Anh Thơ: Nữ sĩ từ bến sông Thương
- Phan Hoàng -
Năm 1957, sau một thời gian
dài được giới văn chương mối mai và kiên tŕ theo đuổi, bác sĩ khoa thần kinh
Bùi Viên Dinh đă chinh phục được trái tim nữ sĩ Anh Thơ. Đôi vợ chồng son trên
dưới tứ tuần đưa nhau về hưởng hạnh phúc ở gian cḥi riêng biệt trên gara ô-tô
nhà số 5 phố Ḥa Mă, Hà Nội. Hơn bốn mươi năm qua, theo ḍng thời cuộc đổi dời,
địa chỉ hạnh phúc của họ cũng nhiều lần dời đổi. Bây giờ là một căn pḥng ở ngơ
Văn Chương.
Khẽ cầm tập thơ "Lệ sương", nữ sĩ ngậm ngùi bảo: "Đây là tập thơ tôi làm tặng
riêng nhà tôi sau khi ông mất cách nay bốn năm. "Lệ sương" lấy ư từ câu thơ "Tuổi
già giọt lệ như sương". Cứ ngỡ hạnh phúc là bất biến nên khi ông c̣n sống, tôi
không tận hưởng hạnh phúc gia đ́nh mà chỉ lo sự nghiệp thơ ca. Giờ sống một ḿnh,
tôi mới thấm thía tầm quan trọng của đời sống gia đ́nh, mới biết hạnh phúc gia đ́nh
có ư nghĩa gắn liền với sự nghiệp. Từ khi nhà tôi mất, tôi cũng ít viết!". Tâm
sự đầy xúc động của nữ sĩ Anh Thơ đă mở đầu cuộc tṛ chuyện. Trong giọng nói nhỏ
nhẹ, chân t́nh của bà, trong cái dáng khoan thai, mực thước của bà vẫn lấp lánh
h́nh ảnh cô gái chân quê bên bến sông Thương yêu thơ cuồng nhiệt đến mức luôn
t́m cách vượt khỏi rào cản "lễ giáo gia phong" khắc nghiệt, h́nh ảnh làm phấp
phỏng con tim bao chàng trai cùng thế hệ, trong đó có hai "ông hoàng" thơ t́nh
Việt Nam.
Nữ sĩ Anh Thơ tên thật Vương Kiều Ân, cất tiếng khóc chào đời ngày 25-1-1921 tại
thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, trong một gia đ́nh có truyền thống Nho học.
Mùa thi năm mười hai tuổi, Anh Thơ được bố đưa về quê nội ở thị xă Bắc Giang
thuộc tỉnh Bắc Giang, bên bờ con sông Thương hiền ḥa, thơ mộng, sống với bà nội,
tiếp tục đi học trường nữ học của tỉnh. Từ đây, con đường thi ca của người đẹp
sông Thương bắt đầu kết nhụy đơm hoa. Bà nhớ lại:
- Tuổi thơ tôi may mắn gắn liền với ruộng đồng, sông nước quê hương, lại được
nuôi dưỡng trong gia đ́nh yêu thi phú, âm nhạc. Người mà tôi chịu ảnh hưởng đầu
tiên là ông ngoại. Vốn là một Phó bảng gốc Sơn Tây, ông được bổ làm đốc học Bắc
Giang. Cụ yêu quư một cậu học tṛ nghèo có chí ở địa phương, đem gả con gái cho.
Đó chính là bố mẹ tôi. V́ ghét Tây, cụ xin về hưu, đi lập ấp ở làng Lát thuộc
huyện Việt Ngàn, tỉnh Bắc Giang. Bề ngoài mộ dân lập ấp khai hoang, nhưng bên
trong mưu đồ làm hậu cần cho nghĩa quân Đề Thám. Sau vụ đánh thuốc độc sĩ quan
Pháp ở Hà Nội bị lộ, cụ Đề Thám lánh về ấp Lát một đêm. Ông ngoại tôi có làm thơ
an ủi Đề Thám. Ông cụ cũng làm nhiều thơ bày tỏ nỗi ḷng của ḿnh trước vận nước,
thơ về đạo làm người.
