XỦ DỤNG STEROID
TRONG NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH (NKHHCT)
Ở TRẺ EM
Bùi An B́nh
Bài này viết ra nhằm
những mục đích sau
đây:
Tŕnh bày v́ sao hiện nay có khuynh hướng
gia tăng sử dụng
steroid ( phổ biến nhất là prednison)
trong bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính ở trẻ em.
Điểm lại
những kinh nghiệm và các nghiên cứu
có sử dụng steroid trong nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính.
Giải thích khuynh hướng gia tăng
xử dụng steroid?
Đề xuất
những ư kiến giải quyết những tồn
tại hiện nay.
Như hàm ư trong đề
tựa, bài viết này chỉ giới hạn
trong vấn đề sử
dụng steroid trong nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính ở trẻ em và tập trung ở hai bệnh
,viêm phổi, và viêm họng –viêm amidan cấp,
v́ vậy sẽ không đề
cấp đến sử dụng steroid trong hen, hay
trong một số bệnh đặc biệt
như bệnh SARS, trong các bệnh nhiễm trùng
khác.
I. Khuynh hướng
gia tăng sử dụng
steroid trong nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
Lư do v́ sao có
sự gia tăng sử dụng?
Thực tế hiện
nay cho thấy, kháng sinh, steroid ( phổ biến là
prednison) được bán một
cách tự do tại các quầy thuốc tây mà
không cần đơn thuốc
của thầy thuốc. Thật vậy, người
bán thuốc tại hiệu thuốc tây có thể
bán thuốc cho người nhà bệnh nhân
theo lời khai của họ mà không cần thấy
mặt bệnh nhân (đa số
là trẻ em). Các loại thuốc được
người bán thuốc bán phổ biến là
kháng sinh, steroid, paracetamol và vitamine. Phần lớn
các trường hợp có ho và sốt đều
được quày thuốc bán thuốc
chính gồm kháng sinh và steroid. Câu hỏi được
đặt ra là hai loại thuốc này phải
chăng đă đem
lại hiệu quả cao khiến chúng được
bán phổ biến tại hầu hết các quầy
thuốc tây?.Trong khi tŕnh độ
của người bán thuốc chỉ là
trung cấp dược? câu trả lời là phải
chăng người bán thuốc
đă học được
kinh nghiệm điều trị của thầy thuốc,
áp dụng nó, thấy có hiệu quả , trở
thày thói quen và công thức hoá nó. Thật vậy,
hiệu quả ( chỉ ở một chừng mực
nào đó mà thôi, mà
tôi sẽ tŕnh bày ở ở phần sau này) của
kháng sinh và steroid trước một trẻ có ho
và sốt, hay viêm họng đă
biến người bán thuốc trở thành thầy
thuốc và việc cho thuốc đă
trở thành một công thức lập đi,
lập lại. Công thức này được
truyền thông từ quày thuốc này sang quầy
thuốc khác từ thành phố ra ngoại ô.
Mức độ
bán thuốc theo công thức đă được
báo động, khiến tại Việt Nam đă
có một số công tŕnh nghiên cứu về t́nh
trạng quày thuốc tây bán kháng sinh và steroid
không có đơn của thầy
thuốc.
Chalker J Ratanawijitrasin,Chuc NT,
Petzold M và Tomson G (1) đă
thực hiện một công tŕnh nghiên cứu có
can thiệp ngẫu nhiên vấn đề
này. Kết quả nghiên cứu đă
được đăng tải
trên tạp chí Soc Sci Med. 2005 Jan;60(1):131-41
với đề tựa:
Hiệu quả của việc nhiều thành phần
can thiệp đối với
thói quen bán thuốc tại các quầy thuốc
tân dược tư nhân tại Việt nam và
Thái Lan.
Trong công tŕnh này các tác giả
đă chọn ngẫu
nhiên 68 quầy thuốc tây tại Hanội và 78 tại
Bangkok Thái Lan. Thái độ
và hành vi của người bán thuốc được
đánh gía bằng 5 người giả vờ mua
thuốc tại mỗi quầy thuốc và mỗi
lần bán thuốc và sự đánh
gía này được
thực hiện một lần đầu tiên,
sau đó một tháng một
lần hay nhiều hơn, sau mỗi lần có can
thiệp. Nội dung của can thiệp bao gồm:
Cán bộ thanh tra y tế gặp gỡ người
bán thuốc, phổ biến các quy định về
bán thuốc, giáo dục trực tiếp mặt
đối mặt tại Hà Nội, và theo
nhóm tại Bangkok; bắt buộc làm báo cáo sử
dụng thuốc tại Hà Nội và tự nguyện
tại Thái Lan. Các can thiệp được
thực hiện 4 tháng một lần và có tất
cả 3 lần can thiệp. Kết quả cho thấy
sự can thiệp đem lại
hiệu quả rơ rệt tại Hà Nội: tại
đây có sự giảm bán
steroid c̣n 29% so với 62% lúc đầu
và kháng sinh liều thấp 69% so với 90%
lúc đầu. Số liệu
báo cáo về tiến bộ của quầy thuốc
về bán steroid là 17% so với 57% lúc đầu
;kháng sinh là 71% so với 95% lúc đầu.
