V́
ṭ ṃ, muốn biết sự việc chia cắt đất
đai cho Trung Quốc, diễn biến ra sao nên vừa ra
khỏi chùa Tam Thanh và lầu Vọng Thị, chúng tôi
hỏi đường đi Ải Nam Quan. Một cụ ǵa tóc
râu bạc trắng, hứng thú chỉ đường
lại c̣n ngỏ ư xin đi theo. Bác tài xế c̣n chần
chừ e ngại nhưng tôi thấy ông cụ có cốt cách
tiên phong đạo cốt nên nhận lời cho cụ
đi theo.
Động
Tam Thanh thật hoang vắng, mặc
dù đă có những công tŕnh xây dựng quy mô nhưng lúc
chúng tôi tới thăm, cảnh chùa vắng ngắt,
những cây nhang đă cháy tàn tới cuống vẫn không
được thay thế, những chiếc loa phóng thanh
cứ măi lải nhải những lời giới thiệu
về cảnh chùa được thu băng sẵn.
Mấy bà cụ ǵa, có lẽ là người canh giữ chùa,
đang ngồi bàn tán inh ỏi, thỉnh thoảng phát ra
một vài lời chửi thề thô lỗ. Vắng khách,
mấy bà nói chuyện liên thiên, hết chuyệïn bánh trái
đến nói hành nói tỏi, người này kẻ
nọ. Những âm thanh chua chát, vang động khắp
những hang động.
Chúng
tôi vừa bườc ra khỏi cửa hang, định leo
lên lầu Vọng Thị th́ một bà lăo bật dậy,
đưa chiếc thùng tiền dâng cúng đến trước
mặt chúng tôi, bác tài xế biết ư, bỏ vào trong
đó tờ 5 ngàn, bà lăo liếc qua tôi nhưng vừa
thấy bà ta ăn tục nói phét trước cảnh chùa
nên tôi phớt tỉnh bỏ đi. Bà ta lầu bầu
điều ǵ , tôi nghe không rơ.
Từ
lầu Vọng Thị, nh́n xa xa, trên làn mây bạc vắt
ngang đỉnh núi, một cụm đá được
tạc, đẽo khá công phu, đứng chơ vơ như
cảnh mẹ bồng con đang ngóng đợi chồng
về. Tôi kéo ống kính lại gần, mới hay
rằng đây không phải là một tượng đá
với h́nh thù thiên nhiên mà được tạc đẽo
thành h́nh thù rơ ràng. Sau đó, ông cụ đi theo kể
cho biết là trước đây, bức tượng nàng
Tô Thị là một ṿm đá, có h́nh thù tự nhiên mà có
nhưng bọn khai thác đá đă phá sập và mới
đây, người ta thay vào bằng một pho tượng
đá đẽo.
Bên
kia vách đá, một bảng gỗ sơn xanh chữ
trắng:
Đồng
Đăng có phố Kỳ Lừa
Có
nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai
lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc
công bố mẹ sinh thành ra em.
Ông
cụ đi theo chúng tôi có vẻ nỏ chuyện và
biết nhiều. Cụ tên là Tiên, bộï đội hưu
viên. Cụ tham gia kháng chiến từ thời Pháp và quân
hàm cuối cùng của cụ là trung tá, trung đoàn trưởng
hậu cần của sư đoàn 309. Nay về hưu và
chỉ có một người con trai duy nhất, nay cũng
đă ngoài 50 nên cụ ung dung rày đây mai đó. Có
tiền th́ đi ô tô, không có tiền th́ đi xe hỏa.
Nhiều lần cụ nói với tôi rằng:
-
Cái thân lính tráng nó không ở yên được, ông
ạ! Lương hưu có là bao, mỗi tháng ǵa 400 ngàn
nhưng vợ chồng thằng con chu cấp thêm nên
thỉnh thoảng đi thăm nơi này, nơi nọ cho
khuây khỏa cái tuổi ǵa.
-
Thế cụ có đi Lạng Sơn bao giờ chưa?
-
Lăo có đến đây một lần vào năm 1978, lúc
đó đường xá xa xôi bết bát lắm chứ
đâu có đường cao tốc như ngày nay.
-
Thế cụ có nghe tin ǵ liên quan tới việc chia
cắt đất không?
-
Ai chia cắt? Lăo có nghe ǵ đâu!
