 0.56 0C so với nhiệt độ
miệng.
·
Nhiệt
độ tai cao từ 0.28 0C đến
0.56 0C so với nhiệt độ miệng.
·
Nhiệt
độ nách thấp từ 0.28 0C đến
0.56 0C so với nhiệt độ miệng.
Nhiệt
độ trực tràng được xem là nhiệt
độ chính xác nhất để đánh giá
nhiệt độ trẻ em. Bảng 2 sau đây
tóm tắt các kỹ thuật được khuyến
cáo sử dụng để đo nhiệt độ
cho trẻ em
Bảng 2: Tóm tắt các kỹ thuật
đo nhiệt độ được khuyến
cáo
Tuổi
|
Kỹ
thuật khuyến cáo
|
Từ
lúc sinh đến 32 tuổi
|
Ưu
tiên 1: Trực tràng ( để
có nhiệt độ chính xác)
Ưu
tiên 2: Nách ( kiểm tra có sốt
hay không; dùng trong sàn lọc)
|
Từ
2 đến 5 tuổi
|
Ưu
tiên 1: Trực tràng
Ưu
tiên 2: Tai
Ưu
tiên 3: Nách
|
Trên
5 tuổi
|
Ưu
tiên 1: Miệng
Ưu
tiên 2: Tai
Ưu
tiên 3: Nách
|
Bàn
luận.
Như vậy, hiển nhiên cho thấy rằng, hiện
nay chúng ta có nhiều loại nhiệt kế để
đo nhiệt độ với những ưu
điểm và khuyết điểm của chúng. Kỹ
thuật đo nhiệt độ cũng cho chúng
ta kết quả khác nhau, v́ vậy việc cần
thiết là chọn kỹ thuật nào cho phù hợp
với từng hoàn cảnh khác nhau.
Có điều rơ ràng
rằng, sự chọn lựa nhiệt kế
của bố mẹ phụ thuộc vào sự hiểu
biết, sự tiện lợi, gía cả, và quảng
cáo. Đối với các nhà chuyên môn th́ các nhiệt
kế cổ điển thường được
chọn lựa, bởi chúng có vị trí vững
mạnh trong y văn, và không có lư do ǵ để
thay thế. Nhiệt kế thuỷ ngân vẫn c̣n
gía trị truyền thống của nó, tuy vậy
do đặc điểm dễ vỡ nên bố mẹ
vẫn có cảm giác sợ vỡ khi sử dụng
nó để cặp nhiệt độ trực tràng,
cặp nhiệt độ miệng hay ở trẻ
sơ sinh và trẻ nhỏ. Sử dụng nhiệt
kế kỹ thuật số sẽ có thể khắc
phục được những nhược điểm
này v́ vậy trong tương lai nhiệt kế này
sẽ thay thế nhiệt kế thuỷ ngân.
Nhiệt
kế tai đo nhiệt độ màng nhĩ, gần
bằng nhiệt độ lơi, ghi nhanh chỉ trong
2 giây
an toàn và dễ xử dụng; tuy vậy việc
sử dụng nó bị hạn chế do gía cả
hiện nay khá đắt, độ chính xác
đang c̣n bàn căi và chỉ được xử
dụng cho trẻ lớn hơn 2 tuổi. Nhiệt
kế áp trên trán là nhiệt kế đo nhiệt
độ da và chịu nhiều tác động bên
ngoài nên cũng không được khuyến cáo
xử dụng. Nhiệt kế gắn vào núm vú gỉa
có gía trị cho biết trẻ có sốt hay không
và được xử dụng do sự tiện
lợi của nó
Vị
trí cặp nhiệt độ có liên quan đến
nhiều vấn đề.
Để có nhiệt độ giúp chẩn đoán
bệnh hoặc trong một số t́nh huống như
để nghiên cứu, ở trẻ nhỏ dưới
2 tháng tuổi nghi có sốt hoặc trẻ từ
2 tháng đến 3 tuổi nghi có sốt cao th́ chọn
vị trí trực tràng là vị trí đo nhiệt
độ kinh điển. Đây là vị trí cho
nhiệt độ chính xác, và là vị trí dễ
thực hiện so với đo nhiệt độ
nách, hay miệng là những vị trí mà nhiệt
kế có thể bị nằm lệch chỗ,
đặc biệt khi đo ở những trẻ
khó tính.
Lấy
nhiệt độ ở miệng cũng cho nhiệt
độ chính xác, cũng như đo nhiệt
độ trực tràng, tuy vậy để cho trẻ
chấp nhận đo nhiệt độ ở miệng
là cả một thử thách.
Đo
nhiệt độ nách là cách đo ít chính xác nhất,
và nhiệt độ đo được, phải
cọng thêm 0.50C. Cách cọng thêm này xem
ra cũng không chính xác. Đo nhiệt độ nách
có gia trị, khi sử dụng nó trong sàng lọc
xem trẻ có sốt hay không? Sau đó nhiệt
độ thật sẽ được đánh
gía bằng đo nhiệt độ trực tràng
hay miệng.