Tại Bangkok Thái Lan
nghiên cứu cho thấy chỉ có tiến bộ về
bán steroid, 25% so với 44% lúc đầu.
Kết luận của nghiên
cứu ghi nhận cho rằng, bằng nhiều can
thiệp khác nhau đă
có hiệu quả rơ rệt về hành vi của
những người bán thuốc, và hiệu quả
này phụ thuộc vào phương pháp thực hiện
sự can thiệp.
Một nghiên cứu có can
thiệp khác cũng được
thực hiện tại Hà Nội ( 2 ) để
đánh gía sự tiến bộ thói quen bán thuốc
không theo đơn của các quầy thuốc tư
nhân cho các bệnh NKHHCT và bệnh lây bằng
đường sinh dục
sau hai năm được can thiệp bằng nhiều
biện pháp khác nhau.
Người ta chọn ngẫu
nhiên 34 cặp quầy thuốc tân dược
trong số 641 quầy thuốc tân dược
tư nhân tại Hà Nội thành hai nhóm, nhóm có
can thiệp và nhóm chứng.
Ba biện pháp can thiệp để
khắc phục thói quen bán thuốc kháng sinh và
steroid không có đơn gồm:
Bắt buộc chấp hành các qui định
bán thuốc, giáo dục và kiểm tra. Sự
can thiệp được
áp dụng cho 4 hành vi sau: Bán thuốc cho NKHHC
nhẹ, bán thuốc cho bệnh lây qua đường
sinh dục, bán thuốc prednison đơn thuần
và bán kháng sinh cephalexin dùng ngắn ngày. Các
thói quen bán thuốc được
đánh gía bằng phương pháp giả người
mua thuốc.
Kết quả cho thấy đă
có sự cải thiện trong nhóm can thiệp so với
nhóm chứng trong 4 hành vi ( P<0.05). Đối
với bệnh NKHHCT cho thấy viếc bán kháng
sinh đă giảm (P<0.02). Đối
với bệnh lây qua đường sinh dục,
việc quầy thuốc khuyên đến
khám bác sỹ và chỉ bán thuốc theo đơn
gia tăng ( P<0.01).Bán prednisone và cephalexin
không có đơn cũng giảm
(P<0.01). Bán thuốc với yêu cầu phải
có đơn gia tăng
(P<0.01). Kết luận của nghiên cứu
cho rằng các biện pháp can thiệp đă
có hiệu quả về hành vi bán thuốc không
có đơn của các quầy
thuốc tân dược.
Đối
với các thầy thuốc tư nhân, một nghiên
cứu được thực
hiện tại Ấn Độ ( 6 ) dựa trên
phỏng vấn 113 bác sỹ tư nhân để
t́m hiểu xem các thầy thuốc chẩn đoán
và xử bệnh nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính đặc biệt
là bệnh viêm phổi ở trẻ em. Kết
quả cho thấy 68/113 bác sỹ tư nhân đă
không đếm tần số
thở trong NHKHHCT; chỉ có 19.5% trả lời
đúng tần số thở b́nh thường
của trẻ dưới hai tháng tuổi, và 15%
thầy thuốc trả lời đúng
tần só thở của trẻ từ 2-5 tuổi.
Đối với ho, cảm, có 87 (77%) thầy thuốc
cho kháng sinh, 53 (46%) cho kháng histamin và 49 (43,3%)
cho các loại thuốc ho nước. Đối
với viêm phổi, 108 (96,4%) thầy thuốc
cho kháng sinh và 31 ( 17,7%) cho steroid cùng với các thuốc
khác.
Việc sử dụng kháng sinh
cùng với steroid trong NKHHCT phải chăng
đă đem lại hiệu
quả cao để khiến sự dụng nó trở
thành phổ biến và được
công thức hoá? Sự thật có như vậy không?
Phần tŕnh bày sau đây,
dựa trên kinh nghiệm cá nhân và những
nghiên cứu là những chứng cứ có thể
giúp trả lời câu hỏi trên đây.
II. Kinh
nghiệm lâm sàng và các nghiên cứu có sử dụng
steroid trong nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
II.1 Steroid có tác dụng giảm sốt
và đau trong viêm họng
–viêm amidan.