Thấy
ông cụ có vẻ thật thà và có lẽ ông cụ cũng
chẳng hề nghe tin tức ǵ về việc này nên tôi
tảng lờ sang chuyện khác.
Chúng
tôi rời Lạng Sơn được chừng vài cây
số th́ xe bị kẹt cứng ngắc không sao có
thể đi được. Tiến thối lưỡng
nan v́ phía đàng sau cũng c̣n nhiều chiếc xe tải
ùn ùn kéo tới. Hỏi ra mới biết hàng ngàn xe
chở rau, dưa c̣n đang kẹt phía trước.
Mấy bác tài kể cho chúng tôi biết rằng từ hai
hôm nay, tất cả các xe chở rau, qủa qua cổng biên
giới Tân Thanh bị ách lại v́ chính sách kiểm
dịch và nhập khẩu của "nước
bạn" thay đổi đột ngột, có người
th́ lại nói rằng năm nay nước bạn
được mùa dưa nên "bạn" đă hạn
chế hạn ngạch nhập khẩu dưa hấu
từ Việt nam để ưu tiên cho dưa hấu
nội địa…Tôi thắc mắc không hiểu v́ sao xe
cộ bị ách tắc như vậy mà công an, kiểm soát
cầu đường lại cứ để xe đi
lại như không có chuyện ǵ xày ra. Tôi có hỏi bác
tài cũng vừa mới đến. Bác mở lời
chửi bới um tùm rồi như mất b́nh tĩnh sao
đó, bác bóp c̣i xe, nghe inh tai, nhức óc.
V́ là xe nhỏ nên chúng tôi cũng
t́m cách lấn lách để có thể tới được
chợ Đồng Đăng. Có
những nơi, chúng tôi phải băng theo những
vết xe trước, tắt ngang qua những vùng ruộng
śnh lầy. Dọc đường những đống dưa
hư thối được đổ xuống, cao như
những trái núi. C̣n là buổi trưa nên chúng tôi định
ghé chợ kiếm chút ǵ ăn lót dạ nhưng bác tài
th́ rủ tới chợ biên giới vừa ăn, vừa
nghỉ ngơi văn cảnh. Chợ biên giới được
xây cất khá khang trang và được chia ra làm 2 khu, khu
nhà lồng và khu lộ thiên. Khu nhà lồng gồm các
cửa hàng của người Trung Quốc từ bên kia biên
giới đem hàng qua đây bán, xen kẽ một vài gian hàng
của người Việt Nam và người dân tộc. Các
gian hàng trong khu nhà lồng đa số là hàng quần áo
may sẵn, giày dép, hàng điện tử và gia dụng.
Khu vực lộ thiên, bày bán các loại nông sản, chăn
mền và cả những chiếc xe đạp. Chen kẽ
giữa khu chợ lộ thiên với cổng biên giới là
băi đậu xe.
Tiến
sát tới cổng biên giới, tôi đang loay hoay chụp
một vài tấm h́nh kỷ niệm th́ một người
lính bộ đội biên pḥng chạy ra, lấy tay xua xua,
ra hiệu cấm được chụp h́nh. Không chụp
h́nh được v́ không thể đưa máy lên
ngắm, tôi đành phải nhờ cụ Tiên đứng
chắn, che để quay
một vài phút phim làm kỷ niệm.
Cụ
Tiên thấy thế can thiệp và hỏi anh bộ đội
biên pḥng:
-
Ở đây không thấy có lịnh bắt du khách nộp
máy ảnh, tại sao anh lại ra lịnh như vậy?
-
Lịnh đă có từ lâu và đây là khu vực quân
sự, cấm chụp h́nh quay phim….
Không
được đem máy ảnh qua bên kia biên giới và
thấy anh bộ đội có giọng nói nơ nớ
của người dân tộc nên cụ Tiên cũng đành
chịu thua. Bác tài xế h́nh như đă có toan tính, ra
lịnh:
-
Thôi chúng ta lên xe quay lại, không đi nữa.
Tôi
và cụ Tiên chỉ biết lên xe theo lệïnh bác tài. Xe
chạy ngược lại được một đoạn
th́ bác tài lại quay xe lại, vừa chạy chầm
chậm vừa quan sát.
-
Nó vô rồi!