* Bà có c̣n nhớ hay lưu giữ những bài thơ của ông ngoại?
- Có. Tôi c̣n giữ truyện thơ Tỳ bà của ông viết theo lối cổ, rất hay. Truyện nói
về một cô con dâu, chồng đi thi, ở nhà nuôi bố mẹ chồng hết mực hiếu nghĩa. Mất
mùa, nàng phải đi xin phát chẩn, về giă lấy gạo nuôi bố mẹ, c̣n ḿnh chỉ ăn trấu
cám. Mẹ chồng nghi ngờ, ŕnh xem con dâu ăn ǵ. Biết được sự t́nh, bà quá xúc động,
ngất chết. Tang lễ mẹ chồng xong, v́ đói kém, nàng phải cắt tóc đem bán để nuôi
bố chồng, đợi chồng ứng thi trở về...
Bà ngoại tôi hay ru Tỳ bà cho con cháu. Bà con đàn rất hay, từng được vua nhà
Nguyễn mời vào cung dạy đàn cho phi tần. Sau bà mất, để lại cây đàn thập lục quư
cho bố tôi. Bố tôi cũng là người rất mê thi phú, hay ngâm vịnh đối đáp với bạn
bè. Tôi chịu ảnh hưởng nhiều ở bố. Cuộc đời ông là chuỗi dài thất vọng. Ông
không có dịp trổ tài thám bảng, khi nhà nước bỏ khoa thi chữ Hán. Rồi phong trào
Văn thân tan ră, ông mất hy vọng sống trong một đất nước độc lập tự do. Ông cũng
chán chường khi thấy những đồng môn xuất thân khoa bảng lại phải nhún nhường,
lép vế trước bọn mật thám, bồi bếp có thế lực, chức vị. Trong gia đ́nh, ông cũng
buồn phiền khi mẹ tôi sinh toàn con gái, không có con trai nối dơi tông đường.
Khi tôi lớn lên, bố đặt nhiều hy vọng ở tôi, v́ cho rằng tôi thông minh bẩm sinh,
nhưng rồi ông cũng thất vọng khi tôi không chịu tiếp tục học trường nữ Bắc Giang.
* Bà bắt đầu sáng tác vào lúc nào?
- Năm mười hai tuổi. Sau khi nghỉ học, tôi ở nhà phụ giúp mẹ chăm sóc đàn em.
Hầu như mẹ tôi luôn bụng mang dạ chửa, tôi là chị lớn nên lo mọi việc. Tôi thích
nhất mỗi sáng đi chợ, qua đường cái quan trải đá, có hoa phù dung nở trắng tường
gạch, rồi những hàng tre và một cánh đồng thẳng tắp trước khi dẫn đến chợ. Tôi
có người cô có chồng vốn là lính khố xanh Pháp, sống cùng gia đ́nh. Cô tôi đẹp
người, học lớp nh́, biết tiếng Pháp, thích đánh đàn và làm thơ. Lúc rỗi răi tôi
hay lục sách của cô ra đọc. Từ "Tái sinh duyên", "Đông Chu liệt quốc", "Song phượng
kỳ duyên"..., đến "Kiều", "Lục Vân Tiên", "Chinh phụ ngâm", thơ Hồ Xuân Hương,
bà Huyện Thanh Quan và nhất là thơ tả cảnh của Nguyễn Khuyến. Tôi cũng trộm đọc
của bố tôi tập "Văn đàn bảo giám", thuộc ḷng từ thơ Lê Thánh Tôn đến các nhà
thơ Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tôi chú ư đến bảng luật bằng, trắc và cách bố cục
của bài thơ bát cú Đường luật. Và những bài thơ đầu tiên tôi viết bắt chước theo
thể này. Nội dung th́ thật lung tung. Hết làm thơ "nói chí" theo cách của bố,
đến viết trường ca về chuyện con vua Hùng dong buồn gấm rong ruổi đầu non cuối
bể hoặc chuyện chàng Trương Chi bị Mỵ Nương chê xấu...
* Bà tiếp cận với Thơ Mới lúc nào, thưa bà?