Tôi tŕnh bày ở đây
kinh nghiệm bản thân và nghiên cứu của
các tác giả về khả năng
steroid có tác dụng làm giảm đau
và sốt trong viêm họng-viêm amidan
1.1 Kinh nghiệm bản thân.
Kinh nghiệm bản thân cho thấy
một số ít trường hợp
viêm họng, viêm amidan cấp tính ( pharyngo-tonsillitis
) khi được chẩn
đoán và xử trí như nhiễm liên cầu
khuẩn nhóm A be-ta tan máu ( GABHS: Group A Beta hemolytic
Stretococcus) chỉ dựa trên lâm sàng (<15 tuổi,
sốt cao, họng đỏ
và có mủ, không ho,có hạch trước
cổ sưng đau, công thức
máu có bạch cầu Bc đa nhân cao, không làm
GABHS rapid test được
v́ không có test) không có đáp
ứng với kháng sinh và thuốc giảm
sốt và đau như
acetaminophen sau vài ngày điều
trị ( thường là hai ngày), bệnh
nhân vẫn c̣n sốt cao, đau
họng và mệt mỏi. Khi cho những bệnh
nhân này một liều steroid ( prednisone), bệnh đáp
ứng rất nhanh: giảm sốt, giảm
đau và toàn trạng cải thiện trong
vài giờ sau khi uống.
Sự tác dụng nhanh và có hiệu
quả của steroid đă
khiến cho bản thân thầy thuốc muốn
cho một cách thường qui steroid cho mọi
trường hợp chẩn đoán
viêm họng –viêm amidan cấp tính (GABHS) để
đem lại hiệu quả nhanh chóng cho bệnh
nhân. Đây chính là điểm
quan trọng, đă khiến cho việc kê đơn
thuốc hay cho thuốc steroid ngoài kháng sinh
của các thầy thuốc khi chẩn đoán
viêm họng cấp trở thành phổ biến
và cũng chính cách xử trí này đă
một phần năo cắt nghĩa v́ sao tỉ lệ
bán thuốc kháng sinh và steroid không có kê đơn
cao và không kiểm soát được
tại các quầy thuốc tân dược.
Để giúp
chẩn đoán đúng đắn nhiễm GABHS có
thể tham khảo bảng chẩn đoán GABHS của
Mark H.Ebell (4) hay sơ đồ của Partha Sarathy
Bảng chẩn đoán
và xử trí viêm họng viêm amidan của
Mark.H.Ebell
Dấu chứng |
Điểm |
Các dấu chứng khác |
Gợi ư chẩn đoán |
Sốt > 38.5C |
1 |
Có ban dạng hồng ban, ṿm hầu
có điểm xuất
huyết |
Gợi ư nhiễm GBHS |
Không có ho |
1 |
Có tiền sử tiếp xúc với
người bị GBHS
Đau < 3 ng ày |
Khả năng
nhiễm GBHS |
Hạch trước cổ đau |
1 |
Đau đầu, cứng cổ,
xuất huyết da |
Viêm màng năo |
Amidan đỏ
và có mủ hay không có mủ |
1 |
Hạch sau tai, tuổi thiếu
niên |
Nhiễm Mononucleosis |
Tuổi |
<15 tuổi |
1 |
15 –45 tuổi |
0 |
>45 tuổi |
-1 |
Tính điểm
0 đến
–1 ( chỉ có 2% có nguy cơ bị GBHS
1đến
3 điểm
4đến
5 điểm
|
Loại trừ GBHS
Làm tét nhanh, và cho điều
trị
Chẩn đoán
GBHS hầu như chắc chắn; cho điều
trị ngay |
Nguồn gốc: Ebell MH, Smith MA, Barry
HC, Ives K, Carey M. The rational clinical examination. Does this
patient have strep throat? JAMA 2000;284:2912-8
Sơ đồ
Partha Sarthy xử trí viêm họng-viêm amidan.
Điểm cần
lưu ư là cả Mark.B Ebell và Partha Sarathy,
không đề
cập đến xử dụng steroid trong hướng
dẫn điều trị.
1.2 Các nghiên cứu ghi nhận steroid
có tác dụng giảm đau
và sốt trong viêm họng – viêm amidan.
Để t́m
hiểu mức độ sử
dụng steroid trong điều trị viêm họng-viêm
amidan, tôi sử dụng phương pháp phân tích đa
nguồn. Dựa vào Web site: www.pubmed.com tôi
t́m có bao nhiêu nghiên cứu sử dụng steroid
cho viêm họng-viêm amidan. Với tiêu đề
t́m trên pubmed : steroid use in pharyngo-tonsillitis
chúng tôi có được
1321 nghiên cứu có liên quan đến
viêm họng và steroid. Trong 1321 nghiên cứu
này chúng tôi t́m được
17 nghiên cứu có can thiệp ngẫu nhiên,
có kết quả cho rằng steroid ( dexamethasone )
làm giảm đau và sốt
nhanh hơn so với nhóm chứng và có tác dụng
tốt trong viêm họng-viêm amidan trung b́nh và nặng,
và các trường hợp trướcvà sau cắt
amidan.
Có 13 nghiên cứu thực
hiện từ năm 2000-2005
và 4 nghiên cứu từ 1991-1998.