Thế
là bác rồ máy xe đi tiếp. Qua trạm, người
bộ đội hồi năy đă đi đâu mất, anh
lính khác ngồi yên như pho tượng, xe qua lại
thoải mái. Ông cụ Tiên lên tiếng:
-
Chúng nó láo khoét chứù làm ǵ
có lệnh lạc như vậy!
Tôi
thầm nhớ lại h́nh ảnh mấy người du kích,
mặt mũi non choẹt, tay gầm gừ
khẩu Ak vào cái thời 75,76 th́ cảm thấy
rằng đứng trước những người
bộ đội biên pḥng dân tộc này th́ "yên
lặng là vàng". Có lẽ cụ trung tá hưu viên cũng
nhận biết điều đó nên ông cụ chỉ than
van qua loa rồi nói qua chuyện khác.
Chúng
tôi t́m chỗ đậu xe, đối diện với
đồn kiểm soát biên pḥng, ra vào cho tiện. Hàng hóa
ở đây qúa rẻ so với ở Sài G̣n, một
chiếc b́nh thủy 2 lít gía chỉ 25 ngàn trong khi ở Sàig̣n
phải đắt gấp 2,3 lần….Nhưng muốn mua
được giá rẻ như vậy th́ phải biết
mở miệng trả giá, cứ hạ xuống một
nửa gía là vừa. Bằng không có khi c̣n mua đắt
hơn cả ở Chợ Lớn.
Cổng
biên giới thật là tấp nập, những chiếc xe
kéo qua lại như nêm, hàng
hóa ùn ùn kéo qua biên giới. Những con buôn xếp hàng dài
chờ làm thủ tục hải quan, những tiếng la hét
inh trời, những tiếng chửi thề thô tục, pha
lẫn cả tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng dân
tộc. Không lỗ tai nào nghe cho thấu.
Bác
tài xế có lẽ đă đến đây nhiều
lần, thấy tôi đang đứng lớ ngớ trước
chai thần dược, hải cẩu bổ thận hoàn,
bác ta liền kéo tôi sang khu linh dược. Ở đây
theo lời quảng cáo th́ vị thuốc nào cũng là
thần dược cả. Cái anh ba tàu bán nước râu
ngô, nói giọng nửa tàu nửa ta thật là vui tai. Theo
anh th́ nước râu ngô của anh ta là một loại
thuốc gia truyền có tác dụng lợi tiểu, mát gan,
ấm thận, điều ḥa tiêu hóa… Anh ta đưa tôi
một ly uống thử, thấy man mát mùi râu ngô, tuy dù
không tin lời anh ta cho lắm nhưng thấy lời nói
ng̣ng ngọng tức cười và cũng có duyên nên cũng
mua thử một lọ cho anh ta vui.
Sau
khi mua sắm một số qùa cáp linh tinh về làm qùa cho
bà con, chúng tôi rủ nhau vào đồn biên pḥng làm
thủ tục qua bên kia biên giới để thăm
thị trấn Bằng Tường. Ở đây chúng tôi
mới vỡ lẽ ra rằng, chỉ có người mang
hộ chiếu VN mới được đi qua mà thôi,
hộ chiếu ngoại quốc phải xin visa ở Hà
Nội. Bác tài nảy sinh ra ư kiến là cho tôi mượn
thông hành, thế là tôi và ông cụ Tiên rung răng, rung
rẻ làm thủ tục qua bên kia biên giới. Ở đây,
chúng tôi phải đóng mỗi người 200 ngàn (tương
đương 15 đô la), thủ tục khá nhanh chóng. Qua
cổng biên giới, những người lính biên pḥng khám
xét qua loa và qua khỏi cổng biên giới chừng 120 thước
th́ chúng tôi gặp đồn biên pḥng Trung quốc, ở
đây những người lính biên pḥng nói tiếng
Việt na ná giọng người Nùng quảng Ninh. So
với cổng biên giới VN th́ cổng biên giới Trung
quốc bớt ùn tắc hơn và lượng hàng
chuyển qua đây cũng ít hơn một cách rơ rệt,
chủ yếu là nông sản, thú rừng và các đồ
khô như cá khô, mực khô….Thủ tục qua lại khá
dễ dàng.
Qua
khỏi đồn biên pḥng Trung Quốc chừng hơn 100
thước th́ chúng tôi gặp cổng Nam Quan. Trên
cổng khắc ba chữ tàu to tướng và đậm nét.
