Lần nào gặp tôi, bác Tỷ cũng khoe:
- Bả sắp sang rồi!
Bác “dọa” như thế từ khi chúng tôi chia tay
nhau khỏi trại tiếp cư, bác “ra riêng”, tôi
đi trường nội trú. Chính tôi giúp bác điền
đơn xin đoàn tụ gia đ́nh. Thấy chỉ
có tên bác gái, tôi ṭ ṃ:
- Bác không bảo lănh cho con à?
- Tôi chưa có con. Bả c̣n trẻ măng. Đẹp
hết sẩy
ơ? Việt Nam, bác làm công trên tầu đánh cá,
thằng cháu kêu bằng chú ruột của chủ ghe
cướp ghe đi vượt biên, đúng hôm bác
có mặt trên ghe. Ra khơi, họ hỏi muốn
về th́ thả xuống ghe con cho về, muốn
đi th́ đi, bác nh́n cái ghe đuôi tôm vật
vờ trên biển, gật đầu. Đi. Sáu tháng
sau, bác kư giấy bảo lănh vợ, nhưng không
hiểu v́ duyên cớ ǵ, măi không thấy bác gái sang.
Thỉnh thoảng, tôi tỏ vẻ áy náy:
- Vợ con thiên hạ đoàn tụ rần rần,
mà bác gái không sang. Kỳ thật. Bác không chịu
“chồng cây” cho bên đó, chứ ǵ?
- Chồng nhiều ấy chứ, sao không. Bác trả
lời, rồi tiếp, như muốn gạt
chuyện đi: Yên chí đi, cậu. Thế nào tôi cũng
mời cậu một bữa nhậu say quắc
cần câu. Bà ấy làm đồ nhậu hết
sẩî
Chả bao giờ tôi được ăn các món
nhậu hết sẩy đó của bác gái. Duy mỗi
lần có dịp về Oslo, mà cạn mục du hí,
tôi ghé bác, lai rai vài chai. Bác ở trong một căn
chung cư trên lầu sáu. Pḥng khách không bừa băi như
nhà mấy tên độc thân trẻ, nhưng sự
gọn gàng có vẻ lạnh lẽo, vụng về.
Nếu căn đúng giờ th́ luôn luôn tôi gặp
bác ở nhà, ít khi bác đi vắng. Bởi v́ bác
rất ít giao thiệp, đi đây đi đó. Bác
chỉ ra ngoài vào chiều thứ tư, hôm cửa
hiệu Việt Nam có hàng về, và sáng thứ
bảy khi ngoài bến tầu có bán tôm cá tươi.
Bác dùng cá hồi thay cho cá chép làm món gỏi cá khá
ngon. “Bà ấy chỉ đấy” .
Tôi ra trường, lấy vợ. Trong đám cưới,
tôi tới chào bác, bác khoe:
- Tôi cũng sắp lấy vợ rồi.
Cả bàn cười ầm lên, cho là bác đùa có
duyên. Phần tôi, tôi cho là bác thất vọng v́
đợi chờ, tạm kiếm một bà “xử
lư thường vụ”. Bác mới trên 50 (nếu tôi
nhớ không lầm, bác tới Na-uy năm 45 tuổi,
bác gái kém bác một giáp).
Từ khi vợ con đùm đề (vợ tôi sanh
đôi), tôi càng bận bịu hơn, ít liên lạc
với bác. Tôi dành thời giờ chạy theo biến
chuyển thật nhanh bên ngoài. Không th́ không kịp.