Trong số 1230
nghiên cứu c̣n lại vẫn điều
trị viêm họng-viêm amidan của GAHS bằng
kháng sinh và không có steroid.
Như vậy, qua nghiên cứu và kinh
nghiệm, tôi cho rằng steroid không phải là thuốc
được
khuyến cáo dùng một cách thường qui
cho điều trị viêm
họng viêm amidan cấp.
I.2 Steroid có ích lợi
trên bệnh viêm phổi ở trẻ em?
Sự lạm dụng
sử dụng steroid trong các trường hợp
viêm phổi theo nhận đinh
hiện nay của tôi là khá phổ biến.
Lư do của sự sử dụng steroid phổ biến
có thể có những nguyên nhân sau đây:
Xử trí triệu chứng ṣ sè
trong viêm phổi như là biểu hiện của
hen.
Xem ṣ sè như là cơn kịch
phát của hen do viêm phổi.
Dựa vào kinh nghiệm, xử dụng
steroid cho thấy thành công trong một số trường
hợp viêm phổi nặng hay kéo dài.
Trong bài này, tôi không t́m hiểu
sử dụng steroid cho điều
trị ṣ sè, mà chỉ t́m hiểu lợi
ích của steroid trong viêm phổi. Thật vậy,
thực tế cho thấy, nếu chỉ dựa
trên lâm sàng và nếu thiếu các phương tiện
chẩn đoán cận lâm sàng
như x quang, các xét nghiệm miễn dịch, khó
có thể xác định ṣ
sè là một triệu chứng của viêm phổi,
hay ṣ sè là một cơn hen kịch phát xảy ra
trong viêm phổi, hay ṣ sè là một biều hiện
cơn hen đầu tiên
của viêm phổi. Chính v́ vậy mà chúng ta thường
sử dụng steroid để
điều trị ṣ sè như là một biểu
hiện của hen, và trong điều
trị, có thể chúng ta thường tự nhủ
cứ xem trẻ như bị hen, và chính v́
vậy mà việc cho steroid trong viêm phổi có ṣ
sè trở thành một thói quen, hay một công thức,
và là nguồn gốc của sự gia tăng
việc bán thuốc kháng sinh và steroid của
các quầy thuốc tân dược.
Lợi ích của steroid trong điều
trị viêm phổi được
ghi nhận trong điều trị kinh nghiệm một
só trường hợp viêm phổi.Thật vậy,
có một số ít trường hợp viêm phổi
trẻ em, được chẩn
đoán dựa trên lâm sàng: ho, tần số
thở tăng, x-quang và
công thức bạch cầu không đáp
ứng với điều trị kháng sinh phối
hợp cho 3 loại vi khuẩn phổ biến của
trẻ em. Tuy vậy khi chỉ cho một liều
ngắn hạn steroid, bệnh đáp ứng rất
nhanh chóng bằng nhiệt độ giảm, bớt
ho, khó thở và toàn trạng cải thiện.
Tuy ít gặp, song xử trí cho steroid trong những
trường hợp tương tự sẽ có thể
trở thành thói quen, và dễ trở thành thường
qui.
Câu hỏi đặt
ra là sử dụng steroid cho bệnh nhi bị
viêm phổi trong những trường hợp đặc
biệt có hợp lư không? Các sách hướng dẫn
xử trí viêm phổi của WHO và của
các Hội phổi quốc tế không có khuyến
cáo sử dụng steroid cho các trường hợp
viêm phổi.
Để
trả lời câu hỏi này, tôi đă
sử dụng phương pháp phân tích đa
nguồn xem có bao nhiêu nghiên cứu đă
sử dụng steroid trong viêm phổi do vi khuẩn.
Dựa vào website www.pubmed.com và với tiêu đề
t́m kiếm steroid use in bacterial pneumonia,
kết quả t́m được
185 nghiên cứu. Trong 185 nghiên cứu có 27
nghiên cứu viêm phổi có sử dụng steroid.
Tất cả 27 trường hợp này là những
trường hợp viêm phổi do Mycoplasma có kèm
theo các biến chứng (8,9): Suy hô hấp nặng,
viêm tiểu phế quản, viêm tiểu phế quản
tắt nghẽn, viêm tuỷ cắt ngang, viêm rễ
thần kinh, viêm đa cơ,
cơn hen đầu tiên,giảm tiểu cầu,
giảm bạch cầu đa
nhân,huyết tán,HC Stevens Johnson. Trong 27 trường
hợp có 3 trường hợp viêm phổi
có biến chứng viêm tiểu phế quản cấp
và một trường hợp viêm tiểu phế
quản tắt nghẽn, là những trường
hợp có dấu hiệu ṣ sè.