Cụ Tiên dịch cho tôi hay là 3 chữ trên là Hữu
Nghị Quan. Cụ c̣n cho biết 3 chữ này do chính
bộ trưởng Trần Nghị cho khắc để
tuyên dương t́nh hữu nghị đậm đà
giữa hai nước vào thời giao hảo cực
thịnh - "Môi hở răng lạnh".
Ông
cụ Tiên h́nh như nghĩ ra điều ǵ và thắc
mắc với tôi:
-
Lạ thật! Năm 1978, tôi tới thăm nơi này th́
đây mới là cọc mốc biên giới chứ đâu
phải là phía bên kia.
Riêng
tôi th́ sau khi đọc nhiều bài viết liên quan
tới việc "bán đất" nên phải đi
tới đây một lần cho biết. Tới nơi
đây, nh́n tận mắt và qua lời kể của
cụ Tiên th́ mới biết rơ ràng rằng, biên giới
có bị chia cắt nhưng chỉ lùi sâu vào đất
liền tính từ Aûi Nam Quan chừng hơn 200 thước
chứ không phải 4 cây số hay hơn thế nữa
theo như nhiều bài viết mà tôi đọc được.
Dù sao th́ một phần đất nước cũng
đă bị chia cắt. Một niềm đau khôn nguôi và
một cái nhục muôn đời
Chúng
tôi ghé vào một quán ăn gần đấy, tôi dán
mắt vào cái cổng Aûi nam Quan mà cứ thắc mắc
hết điều này tới điều nọ. Không
phải là nhà sử học và nghiên cứu về biên
giới nên tôi gần như hoàn toàn mù tịt về
vấn đề này. Tôi thắc mắc rằng
"Nếu Aûi nam Quan là cổng biên giới của ta th́
tại sao lại không khắc một chữ việt nào mà
lại hoàn toàn bằng chữ Tàu". Tôi lại thắc
mắc rằng: "Nếu Aûi Nam Quan là cổng biên
giới của ta th́ tại sao lại không đặt tên
là Aûi Bác Quan mà lại có tên
là Aûi nam Quan?"…..
Nếu
không có cụ Tiên chỉ đường, chúng tôi đă
đi nhằm vào cổng biên giới Tân Thanh thay v́
cổng Hữu Nghị th́ kẹt cứng. Nghe đâu sau
mấy ngày bị ách tắc, cánh tài xế đă hết
ḱm chế và mạnh ai nấy t́m chỗ lấn lướt,
cho xe ḿnh chạy vô được chỗ đậu
khiến cảnh hỗn độn bát nháo xảy ra.
Từ Đồng Đăng sang Trung Quốc, có tới 3
cổng biên giới: Cổng Hữu Nghị - cổng Tân
Thanh - cổng Chi Mai. Cổng Hữu Nghị là cổng chính,
hàng hóa qua đây là loại chính ngạch và có quy mô
lớn, cổng Tân Thanh dành cho tiểu ngạch và cổng
Chi Mai là một cổng nhỏ, cho những người dân
địa phương qua lại. Bọn con buôn dùng
cổng này để lút lén vận chuyển hàng lậu.
Qua
khỏi cổng biên giới, chúng tôi thuê xe đi Bằng
Tường, ông tài xế nói tiếng Việt khá sơi nhưng
đặc sệt giọng chú ba Chợ Lớn. Ông ta ngă gía
đi về 25 đô la với 2 tiếng đồng hồ
chờ đợi. Trên
đường đi, chúng tôi ghé chợ trời biên
giới. Ngôi chợ này khá khang trang và những đống
hàng hóa chất cao như núi. Những tiếng rao hàng,
trả gía giống như những chợ phiên bên nhà.
Những ông cửu vạn, vác hàng tất tả ngược
xuôi, những chiếc xe thồ hàng hóa ngập đầy.
Hàng hóa ở đây chủ yếu là chăn mền, b́nh
thủy, máy móc điện tử và thuốc bắc.
Những dàn DVD mở lớn âm thanh, thi nhau ca hát vang
trời. Đĩa lậu ở đâu mà nhiều thế, gía
cả rẻ như bèo. Một cuộn phim Tây Du Kư dưới
dạng CD, 23 dĩa được chào bán với gía 10
đô. Tôi mua một bộ về làm qùa cho vợ.