Cứ coi đám trẻ nít trong trại tiếp cư,
ngày nào c̣n ngồi xe nôi cha mẹ đẩy tới
trường tị nạn, nay đă tốt nghiệp
đại học, nhiều đứa tay bồng tay
bế, mà giật ḿnh. Người tị nạn
Việt Nam, qua giai đoạn an cư, bắt đầu
lạc nghiệp, đổ xô ra mua đất, mua nhà,
có người ba bốn căn nhà cho thuê, có người
sang hai ba cửa tiệm, có người mất cả
trăm ngàn Mỹ kim trong một cuộc đầu tư
ơ? Việt Nam mà chỉ nhe răng cười. Xe
Mercedes, xe BMW trở thành “tiêu chuẩn”. C̣n bác
Tỷ, vẫn ở căn chung cư cũ trên lầu
sáu trông xuống thung lũng rừng thông. Vẫn
đi xe buưt, xe điện. Vẫn... độc thân.
Và đứng ngoài lề xă hội.
Thực ra, th́ hồi đầu bác đi làm hăng bia
(“Bác ruột tôi ngày xưa làm hăng La de Con Cọp BGI
ơ? Chơ. Lớn”, bác khoe riêng với tôi).
Được trên hai năm, người ta thay cái
máy dây chuyền mà không dự trù bác cao có thước
năm lăm, lại không đủ tiếng tăm
để làm việc khác, cho bác nghỉ. Bác nghỉ
vài năm th́ hết hứng thú lao động,
bệnh nọ sanh tật kia, phải về hưu tàn
tật. Cứ thế, bác xa ĺa dần xă hội Na-uî
C̣n xă hội nhỏ bé Việt Nam, bác cũng không có
chỗ đứng. Bác xa lạ với các cuộc bàn
luận về hiệu xe, giá nhà, bằng cấp,
kể cả truyện thông thường nhất là con
cái, bác cũng chẳng có mà bàn. Bác không hay biết
ǵ về cái thư nặc danh mới nhất trong
cộng đồng. Bác thờ ơ với việc
thành lập chính phủ lưu vong.
Riêng tôi, mặc dầu bận bịu, chỗ nào
động dao động thớt đều có
mặt. Nhờ thế tôi có dịp nghiệm ra
rằng nói chuyện với bác, tuy không trở nên
uyên bác, không gây cấn từng hồi, nhưng thanh
thản. Xong câu chuyện, ra về, không thấy tâm
hồn ḿnh bị tiêu hao, mặc dầu truyện
của bác chỉ có mỗi điệp khúc:
- Tôi sắp cưới vơ..
- Bà nào vậy, bác?
- Bà Greta.
Tôi không biết Greta là bà nào, nhưng nhớ rơ không
phải cái bà lần trước bác dọa
“lấy”, bèn kêu đại tên cái cô đẹp
nhất trong sở mà khối anh mơ lấy, hỏi
thử:
- Lần trước bác tính cưới cô... bà Marit cưa
mà?
Bác cười x́ x́ như cái lốp xe x́ hơi,
mặt hiền một cách ngây dại:
- Mẹ đó mập quá, mà hay ăn vụng.
- Thế hai người có “xằm bu” rồi hay sao
mà bác biết bả hay ăn vụng?
- Đă hẳn. Nằm trong chăn mới biết chăn
có rận chứ.
- Cái chăn này, bác thấy thế nào?
- Ngon lành. Nhưng gặp bà mới này ngon hơn, tôi
cho mụ kia de.
- Bác đă nếm mùi, biết “ngon”, cưới là
phải.
Tôi chọc. Bác lại cười hí hí, tiếng cười
nhỏ loắt choắt như thân h́nh bác. Tôi
tiếp:
- Thế ra lần này chắc cháu được ăn
cưới thật rồi, nhất định bác
chấm bà Greta rồi đấî
- Đâu có! Nina.
Nếu đếm ngoa ra một chút, có thể nói bác
Tỷ dọa lấy cả vài tá... tên khác nhau.