Với tiêu đề
t́m kiếm trên, không thấy có nghiên cứu
nào nói đến sử dụng
steroid trong viêm phổi do phế cầu. Để
kiểm tra, tôi sử dụng tiêu đề
t́m kiếm: steroid use in pneumococal pneumonia,
và t́m được 29 nghiên
cứu trong đó chỉ có
1 trường hợp đề cập đến
sử dụng steroid trong viêm phổi do phế
cầu có văn khuẩn huyết và giảm bạch
cầu đa nhân (11)
Qua các nghiên cứu, Mycoplasma là
một tác nhân gây nhiều biến chứng tại
phổi cũng như ngoài phổi. Ở tại
phổi Mycoplasma gây gia tăng
đáp ứng miễn dịch qua trong tế bào
(2)
Sự gia tăng đáp
ứng miễn dịch là nguồn gốc của
sự tổn thương trầm trọng tại
phổi của một số trường hợp.
Các tổn thương này đáp
ứng rất nhanh với điều trị
steroid (3). Ngoài viêm phổi, Mycoplasma c̣n
gây tổn thương ở các cơ quan khác như
tiêu hoá, cơ xương, thần kinh, tim, máu và
các tổn thương này được
ghi nhận đáp ứng với steroid.
Mycoplasma c̣n được
xem là tác nhân dọn đường
về mặt giải phẩu, sinh lư và miễn
dịch cho các tác nhân vi rút và vi khuẩn khác xâm
nhập và gây tổn thương tế bào. Thật
vậy,một số bệnh nhân, trong và ngay sau
khi nhiễm Mycoplasma đă
bị nhiễm thêm vi khuẩn hay vi rút nặng.
Các kết quả nghiên cho thấy
một điều là
viêm phổi do mycoplasma là một loại tác nhân
gây bệnh với nhiều h́nh thái tổn thương
khác nhau tại phổi hay ngoài phổi và là loại
gây rối loạn miễn dịch và cần đến
sử dụng steroid hơn các tác nhân gây viêm
phổi phổ biến khác như phế cầu. Điều
này đă giải
thích v́ sao steroid lại có hiệu quả trong một
số trường hợp viêm phổi. Phải chăng
những trường hợp viêm phổi cần
đến steroid là những
trường hợp viêm phổi do Mycoplasma. Tỷ
lệ viêm phổi do Mycoplasma hiện nay được
ghi nhận đang gia tăng ở trẻ em
Với kinh nghiệm và kết
quả t́m kiếm các nghiên cứu tôi cho rằng
steroid không phải là thuốc sử dụng
thường qui cho viêm phổi có ṣ sè hay
viêm phổi có diễn biến đặc
biệt .
III. T́m hiểu v́
sao có một số trẻ phải cần có
steroid trong điều trị
NKHHCT trong khi các trẻ khác lại không cần.
Kinh nghiệm, cũng những
nghiên cứu t́m được,
cho thấy chỉ có một số ít trẻ cần
thiết phải cho steroid. Hiệu quả sau khi cho
steroid rất rơ ràng và nhanh: Bệnh nhân giảm
sốt, giảm đau và
toàn trạng cải thiện rơ ràng.
Để
giải thích, sự cải thiện này, thật
cần thiết phải nhắc lại cơ chế
tác dụng của steroid và cớ chế sốt
hiện nay.
III.1 Cơ chế của steroid chống
viêm.
Glucocorticoid là một chất
có nhiều hoạt động
chống viêm quan trọng. Các hoạt động
chống viêm bao gồm: ức chế cytokine
và một số chất trung gian, ức chế chất
chuyển hoá arachidonic acid, tác dụng của PAF (
platelet activating factor), giảm tính thấm mao mạch,
có tác dụng đồng hiệp
với các chất trung gian như catecholamine và
các phân tử giống hoc môn nội sinh và điều
hoà hệ thống men trong viêm. Tác dụng
ức chế cytokine làm giảm sốt (10).
III.2 Cơ chế của sốt
Sốt được
định nghĩa như là một sự
gia tăng bất thường
nhiệt độ lớn hơn.
Ở mức độ
tế bào, sốt được
khởi phát khi tác nhân nhiễm trùng như
vi khuẩn, vi rút ( c̣n gọi là các chất sinh
nhiệt ngoại sinh) xâm nhập vào các tế
bào cơ thể ( đơn
bào, đại thực
bào, tế bào nội mạc và các tế
bào khác ). Sự xâm nhập này phát động
phóng thích một số protein từ các tế bào
như cytokine; TNF a ( tumornecrosis
factor ), IFN (interferon g ) . Các
chất này là những chất sinh nhiệt nội
sinh, và chúng cũng được
phóng thích khi tế bào bị tổn thương
trong các chấn thương.
Các chất sinh nhiệt nội
sinh theo đường máu
đến hạ khâu, tại đây chúng tác dụng
trực tiếp hay qua trung gian chất prostaglandin
để làm thay đổi
nhiệt độ điểm ( b́nh thường
là 37oC). Do nhiệt độ
điểm tại hạ khâu đă được
chỉnh lại cao hơn b́nh thường nên
khi máu chảy đến hạ
khâu, được hạ khâu cho là thấp
hơn nhiệt độ
điểm và phát lệnh cơ chế giữ
nhiệt và sinh nhiệt hoạt động.