Thấy tôi muốn mua, cụ Tiên bảo phải trả gía
v́ ở đây con buôn nói thách lắm! Tôi nghe lời
cụ, trả gía 7 đô, con buôn không chịu bán,
nằng nặc đ̣i 8 đô, thấy rẻ, tôi mua đại.
Sang hàng bên, thấy tôi đă mua bộ Tây du kư, con buôn chào
gía: "Hàng em chỉ bán 5 đô". Tôi quay lại nh́n
mẹ lái thương hồi năy. Mụ nhe răng cười
nham nhở.
Hàng
hóa ở đây thật bát nháo, thật gỉa khó lường.
Những cô gái bán hàng nở nụ cười tuơi như
hoa nhưng khách đi khỏi không mua, cô văng tiếng
chửi tục không thua ǵ bọn nhà thổ. Chung quanh
chợ, những cửa hàng thuốc bắc thật là
bề thế, mùi vị thuốc xông
ngát mũi, tạo một cảm giác thoải mái,
dễ chịu. Thấy có một ông lang, vẻ tiên phong
đạo cốt đang bắt mạch cho khách, tôi
mạnh dạn bước vào. Ông lang này khá tinh tế,
vừa chẩn mạch cho tôi, vừa phán:
-
Cái lị no âu nhiếu lắm thế! Cái tim đập
nhanh làm cái lị đau cái lầu, cái da lị ló có cái
chấm chấm là không tốt, trong máu lị có lường,
có mỡ….
Mấy
năm trở lại đây, lượng đường
trong máu tôi hơi cao, tuy chưa tới mức báo động
nhưng cũng cần kiêng cữ. Thấy ông lang bắt
mạch trúng phóc nên tôi có ḷng tin và nể phục, xin ông
cắt thuốc.
Sau
một hồi trao đổi và thấy lượng
đường trong mỡ tôi không qúa cao,
ông lang đề nghị tôi chỉ cần uống
nấm linh chi là đủ. Ở đây có 3 loại linh
chi, loại Trung quốc mọc hoang ở vùng núi Tuyết
Sơn, gía 40 đô một kư, loại được
trồng trên vùng đồng bằng gía ngoài 30 đô và
loại nhập từ Bắc Hàn, gía 75 đô. Nấm
được bẻ nhỏ và nấu sôi, uống thay cho
trà. Ông lang cam đoan với tôi là chỉ cần uống
trong ṿng vài tháng, lượng đường trong máu
sẽ giảm. Tôi không tin lắm nhưng nh́n vẻ
mặt phúc hậu của ông lang nên thuận lời mua 1 kư,
loại bắc Hàn.
Thấy
chúng tôi có vẻ ngây ngô giữa phố thị đông người,
một bà lăo bán nước chè tươi cất
tiếng mời:
-
Xin mời cụ và bác vào xơi nước.
Bên
cạnh cái b́nh thủy to tướng, một b́nh ấm
được đậy nắp rất kỹ, chắc là
để giữ hơi nóng v́ khí hậu ở đây tương
đối lạnh hơn Hà Nội khá nhiều. Tôi có
cảm giác là thời tiết đang ở khoảng 9-10
độ C, một anh cửu vạn đang hút thuốc lào,
lơ điếu run lên khanh khách, luồng khói trắng toát
như mây phun ra từ miệng, anh ta vừa hít hà, vừa
ngụm một hớp chè tươi. Oáng điếu
cầy cứ thế được chuyền từ người
này tới người khác. Câu chuyện nổ như pháo
rang.
Thấy
họ nói chuyện vui vẻ, tôi kéo chiếc ghế đẩu
mời ông cụ Tiên ngồi c̣n ḿnh th́ ngồi bẹt
xuống chiếc chiếu cạnh mấy anh cửu
vạn. Anh ngồi cạnh mời:
-
Bác làm thử một điếu!
Thấy
hay hay, tôi cầm cái ống điếu, văn vê một núm
thuốc. Quan sát thấy tôi có vẻ chưa hề hút
thuốc này bao giờ, anh cửu vạn lên tiếng:
-
Vê nhỏ thôi, hút thử mà to như thế th́ bật
ngửa đấy!
Mà
bật ngửa thật! Tôi vừa hít một hơi, làn khói
như muốn làm nổ tung lồng ngực. Tôi cảm
thấy tức ngực và điên đảo quay cuồng.