Tiếng Na-uy bác rất cập quạng, nhưng bác sưu
tầm được rất nhiều tên Na-uî Các
“cô dâu” tưởng tượng phần nhiều
là những cô giáo trường tị nạn,
những bà xă hội, các cô y tá v.v. Tóm lại, bà,
cô nào hơi tận tụy, tử tế một chút
là bác... phải ḷng liền. Không kể đẹp
xấu, “cái nết đánh chết cái đẹp”,
bác nói. Bác nhạy cảm đến độ
“quen” cả một xướng ngôn viên truyền
h́nh, chỉ v́ có lần cô ta nói sai một câu ǵ
đó, quay ra cười một cách “có duyên chi
lạ” trong lúc đính chính. Câu nói kia, sai hay đúng
chỗ nào, bác không biết. Bác chỉ “thấy
gần gũi”. Thế mà cũng có lần bác
hiểu cô xướng ngôn viên xinh đẹp. Một
hôm gặp tôi trong tiệm thực phẩm Việt Nam,
bác mừng rỡ và cảm động nói:
- Sắp có đ́nh công. Thật ấî Con Else nó nói.
- Else nào ḱa?
- Nhỏ nói trên ti-vi.
- Bác tính cưới cô đó không?
- Bậy nè. Đáng tuổi con cháu.
Đại khái, đó là mức độ hội
nhập của bác Tỷ vào xă hội mới.
Quanh đi quẩn lại, mười chín năm đă
trôi qua từ ngày bác và tôi ra khỏi trại tiếp
cư, và bảy năm tôi xuống định cư
tại vùng cực nam. Thời gian này tôi rất ít
liên lạc với bác. Gần như không. Rồi tôi
vui mừng nhận được việc mới, có
dịp dọn nhà về thủ đô. Hôm đó,
ngồi trên xe điện qua “Phố Lớn”
của Oslo, tôi đang nghĩ tới bác Tỷ -không
biết bây giờ ra sao, c̣n ở chỗ cũ không,
bác gái sang chưả- th́ tôi thấy một ông già
Việt Nam, từa tựa bác Tỷ, với những
dấu hiệu quen thuộc (mũ “phớt”, áo
dạ ngắn chấm đầu gối) đi trên
lề đường. Nhưng dáng đi khác bác
Tỷ, và rất kỳ dị - như con c̣. ́ng già giơ
chân thật cao và buông xuống thật thẳng,
tuồng như trên đường có một lớp
bùn dầî Tôi nghĩ hay là những con đường
mùa đông phủ tuyết làm cho ông quen đi như
vậy? Hay ông say, và phải đi cho ra vẻ vững
chắc? Tôi ṭ ṃ, chờ xe điện vượt
qua, quay lại nh́n th́ thấy đúng là bác Tỷ.
Tới trạm kế, tôi nhảy xuống, đi ngược
lại. Tôi đứng đối diện, mà bác không
nhận ra. Bác tránh, và đi tiếp, ḷ ḍ, hêu hêu. Tôi
kéo tay bác. Bác giật ḿnh, gần như hoảng
sợ về sự đụng chạm.
- Bác Tỷ, nhớ cháu không?
Tôi nói và toét miệng cười, cố ư cười
cho giống bảy năm về trước (thực
t́nh tôi đâu có biết bảy năm trước
ḿnh cười ra sao). Tôi ch́a mặt cho bác nh́n,
chờ đợi. Hơi thở bác nồng nặc
mùi men rượu. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng.
Chắc bác vừa “súc miệng” bằng bia, như
vài người Việt tôi quen biết thường
làm mỗi sáng. Bác nheo đôi mắt hum húp:
- Cậu... cậu Tuấn đây, phỏng?
Tôi mừng rỡ. Cho ḿnh. Và cho bác:
- Dạ, cháu Tuấn đâî Lâu quá mới gặp
bác. Bác khỏe không?
- Khỏe, khỏe, khỏe. Bác gật đầu lia,
như sợ không xác nhận ngay, cái khỏe nó
biến đi mất. C̣n cậu, vợ con ǵ chưa?
- Dạ vợ rồi, ba con. Đám cưới cháu,
bác có đi mà.
- Vậy hả?
Tôi định nói giỡn như xưa “C̣n bác,
vợ con ǵ chưả” nhưng khi bác lột mũ
ra găi đầu, thấy tóc lưa thưa, bạc phơ
và nhèm nhẹp, tôi nói:
- Vụ đoàn tụ tới đâu rồi, bác?