Sốt được sinh ra từ đó.
Một khám phá mới mẻ về
cytokine, người ta phát hiện thêm, cytokine là một
chất vừa gây sốt nội sinh và một
chất gây giảm sốt (3 ). Chất
cytokine interleukin 1(IL-1),cytokine interleukin 6(IL-6) và TNF
là những chất gây sốt nội sinh, ngược
lại chất đối kháng
cảm thụ cytokine interleukin ( IL-1ra) và
interleukin 10 (IL-10) là những chất giảm sốt.
Như vậy sốt c̣n được
hiểu thêm là một sự cân bằng giữa
cytokine gây sốt và cytokine giảm sốt và các
hoc mone khác.
Đối
với các chất giảm sốt, ngoài
acetaminophen là chất được
dùng phổ biến gây hạ sốt bằng
ức chế tổng hợp prostaglandine, người
ta c̣n đề cập đến
2 cơ chế giảm sốt nội sinh khác nữa
. Đó là alpha MSH, Arginine vasopressin,
glucocorticoid , cytokine IL-10 (10). Gần đây,
người ta phát hiện thêm chất
cytochrome P-450,(6) một chất của đường
chuyển hoá arachidonic acid có vai tṛ quan trọng
trong giảm sốt và chống viêm. Các bằng chứng
cho thấy khi cho chất kích thích P-450 th́ sốt
giảm (bằng bezafibrate và dehydroepiandrosterone) ,
ức chế P-450, sốt gia tăng,
cho chất P-450 làm giảm sốt.
III.3 Giả thuyết về tác dụng
của steroid giảm sốt và đau
trong viêm họng-viêm amidan cũng như cải
thiện các trựng hợp viêm phổi đề
kháng với phắc đồ điều trị
viêm phổi thông thường.
Phần lớn các trường
hợp viêm họng-viêm amidan trẻ em cũng
như các trường hợp viêm phổi, đều
đáp ứng với điều trị theo phắc
đồ thông thường, tuy nhiên, có một
số trẻ không đáp
ứng với phắc đồ này, trái lại,
đáp ứng ngay với một
liều steroid. Tôi gọi những trường hợp
này là những trường hợp có "
tồn đọng cytokine”trong
cơ thể .
Những trẻ không đáp
ứng là những trẻ không đủ
khả năng hoá giải cytokine trong cơ thể
là nguồn gốc gây sốt và đau
và các triệu chứng của viêm. Phải
chăng sự tồn động
càng lớn th́ sốt càng cao? Sự tồn động
của cytokine có thể có những nguyên
nhân sau đây:
Có sự mất cân đối
giữa cytokine gây sốt và cytokine giảm
sốt và ACTH nội sinh khiến gây tồn đọng
cytokine. V́ sao có sự tồn đọng
của cytokine gây sốt hay sự thiếu
cytokine giảm sốt và ACTH đă
đưa đến sự
mất cân đối. Sự mất cân đối
này phải chăng có
nguyên nhân rối loạn về đáp
ứng miễn dịch.
Sự dung giải vi khuẩn với
tác dụng của kháng sinh đă
phóng thích một lượng lớn độc
tố, gây tăng cytokine quá mức khiến cơ
thể không đủ khả năng hoá giải
được. Hiện tượng này cũng
giống như các biến chứng thần kinh
trong viêm màn năo mủ.
Một số tác nhân gây bệnh đặc
biệt là GABSH và mycoplasma có thể là những
tác nhân gây tồn đọng
cytokines nhiều hơn các tác nhân khác.
Cơ thể thiếu axid béo chuổi
dài không no DHA, hay sự không cân đối
giữa DHA và ARA ( Về mặt miễn dịch,
DHA là acid béo chống viêm, trong khi ARA là acid béo
chuỗi dài không no gây viêm)
Giảm ACTH máu do sử dụng
các thuốc ức chế miễn dịch trước
đó.
Dựa vào giả thuyết "tồn
đọng cytokine” mà
glucocorticoid, một chất đối
kháng với cytokine đă làm cải thiện
t́nh trạng bệnh lư trong đó
giảm sốt là một trong những sự
cải thiện mà acetaminophen không làm được.
Vị trí hoạt động và các hoạt động
chống viêm khác của acetaminophen không có hiệu
quả bằng steroid và đấy
là lư do v́ sao steroid tỏ ra có hiệu quả
nhanh.