Mồ hôi toát ra nhuễ nhoại. Tôi phải nhoài người
tới chiếc phản gần đấy. Anh cửu
vạn cởi giày cho tôi và nới lỏng giây lưng. Được
một lát, người tôi ướt đẫm nhưng
cảm thấy nhẹ nhơm hơn. Tôi nhổm dậy và xin
chủ quán cho bát chè tươi. Nước pha sao mà nóng
thế! Hơi nóng bốc toả mùi chè tươi thơm
ngát. Mấy anh cửu vạn như đă uống quen, nước
vừa rót ra bát là đưa lên miệng ngụm ngay
một phát.
Cụ
Tiên đă bỏ đi đâu, chắc là ra mấy cửa
hàng bán những loại thuốc bổ dương, bổ
thận. Thấy ông cụ đi khỏi, anh cửu vạn
hỏi tôi:
-
Sao bác đă trả thù dân tộc chưa?
-
Trả thù dân tộc là nghĩa ǵ?
-
Bác này chỉ được nước ẫm ờ!
Thế đă đi đánh đĩ chưa?
-
Khi không ai lại đi đánh đĩ?
-
Sang đến đây rồi mà không "ấy"
một phát cũng hoài công!
Anh
cửu vạn khác chen vào:
-
Mày chỉ được cái rồ mồm, bạ ai cũng
gạ. Đâu phải ai cũng
là đồ điếm thối như nhà mày.
-
Đ.m. ông bảo trả thù dân tộc chứ có đánh
đĩ đâu mà rồ mồm. Lâu lâu có việc
trả thù, vừa ái quốc mà lại vừa sướng
d.
Bà
cụ chủ hàng vừa quết vết trầu dính trên môi,
vừa cười khanh khách. Đúng lúc, ông cụ Tiên cũng
về tới, mọi người lảng sang truyện khác.
Hai anh lính cảnh sát TQ cũng vừa bước tới,
họ thân thiện chào nhau và trao đổi những ǵ, tôi
không hiểu.
-
Thế những người cảnh sát này có ăn
chận, hối lộ như bên ḿnh không? - Tôi hỏi.
-
Không có đâu, bên này họ nghiêm minh lắm! Chẳng
đ̣i hỏi ǵ cả và rất thân t́nh, trừ trường
hợp phạm tội, họ mới can thiệp. Bà con
ở đây biết thân phận làm ăn xứ lạ quê
người nên cũng cẩn trọng và thượng tôn
luật pháp.
-
Thế các gian hàng bên này đóng thuế
có nặng không? - Tôi hỏi.
-
C̣n nhẹ chán so với bên nhà.
-
Thế đêm đến, các anh ngủ đâu?
-
Th́ giăng màn ngủ trên các quầy hàng chứ c̣n đâu
nữa.
-
Nó sạo đấy! Thiếu ǵ là vợ hờ. - Một
anh cửu vạn chen vào.
-
Vợ hờ là sao?
-
Là mấy chị em ta sang đây làm ăn, đêm tối
ế độ nên kiếm cửu vạn làm chồng
hờ qua đêm, để dễ qua mặt cảnh sát.
Vừa cơm no, ḅ cưỡi.
-
Họ sang đây đông không?
-
Hàng đống! Một số th́ bị bắt cóc gả
cho người Trung quốc, trốn thoát được nhưng
không dám về nhà, sợ trả thù. Sống lang thang, sa cơ
lỡ bước nên rơi vào chốn giang hồ. Một
số th́ trây lười, không chịu lao động làm
ăn, đem vốn sẵn có ra đầu tư, tiếp
thị. Oái cả ra đó!
-
Kia ḱa con Hồng ngâm kia ḱa! Thuộc loại khá đấy!
Tôi
nh́n theo hướng người cửu vạn vừa
chỉ, một cô gái cao dong dỏng da trắng mịn, thân
h́nh cân đối, mới độ 19,20. Vừa đi, cô
vừa bỏ thứ ǵ vô họng, miệng nhai nhóp nhép. Cô
tiến tới chỗ chúng tôi ngồi, nở một
nụ cười thật duyên dáng.
-
Hôm nay đi sớm thế! Đă có độ nào chưa? -
Một anh cửu vạn hỏi.
-
Đồ qủy! Gặp anh là xui mạt kiếp.
-
Đây này, có ông khách xộp đây này. Mời ông ấy
đi.