Bác găi tai như một chú học tṛ bị truy bài:
- Vợ bỏ rồi.
Rồi bác ̣a khóc rưng rức giữa đường
phố tấp nập. Tôi cầm tay bác, đề
nghị:
- Ḿnh vào quán Cà-phê Sài G̣n nói chuyện, bác nhé?
- Không, trong đó đông người Việt lắm.
- Vậy ḿnh vào quán cà-phê Na-uy đằng kia?
- Không, toàn “Noọc” thôi.
- Vậy để cháu vào tiệm mua bậy cái ǵ,
về nhà bác cháu nhậu?
- Không được, về nhà vắng lắm,
buồn chết.
Tôi nh́n bác lấy khăn chặm nước mắt,
và nghĩ cần một chỗ yên tịnh để
nói chuyện với bác. Nếu cần, để bác
khóc. Tự nhiên tôi nghĩ tới cái nghĩa trang
gần trại tiếp cư ngày xưa. Tôi thích vào
nghĩa trang ngồi mỗi khi có điều nghiêm
trọng cần suy nghĩ, hoặc khi hoàn toàn
trống rỗng... không có ǵ để nghĩ.
Nhớ hôm đó, một buổi chiều thứ
bảy, tôi đang thơ thẩn trong nghĩa trang,
ngắm những bức tượng sầu muộn,
đọc những tên lạ, cộng trừ những
ngày tháng sanh tử, bỗng tôi giật ḿnh rờn
rợn nghe ai gọi tên. Quay ra, thấy cái mặt
choắt của bác Tỷ ló qua một lỗ hổng
hàng rào câî Bác đứng ở trạm xe buưt, t́nh
cờ ḍm qua hàng rào cây thấy tôi “Cậu Tuấn
làm ǵ trong đó? Không định tự tử
chứ?” “Dạ không đâu, vào đây th́ không
cần tự tử nữa. Bác rảnh không, vào chơỉ”
“Thôi để khi khác, tôi đi lên phố có
việc”.
Tôi nghĩ trừ nhà ḿnh, nghĩa trang là nơi người
ta có thể khóc tự do. Tôi đưa đề
nghị cuối cùng:
- Bác c̣n nhớ cái nghĩa trang năm xưa cháu
rủ bác vào chơi, mà bác hẹn khi khác không? Cũng
gần đâî Ḿnh lại đó ngồi nói
chuyện, được không, bác?
- Cũng được.
Qua cách bác trả lời, tôi biết không phải bác
thích vào nghĩa trang, nhưng sau khi bác bỏ nhiều
đề nghị của tôi, bác cũng phải
chấp nhận một. Trên đường tới nghĩa
trang, tôi để ư dáng đi như con c̣ lội
ruộng sâu là thói quen của bác, chứ không
phải do ảnh hưởng hơi men.
Bác Tỷ trở lại b́nh tĩnh khi chúng tôi
ngồi xuống một ghế đá đầy
nắng thu èo uột, và mồi thuốc hút. Trong
bầu không khí lành lạnh, và hơi thuốc
thấm vào phổi nồng nàn, tôi nghe giọng bác cưng
cứng, rời rạc, điểm những tiếng
hít nước miếng trong hàm răng lưa thưa.
Lần đầu tiên tôi nghe câu truyện thực
về vợ bác. Năm đó, bác ra đi không
được bao lâu th́ ở nhà vợ theo người
khác. Giấy tờ bảo lănh bà vất đi.
Tiền bác gởi về để chạy chọt,
bà tiêu vào việc khác, như mua xe Honda cho người
đàn ông mới. Bác độc đinh, không có
một người họ hàng nào đứng ra ngăn
cản việc làm của vợ bác.
- Thế ai cho bác biết những việc đó? Tôi
hỏi. Bác đáp:
- Lúc đầu tôi không biết đâu. Sau chính nó
biên thư kể.
