Ninh Cơ trên ḍng sông Thames
Chiều hôm qua, sau khi cắm
đầu cắm cổ làm cho xong những công việc
cần, khẩn, tôi chạy vội về nhà lấy hành lư
để kịp lên phi trường đi London. Trên valise
hành lư, vợ tôi đă đễ sẵn một số
thư từ mới nhận được trong ngày, trong
đó có 2 đặc san Ninh Cơ 2003.
Thú thật là mới nh́n qua đặc san, tôi đă có
ngay mối cảm t́nh với trang b́a. Tŕnh bày trang nhă và
khơi lại biết bao kỹ niệm của sân
trường, tuổi học tṛ.... Tôi nhớ lại vào
những buổi học của những năm cuối
thập niên 50, khi trái tim tôi đă biết thổn thức
lần đầu khi Hằng, người con gái tôi yêu,
cứ măi "vành nón che kín mái đầu"
Sân
trường hoa phượng đỏ
Tung
tăng dưới nắng hè
Nh́n
em mặt đỏ hoe
Vành
nón che bẽn lẽn!
Ngày
nào Hằng cũng đi ngang nhà tôi ngày mấy bận,
nhưng chiếc nón lá tai qúai đó nó cứ che kín cái nh́n
thấp thỏm và nỗi buồn của tôi:
Ngang
qua nhà anh ngày mấy bận
Nón
nghiêng che nào biết anh buồn?
À
mà sao tôi lại dài ḍng thế nhỉ? Sân trường
xưa đă bị bom bỏ sập rồi và Hằng
cũng đă ở một phương trời xa cách.
Trời London, sáng nay phủ mây mù gió bấc. Cái gió
lạnh nó chen, ngấm thịt da. Những cô gái London
mảnh mai xinh xắn như Diana lúc nào cũng nở
nụ cuời hiền ḥa. Khép kín vạt áo qua ngang như
thách đố với cái lạnh bắc âu đưa
tới. Người London rất thích đi bộ và chính v́
thế mà họ luôn giữ được thân h́nh mảnh
mai cân xứng.
Tôi rất thích ngồi ăn sáng ở khu Tower Bridge,
không phải v́ món "HAM" ở đây ngon nhưng v́
thích cái cung cách lịch sự hiếu khách của những
người Beeefeaters và những người họa sĩ
tài tử đang cọ mực trên những bức tranh và
cùng lúc có thể nh́n ngắm những du thuyền qua
lại, nhịp nhàng trên ḍng sông Thame ôn ḥa và lung lính ánh sáng
đủ màu. Từ đây, thỉnh thoảng cũng có
thể nghe những tiếng chuông ngân vang theo nhiều
điệu nhạc tuôn đổ từ tháp Big Ben.
Mỗi khi ăn sáng xong, tôi thường vận
động thể lực qua loa bằng một ṿng bách
bộ qua khỏi Tower Bridge, cho tới ṭa nhà quốc
hội "the Palace Westminster". Palace Wesminster thật
cổ kính và mang trong ḿnh đầy mỹ quan và
kiêu hănh. Từ năm 1512 đă trở thành ṭa nhà
của lưỡng viện quốc hội. Big Ben th́
cứ 15 phút lại có tiếng chuông reo theo bốn nhịp
chuông lơ lửng trên tút ngọn tháp cao như một thiên
bút phê vân. Bầu trời London vào đầu thu, mây trôi
thật thấp nên ví von ngọn Big Ben như một bút
trời vẽ trên mây tưởng cũng chẳng ǵ
điêu ngoa cho lắm.