Cuối
cùng, có một điều là sự lo lắng của
bố mẹ hay thầy thuốc để có cho
được nhiệt độ chính xác, bằng
cách cọng thêm, hay trừ đi nhiệt độ
đo ở vị trí nách, miệng, hay hậu môn
có thể sẽ làm cho họ mất đi điều
quan trọng là t́m hiểu ư nghĩa của sốt
trên bệnh là ǵ ? Thật vậy, sốt là một
phản ứng bảo vệ của cơ thể
chống lại các tác nhân gây bệnh như
vi rút hay vi khuẩn. Sốt giúp chiến đấu
chống lại bệnh và báo cho chúng ta biết
ngoài sốt ra c̣n có nhưng triều chứng khác
nữa. Nếu trẻ sốt mà vẫn vui vẻ
chúng ta chưa cần phải can thiệp sốt và
theo dơi, và trong trường hợp này nếu
chúng ta quá quan tâm cần phải biết chính xác
nhiệt độ, th́ cặp nhiệt độ
hậu môn sẽ cho chúng ta nhiệt độ chính
xác nhất. Ngược lại nếu trẻ sốt
và tỏ ra khó chịu, mệt mơi nhiều hoặc
có kèm theo các triệu chứng nặng th́ cặp
nhiệt độ hậu môn để biết
nhiệt độ chính xác là cần thiết
để có sự can thiệp thích hợp.
Kết
luận
Như
vậy, việc lấy nhiệt độ chính
xác là cần thiết và quan trọng tuỳ theo
t́nh trạng trẻ như thế nào khi trẻ sốt
kể cả khi trẻ có nhiệt độ thấp.
Các trường hợp sau đây cần phải
đem trẻ đi khám ngay:
·
Trẻ dưới 3 tháng tuổi có sốt
trên 38 oC
·
Trẻ sinh non có nhiệt độ trên 38 oC
·
Trẻ sốt và có kèm theo các dấu hiệu
kích thích, vật vă, li b́, bú kém, khó thở, ho
và trông khác thường
·
Trẻ có nhiệt độ dưới
36 oC
·
Trẻ sờ thấy nóng như lửa
·
Sốt kéo dài trên 3 ngày.
·
Sốt kèm theo với những cử động
bất thường.
Ngoài ra, chọn lựa nhiệt kế và vị
trí lấy nhiệt độ sẽ đạt
được thích hợp tuỳ theo lứa tuổi
và mục đích của đo nhiệt độ
và trong chọn lựa nhiệt kế th́ không
quên rằng ngoài những nhiệt kế nhân tạo
th́ sờ, áp má, và vú mẹ ( thay thế cho núm
vú giả có gắn nhiệt kế ) là những
nhiệt kế rất hiệu quả, tiện lợi,
rẻ tiền, nhanh, mang nhiều t́nh cảm, cần
lúc nào có lúc đó mà không một nhiệt kế
nhân tạo nào có thể thay thế được.
Tài
liệu tham khảo
1. Ferra-Love
R: A comparison of tympanic and pulmonary artery measures of
core temperature, Journal of Post Anesthesia Nursing 6(3):161-164,
1991.
2. Kleiman
MB. The complaint of persistent fever. Recognition and
management of pseudo fever of unknown origin. Pediatr Clin North Am
1982;29:201-8.
3. McClung
HJ. Prolonged fever of unknown origin in children.
Am J Dis Child 1972;124:544-50.
4 Pizzo
PA, Lovejoy FH, Smith DH. Prolonged fever in Children: Review of
100 Cases. Pediatrics 1975;55:468-73.
5. Lieu
TA, Baskin MN, Schwartz JS, Fleisher GR. Clinical and cost
effectiveness of outpatient strategies for management of febrile
infants. Pediatrics 1992;89:1135-44.
6.
Normal temperature ranges Temperature
measurement in paediatrics Community Paediatrics Committee, Canadian Paediatric Society
(CPS)Paediatrics & Child Health 2000; 5(5),
273-6.Reference No. CP00-01 Reaffirmed January 2002)
7. McCarthy
PL. Fever. Pediatr Rev 1998;19:401-7.
8. Brown
PJ, Christmas BF, Ford RP. Taking an infant’s temperature:
Axillary or rectal thermometer? N Z Med J 1992;105:309-11.
9. Romano
MJ, Fortenberry JD, Autrey E, et al. Infrared tympanic
thermometry in the pediatric intensive care unit. Crit Care Med
1993;21:1181-5.
10.Erickson
RS, Woo TM. Accuracy of infrared thermometry and traditional
temperature methods in young children. Heart Lung 1994;23:181-95.
11.
Jaffe DM.
What’s hot and what’s not: The gold standard for thermometry in
emergency medicine. Ann Emerg Med 1995;25:97-9.
12. Jaffe
DM. What’s hot and what’s not: The gold standard for
thermometry in emergency medicine. Ann Emerg Med 1995;25:97-9. ).
13.
Press S, Quinn BJ. The pacifier thermometer: Comparison of
supralingual with rectal temperatures in infants and young children.
Arch Pediatr Adolesc Med 1997;151:551-4 )
14.Chamberlain
JM, Terndrup TE, Alexander DT, et al. Determination of normal
ear temperature with an infrared emisssion detection thermometer.
Ann Emerg Med 1995;25:15-20.)
15. Will
this Digital Thermometer read identically to a BD Glass Thermometer?
http://www.bd.com/
)
16.
Benzinger M. Tympanic thermometry in surgery and anaesthesia.
JAMA 1969;209:1207-11).
17.
Romanovsky AA, Quint PA, Benikova Y, Kiesow LA. A difference
of 5 degrees C between ear and rectal temperatures in a febrile
patient. Am J Emerg Med 1998;125:83-5. ).
18.
Kresch MJ. Axillary temperature as a screening test for fever
in children. J Paediatr 1994;104:596-9.
19. Terndrup
TE, Crofton DJ, Mortelliti AJ, Kelley R, Rajk J. Estimation of
contact tympanic membrane temperature with a noncontact infrared
thermometer. Ann Emerg Med 1997;30:171-5.
20. Childs
C, Harrison R, Hodkinson C. Tympanic membrane temperature as a
measure of core temperature. Arch Dis Child 1999;80:262-6.
21
WWW. Meritcare.com/ Rectal,
ear, oral, and axillary temperature comparison Valley
health online journal
|