IV. Kết luận và đề
xuất hướng giải quyết
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính là bệnh đứng hàng
đầu trong các bệnh
nhiễm trùng ở trẻ em trong đó
viêm phổi và viêm họng cấp chiếm tỷ
lệ cao. Các bệnh này nằm trong chương
tŕnh pḥng và chống quốc gia và đă
có sách hướng dẫn cụ thể. Tuy vậy,
thực tế cho thấy cách xử trí đă
một phần nào đi ra
ngoài các khuyến cáo của sách hướng
dẫn. Một số trường hợp đă
được xử trí
không phù hợp với sách hướng dẫn,
trong đó có việc xử
trí steroid trong viêm phổi và viêm họng –viêm
amidan. Một số nhỏ các trường hợp
này đă được
ghi nhận thành công, qua kinh nghiệm và qua
các nghiên cứu.
Tuy nhiên, điều
quan tâm hơn cả là các trường hợp
thành công này đă trở
thành các trựng hợp mẫu để
được áp dụng rộng răi khiến
cho xử trí NKHHCT không c̣n theo khuyến cáo của
sách hướng dẫn và việc bán thuốc
steroid đă trở
thành phổ biến tại các quầy thuốc
tân dược.
Tôi cho rằng, có thể những
nhà soạn các sách hưỡng dẫn NKHHCT đă
ghi nhận những trường hợp qua kinh nghiệm
cũng như qua kết quả của các nghiên cứu,
nhưng người ta đă
không đưa chúng vào
sánh hướng dẫn, v́ sợ rằng sự xử
dụng steroid cho những trường hợp cá
biệt sẽ trở thành phổ biến và sẽ
đem lại những hậu
quả của tác dụng phụ của steroid trên
trẻ em mà chúng ta ai cũng đă
biết gồm:
Tác dụng sớm ngay sau khi điều
trị:
Mất ngủ
Thay đổi
t́nh cảm
Thèm ăn và
tăng cân
Ở những đối
tượng có yếu tố nguy cơ
Cao huyết áp
Tiểu đường,
Loét dạ dày tá tràng,
Mụn trứng cá
Sử dụng kéo dài và không đúng
cách.
HC giả Cushing
Ức chế trục hạ
khâu-tuyến yên và thượng thận.
Dễ bị nhiễm trùng
Hoại tử xương
Bệnh cơ
Làm chậm lành vết thương.
Tác dụng âm thầm và muộn.
Loăng xương,
Châm phát triển thể chất
Gan ứ mỡ.
Hiếm gặp nhưng xuất hiện
bất ngờ
Tâm thần
Giả u năo
Glaucoma
Viêm tụy
Tuy vậy, trong thực tế, một
vài trường hợp cá biệt lại đ̣i
hỏi chúng ta phải xử trí theo kinh nghiệm.
Điều quan trọng là
xử trí như thế nào cho phù hợp. Sau đây
là những ư kiến cá nhân của tôi:
Đối
với viêm họng –viêm amidan:
không cho ngay steroid cho tất cả các trường
hợp chẩn đoán GABHS v́
nhũng lư do sau đây:
Do không có tét chẩn đoán
nhanh GABHS nên không thể loại trừ
các nguyên nhân khác gây viêm họng-viêm amidan như
mycoplasma, hay vi rút như adenovirus, coranovirus,
cocxackie virus, influenza virus.
Không phải tất cả các trường
hợp chẩn đoán
GABHS không có đáp ứng với điều
trị kháng sinh và thuốc giảm sốt
và đau sau hai ngày điều
trị. Đa số các trường hợp
đều có đáp ứng tốt và chỉ
có một số ít trường hợp ( khoảng
5-10 % ) chậm đáp
ứng và cần phải có steroid để
"hoá giải cytokines". Đây
là thuật ngữ mà chúng tôi sử dụng
để giải thích cho
người nhà bệnh nhân, lư do v́ sao trẻ
chậm đáp ứng với
điều trị và phải cần cho
steroid. Kinh nghiệm cũng cho thấy sốt càng
cao, gợi ư có sự tồn đọng
cytokine càng lớn. Steroid chỉ nên cho
trong 2-3 ngày.
Tự kiềm chế không thực
hiện một thói quen có ảnh hưởng đến
việc dùng thuốc không hợp lư và nhất
là không để các quầy
thuốc áp dụng bán thuốc kháng sinh và
steroid không theo đơn
cho các trường hợp viêm họng-amidan.
Đối
với viêm phổi có diến biến đặc
biệt: Trong trường
hợp viêm phổi không có đáp
ứng với điều trị theo sách hướng
dẫn, chỉ cho steroid sau khi đă loại
trừ được các
nguyên nhân khác :
Viêm phổi do vi rút
Viêm phổi đề
kháng thuốc.
Viêm phổi nặng và kháng sinh đang
sử dụng là kháng sinh bằng đường
uống
Nhiễm trùng phổi do nhiều
loại vi khuẩn gây bệnh ( chú ư đến
Mycoplasma là tác nhân gây bệnh với nhiều
biến chứng đặc
biệt).
Sốt do kháng sinh.