Tôi đến London đă nhiều lần nhưng
mội khi đi chung với gia đ́nh th́ điều tôi
cần tránh nhất là ngang qua con đừng Oxford. Đă
đến nơi đây th́ kể như một ngày phí
bỏ. Đại lộ Oxford lôi kéo và hấp dẫn các bà,
chẳng khác nào đưa khoe chiếc điếu cày
trước mặt một ông lăo nghiền đang đói
thuốc. Oxford là một khu thương mại tuyệt
hảo cho các bà với những cửa tiệm quần áo,
giày dép và mỹ phẩm sang trọng. Đă có lần tôi và
Định đă phải kêu taxi đưa thăm bảo
tàng viện Luân Đôn, để mặc cho Nguyệt và
Thanh Suốt tự do dán mũi vào các khung kính của các
cửa tiệm.
Tôi rất thích dạo phố đêm ở phu Piccadelly
để vừa tận hưởng những mùi vị
thơm ngon đủ loại của các đầu bếp
Ả rập, Ấn Độ....cùng với những
bước đi nhún nhảy với các nàng tiên nữ trong
phố đêm nhưng lại không chịu đươc
mùi chiên xào từ khu phố tàu SOHO gần đấy bay ra.
Tôi bị dị ứng với mùi dầu hào, dầu mè có
lẽ do bởi người anh em cô cậu với tôi
gốc Phúc Kiến đă rủ tôi sang Hồng Kông năm
1980, theo học một khóa
nấu bếp trong ṿng 6 tuần lễ. Mục đích
để về lại Thụy Sĩ mở nhà hàng
để rồi bảo lănh anh em qua. Theo luật Thụy
Sĩ khi đó th́ khi mở nhà hàng Tàu dưới 40 chỗ
ngồi, có th63 bảo lănh một đầu bếp, trên 40
th́ 2......Lúc đó trứơc t́nh thế Hồng Kông
phải bị trao trả lại Trung quốc vào năm 1997
nên các anh em bên ngoại tôi sợ.
Sau sáu tuần lễ cật lực theo học, tôi
thấy rằng nghề này ở Thụy Sĩ th́ rất
dễ kiếm ăn nhưng cũng rất dễ thủng
bàng quang, lá phổi v́ lúc nào cũng hít, hửi, nhắm,
nếm những loại phụ liệu làm cho thịt
mềm, thơm, ḍn....Những mùi phụ liệu và các
lớp dầu chiên, xào nó đă dính, bám vào da thịt, có
lẽ vào tận trong buồng phổi tôi nữa, nên lúc nào
tôi cũng bị dị ứng về những loại mùi
vị phụ liệu này. Chưa kể đến
những phương cách để thức ăn có thêm mùi
tàu, chẳng hạn cho ngọn lửa gaz thật mạnh
đề khi vừa đổ dầu, thức ăn vào th́
ngọn lửa sẽ bốc cao như những anh hề
làm xiệc.
Sau khi đă cân nhắc kỹ càng, tôi đành phải
hy sinh kế hoạch mở nhà hàng để có thể
bảo lănh anh em....Tôi lại tiếp tục đi cày cho
hăng tổ chim cho tới ngày nay.
Với đặc san Ninh Cơ trong tay, tôi nghĩ cách
hay nhất là trôi một ṿng trên du thuyền để
dạo một ṿng sông Thames. Tôi mua vé tầng trên để
tận hưởng trăng thanh gió mát và để dễ
bề quan sát những cảnh đẹp hai bên. Trên ḍng sông
Thames, ánh sáng không rực chiếu như dạo bateau mouche
trên sông Seine nhưng nó lại mờ ảo và thần
kỳ. Những lâu đài cổ xưa, những vườn
hoa trải rộng muôn màu, muôn vẻ. Người Anh
rất qúy trọng và chăm sóc rất kỹ các
vườn tược, công viên. Chẳng thế mà hai bên
bờ sông Thames, đâu đâu du khách cũng cảm thấy
thoáng mát, thoải mái và yên b́nh.