- Nghĩa là?
- Tôi gởi tiền về hoài mà nó không lo được,
tôi biên thư bảo để tôi dùng tiền
nhờ người lo, nó cuống lên biên thư
bảo đừng. Tôi bảo cứ. Nh́ nhằng
cả năm trời, cuối cùng nó phải thú
thật nó không đi được v́ trót có
chồng khác rồi.
- Rồi bác cúp viện trợ?
- Cúp đếch được. Không đành. Ngày xưa
nó theo ḿnh. Tự ḿnh bỏ đi, nó theo người
khác. Phải gởi tiền cho nó sống chứ.
Tôi nghĩ tới đồng lương hưu tàn
phế của bác và tuổi của bác. Tôi liếc
nh́n ngôi mộ bên cạnh mà năm sanh lớn hơn
năm sanh của bác.
Thấy người ngồi lâu, những con chim sẻ
bắt đầu mon men tới kiếm ăn. Bác moi
trong túi áo những mẩu bánh vụn từ đời
nào, thả xuống đất. Những con sẻ
đáp xuống, nhưng không dám lại gần.
Chỉ có một con bạo dạn, sán lại mổ.
Đó là một con chim non, nhảy xiêu vẹo, bộ
lông tả tơi thỉnh thoảng chổm lên như
người mặc áo tơi đi ngược gió.
Gió trong nghĩa trang rất nhe..
- Mùa này mà c̣n chim non. Bác bỏ dở câu truyện,
chăm chú quan sát con chim nhỏ khờ khạo, nói
thế.
Không hiểu tại sao nghe câu nói tôi xúc động.
- Một con chim nở trái mùa. Tôi hạ giọng nói
theo, và tự nhiên giang chân ra, để cho cái chân
ngắn của bác đong đưa chạm vào chân
ḿnh. Tôi tiếp: Bác ạ, cháu lấy làm lạ
về trường hợp người đàn bà nàî
Từ xưa tới nay, người ta t́m mọi cách,
kể cả bỏ chồng, bỏ vợ, bỏ đảng,
để ra nước ngoài; tại sao bà có dịp
bằng vàng, lại từ chối? Cũng đáng
phục chứ, bác?
Bác im lặng một lúc lâu. Châm thuốc mới,
trả lời trong hơi khói, gật gù:
- Phục th́ chẳng có ǵ phải phục. Muốn
th́ làm thôi. Mỗi người có sở nguyện
riêng.
Gần hai chục năm trời quen biết, tôi chưa
bao giờ nghe bác triết lư vặt. Bây giờ nghe
bác nói thế, tôi ngạc nhiên vô cùng. Đồng
thời tôi tự hỏi ông già t́nh cờ bị
bắt cóc đi vượt biên, xa quê, mất vơ....
có phải do sở nguyện không? Có phải cuộc
sống cô đơn hai mươi năm nay là do bác
tự chọn không?
Tôi quay sang nh́n bác. Miệng bác phụng phịu như
đứa trẻ định nói một điều
khó khăn, măi mới ra lời:
- Tôi cũng mừng cho bà ấy có chỗ nương
tựa.
Tôi càng ngạc nhiên hơn. Chỗ nương tựa
nào -bác hay người đàn ông kia? Lần đầu
tiên tôi thấy tâm hồn và suy nghĩ của ông già
này cũng... phức tạp, chứ không phải chơi.
Tôi hỏi:
- Bác, bác mừng cho bác gái, tại sao hồi năy
nhắc tới việc bác gái có chồng khác, bác
khóc?
- Tôi có khóc sao? H́ h́. Tự gặp lại cậu, có
người nói chuyện, mừng quá chảy nước
mắt thôi.
́i ! Bác cũng cần người nói chuyện sao ?
Tôi cứ tưởng cái mảnh đời đơn
giản như con sứa, trong rỗng đó, chẳng
c̣n ǵ đáng nói .
|