Anh
cửu vạn vừa nói, vừa chỉ vào tôi, khiến tôi
thật bỡ ngỡ và lúng túng.
-
Đ.m. sang đến đây th́ phải trả thù dân
tộc chứ, ai lại
nhong nhong đường xưa lối cũ bao giờ.
Một anh khác chen vào.
Thấy
mấy anh cửu vạn ăn nói thô lỗ qúa, ông cụ
Tiên lên tiếng rủ tôi đứng lên, đi văn
cảnh. Chúng tôi vừa quay lưng, một anh cửu
vạn trêu trọc.
-
Tao đố con Hồng rủ được ông cụ
về ngủ một đêm.
Cụ
Tiên nghe thấy, lẩm bẩm: "Lũ quân mất
dạy!".
Một
chiếc xe hàng trờ tới, những người cửu
vạn bật dậy, ai làm việc ấy. Tiếng ḥ hét
inh trời. Hàng hóa chủ yếu là nông sản và thú
rừng. Những con vật được nhốt chật
cứng trong các cũi, lớn nhỏ khác nhau. Nào nai,
mễn, rắn, rùa, chim rừng đủ cả. Tôi nh́n
những con vật được lôi ra khỏi xe mà ngao ngán.
Thầm nghĩ rằng cứ đà này, chẳng mấy lâu
nữa, nước ta sẽ hết thú rừng.
Những
người cửu vạn chỉ làm thoáng một
chốc, xe hàng đă sạch nhẵn. Những lồng thú
được đặt vội
xuống hai vệ đường, những con thú lộ
vẻ sợ sệt và mệt mỏi, thè lưỡi
thở hồng hộc. Hết
chiếc xe này tới chiếc xe khác, không hiểu thứ
rừng ở đâu mà nhiều thế?
Tôi
với cụ Tiên nh́n nhau mà ngao ngán, có lẽ cụ cũng
như tôi đang thương khóc cho non sông gấm vóc
của ta bị tàn phá. Chúng tôi bỏ lại đàng sau,
những người cửu vạn cùng những cô gái môi
sơn đỏ như mới vừa rướm máu.
Họ vẫn nói nói cười cười cùng với
những tiếng kêu re re từ những nơ điếu
thuốc lào.
Cổng
biên giới vẫn ùn tắc v́ hàng hóa qua lại.
Những chiếc xe ba gác thồ quần áo và chăn bông
đầy ắp, cao ngất trời. Bây giờ tôi
mới hiểu v́ sao tại các chợ lớn ở Hà
Nội, Sài G̣n và các thành phố khác, hàng hóa Trung
Quốc lại ngập tràn như thế! Chẳng thế
mà một người bạn tôi làm nghề sản
xuất quần áo may sẵn đă phải tuyên bố phá
sản v́ không thể cạnh tranh với hàng lậu Trung
Quốc giá bèo.
Tôi
quay lại phía biên giới VN, những chiếc xe đẩy,
vẫn cứ đầy ắp hàng hóa qua lại. những
tiếng thú vật kêu gào trong cũi, được bao
bọc tàng h́nh bởi những lớp vỏ rau cỏ trái
cây và những tiếng la hét, căi cọ chửi bới
vẫn cứ cất lên inh trời. Tôi lại cứ
ấm ức rằng phần đất mà ḿnh đang
bứơc chân lên đây, mới đây c̣n thuộc
về lănh thổ Việt Nam. Tôi lại càng không hiểu
v́ sao, "ta" phải cắt chia cho "bạn" và
rời biến giới sâu hơn 200 mét mà "thắng
lợi lại về ta" và chính ông Lê Công Phụng,
thứ trưởng bộ ngoại giao trong một cuộc
phỏng vấn theo kiểu gà nhà đă tỏ ra hài ḷng
về "thắng lợi" này? Phải chăng chính
phủ ta đang chủ trương chính sách "tái ông
thất mă" để đánh mất đi rồi
được lại?
Qua
những điều tai nghe mắt thấy và nghĩ
tới đoạn đường về, phải vượt
qua hằng ngàn chiếc xe tải nằm ùn tắc hai bên
vệ đường với những dăy dưa hư
thối, chất cao như núi mà
tôi cảm thấy mệt mỏi và ngao ngán sao ấy và
thực sự cảm thấy chán ngán và thất vọng qúa
nhiều.
|