Đặc san Ninh Cơ dày trên 4oo trang, qúa dày
để có thể đọc hết trong một buổi
ngồi thuyền đi dạo. Tôi bèn lấy ngón cái lật
ra một phần th́ rơi đúng vào bài
"Đường đi Pleiku" của một ông tá
pháo binh. Ông viết rất trung thực, ông viết như
lấy ngón tay của ḿnh, nhúng vào máu ḿnh và viết giữa
chiến trường, giữa lằn tên, mũi
đạn. Giọng văn đơn sơ nhưng lôi
cuốn v́ ông viết theo tiếng nói của ḷng ḿnh. Tôi say
sưa thích thú, đọc liền một mạch cho
tới khi c̣i tàu cặp bến. Qua ông, tôi hiểu hơn
về tinh thần chiến đấu của quân
đội ḿnh, thật anh dũng và cao cả. Ĺnh dù
thật đáng kiêu hănh, tự hào. Tinh thần huynh
đệ chi binh nơi anh em thật thắm thiết,
cả nơi chiến trận tới phố thị an vui.
Trong lớp tôi cũng có nhiều anh bạnh đi lính
dù, chẳng hạn Nguyễn Hữu Tươi, đại
đội trường công binh dù. Làng tôi cũng có
những người theo ngành pháo binh, chẳng hạn
như Nghị Lai, anh ta là sĩ quan cấp tá nhưng có
lẽ đời lính của anh rất ít trận mạc
v́ tôi thấy anh cứ
ngồi ĺ trong bộ tham mưu pháo binh ở Sài G̣n. Tác
gỉa có nhắc tới tiểu đoàn 2 pháo binh của
sư đoàn 2. Lúc tôi biết th́ tiều đoàn
trưởng của tiểu đoàn này là thiếu tá
Trần Trai.
Nhắc tới sư đoàn 2 th́ tôi lại nhớ
đến thời kỳ buồn tủi khi tôi bị thuyên
chuyển ra Quảng Ngăi. T́nh h́nh chiến sự đă
đến hồi sôi bỏng, cả thị trấn
Quảng ngăi đă biến thành một tiền đồn
và đêm đêm đạn pháo rót về gây chết chóc không
nguôi, không ngày nào thành phố lại không để tang.
Vậy mà giữa ngay ṿng rào của bộ chỉ huy sư
đoàn lại nổi lên một câu lạc bộ, lấy
tên là Phượng Hoàng. Nơi đây tiếng nhạc pha
lẫn với tiếng đạn bom, tiếng cười
đùa pha lẫn với những tiếng than khóc của
dân lành vô tội. Tướng Nguyễn Văn Toàn. lúc đó
chúng tôi gọi là tướng heo, v́ mặt mày ông béo to, phù
phĩnh lại ăn chơi khét tiếng. Cũng có
thời kỳ người ta gọi ông là "Quế
tứơng công" v́ ông đă tổ chức đưa
cả một trung đoàn mở cuộc hành quân lên Trà
Bồng khai thác quế, chẳng may gặp phải sự
kháng cự mănh liệt của cộng quân gây bao tổn
thương, chết chóc........Cũng vào thời gian đó,
trên báo Sóng Thần của ông Chu Tử, người ta
tố cáo ông đă "làm nhục" em Nguyễn Thị
Nhung, mới 15 tuổi.
Tôi đọc xong bài "Đường đi
Pleiku" mà ḷng tôi thẫn thờ, thắm thiết và hoài tưởng.
Hoài tưởng lại
những kỷ niệm xa xưa với những
thằng bạn đă hy sinh v́ tổ quốc. Hoài
tưởng lại những lần Đạt, Tươi
mang áo trận bụi mù về thăm phố thị......Tôi
đă hiểu nhiều, biết nhiều hơn về
đời lính. Nhất
là lính dù.
Sơn ơi! Tươi ơi! Đă có người bạn
lính dù của chúng mày nói hết cả rồi.
Tàu đă dừng bến và tôi lê bước thẫn
thờ trên đường phố đêm trống vắng.
Hoàng Ngọc Lễ