Tác dụng phụ của thuốc.
Sự tuân tuân thủ điều
trị của gia đ́nh bệnh nhân.
Trên đây
là những ư kiến có tính cách cá nhân, dựa
trên kinh nghiệm và tham khảo các nghiên cứu.
Những ư kiến này cần được
kiểm tra và xác minh bằng các nghiên cứu.
Tuy vậy trong thực hành, thái độ
của người thầy thuốc là phải
cân nhắc, không để
chủ quan vượt trên lư trí trước
khi xử trí steroid đối
với những trường hợp đặc biệt.
Tham khảo và cập nhật thông tin là cần
thiết để tránh xử
trí mang tính thường qui.
Đối
với các quầy thuốc tân dược, ngành
y tế phải t́m hiểu, kiểm tra và đánh
gía các qui định về bán thuốc bằng
các biện pháp hầu tránh sự bán thuốc
không có kê đơn.
Tài liệu tham khảo
(1) Chalker J, Ratanawijitrasin S,
Chuc NT, Petzold M, Tomson G.Effectiveness of a
multi-component intervention on dispensing practices at private
pharmacies in Vietnam and Thailand--a randomized controlled trial.
Soc Sci Med. 2005 Jan;60(1):131-41
(2)Chuc NT, Larsson M, Do NT, Diwan
VK, Tomson GB, Falkenberg T
Improving private pharmacy practice: a
multi-intervention experiment in Hanoi, Vietnam.
J Clin Epidemiol. 2002 Nov;55(11):1148-55
(3) Conti B, Tabarean I, Andrei C,
Bartfai T; Cytokines and fever. Front Biosci. 2004 May
1;9:1433-49
(4) Ebell MH, Smith MA, Barry HC, Ives K,
Carey M. The rational clinical examination. Does this patient
have strep throat? JAMA 2000;284:2912-8
( 5)Kozak W, Kluger MJ, Tesfaigzi J,
Kozak A, Mayfield KP, Wachulec M, Dokladny K. Molecular
mechanisms of fever and endogenous antipyresis.Ann N Y Acad Sci.
2000;917:121-34.
(6) Kozak W, Kluger MJ, Kozak A,
Wachulec M, Dokladny K. Role of cytochrome P-450 in
endogenous antipyresis. Am J Physiol Regul Integr Comp Physiol.
2000 Aug;279(2):R455-60.
(7)Kumar D.Recognition and management of
ARI--a KAP study on private medical practitioners. J&K
Health Services, Jammu, India.
( 8 ) Nihon Kokyuki Gakkai.Fulminant
Mycoplasma pneumoniae pneumonia resulting in respiratory failure and
a prolonged pulmonary lesion Zasshi. 1998 Apr;36(4):374-80
(9)) Radisic M, Torn A, Gutierrez P,
Defranchi HA, Pardo P.) Severe acute lung injury caused by
Mycoplasma pneumoniae: potential role for steroid pulses in
treatment. Clin Infect Dis. 2000 Dec;31(6):1507-11
(10) Roth J, Zeisberger E, Vybiral S,
Jansky L. Endogenous antipyretics: neuropeptides and
glucocorticoids.Front Biosci. 2004 Jan 1;9:816-26.
(11) Yokoyama T, Sakamoto T, Shida N,
Shimada T, Kaku N, Aizawa H, Oizumi K.) Bacteremic and
leukopenic pneumococcal pneumonia: successful treatment with
antibiotics, pulse steroid, and continuous hemodiafiltration. J
Infect Chemother. 2002 Sep;8(3):247-51.
MECHANISMS OF ANTIPYRESIS
Nonsteroidal antipyretic agents inhibit fever by blocking
the synthesis of prostaglandins within the endothelium of the
hypothalamic vasculature, which is accomplished through inhibition
of cyclooxygenase. However, they do not diminish the elaboration of
endogenous pyrogens and may actually increase the production of some
of these proteins (notably TNF- α).
Nonsteroidal antipyretics do not produce poikilothermic effects;
they can reduce fever but cannot lower body temperature beneath its
normal set-point. It may reasonably be inferred
from this observation that prostaglandins do not normally act to
maintain core body temperature.
Glucocorticoid hormones directly impede the production of
endogenous pyrogens by mononuclear phagocytic cells. Cytokine
synthesis is inhibited at more than one level and has been studied
most thoroughly in the case of TNF- α
biosynthesis. Both transcription of the TNF-α gene and
translation of TNF-α mRNA are down-regulated by glucocorticoid
agonists.
The cyclic (often circadian) course followed in many
febrile illnesses has not been fully explained. In some instances
(e.g., in malaria), a clear relationship to the life cycle of the
pathogen has been demonstrated. Cyclicity may, in other cases,
follow from the fact that cells constituting the chief source of
endogenous pyrogens are rendered refractory by continued exposure to
the stimulatory agent and must recover or be replaced.
|