- Vào khoảng năm 16-17 tuổi. Tôi nhớ một hôm bố tôi mua về tờ báo "Phong hóa" có
đăng bài thơ của Thế Lữ:
Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát.
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời.
Gió nồng gieo trên hồ sen rào rạt.
Mùa xuân c̣n, hết? Khách đa t́nh ơi!...
Càng đọc tôi càng thích cái âm điệu thiết tha, cái không khí náo nức, mà tự
nhiên, trong sáng, khác với cái nghiêm trang, nặng nề của thơ Đường luật. Rồi
đến những bài thơ t́nh nồng nàn, cháy bỏng của Xuân Diệu, thơ tả cảnh của Huy
Cận, thơ về xứ Hời đau xót của Chế Lan Viên, thơ về cảnh xưa người cũ của Nguyễn
Nhược Pháp... Tôi chuyển sang làm "Thơ mới" từ đó. Nhưng viết ǵ để khỏi trùng
lặp các nhà thơ trên? Lúc đầu cũng bắt chước lung tung (cười), rồi dần ư thức
lối đi riêng cho ḿnh bằng những bài thơ tả cảnh về bộ tranh tứ quư trong pḥng
mẹ tôi, đến cảnh làng mạc, ruộng đồng, sông nước quê hương.
* Phụ nữ dấn thân vào con đường văn chương ở Việt Nam ngày xưa rất hiếm. Cả đến
cái thời của bà bắt đầu cầm bút. Riêng trường hợp bà, có gặp phản ứng ǵ từ người
thân không?
- Ôi, khổ lắm anh ạ! Lần thứ nhất phát hiện tập thơ tôi, bố tôi gọi cả mẹ và tôi
ra. La mẹ xong, ông nh́n tôi nghiêm giọng: "Tao học năm xe kinh sử, già nửa đời
người mà chưa dám làm thơ. Con một chữ Hán bẻ đôi không biết, quốc ngữ th́ bỏ dở
dang, làm thơ thế nào được? Chỉ tổ lăng nhăng, lít nhít! Cấm! Nghe chưả". Vừa
nói ông vừa đốt cả tập thơ. Nhờ phép nhà xưa, bố không được vào buồng con gái
nên tôi vẫn c̣n nơi ẩn náu tự do làm thơ (cười hồn nhiên). Lần thứ hai vớ được
những bài thơ của tôi, bố nọc tôi ra giữa nhà đánh. May có người giúp việc là
chị Sen lăn vào đè lên người tôi đỡ đ̣n. Bố tôi giam lỏng tôi trong nhà, không
cho vào buồng làm thơ nữa, trừ khi đi ngủ. Dù vậy, nhờ sự nuông chiều của mẹ và
chị em trong nhà, tôi vẫn... tranh thủ mọi cách để làm thơ (cười).
* Trong hoàn cảnh như vậy, làm sao bà có thể hoàn thành tập "Bức tranh quê" gởi
dự thi và đoạt giải "Tự lực văn đoàn" năm 1939?
- Tôi biết tin cuộc thi qua báo "Ngày nay" khi hạn nộp bài chỉ c̣n một tháng. Để
canh chừng bố tôi, chị Hai phân công các em tôi mỗi đứa canh mỗi bậc thang vào
lúc bố ngủ trưa trên gác. Hễ nghe tiếng động là báo ngay. Tôi viết bằng bút ch́
với quyển sổ nhỏ để dễ giấu. Mỗi buổi trưa tôi làm một bài. Chưa biết yêu nên
tôi không thể làm thơ t́nh như Xuân Diệu, hoặc làm thơ Bạch Nga mười hai chân như
Nguyễn Vỹ, mà chỉ làm thơ tả cảnh quê hương ḿnh đang sống. Nghĩ đến đâu, thích
cảnh ǵ, tôi làm thơ về cảnh ấy. Làm rất nhanh. Đúng ngày hết hạn nộp, tôi viết
xong 30 bài.
* Tâm trạng của bà khi hay tin...
- Ôi đầy sung sướng, tự hào. Bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ cảm xúc hân hoan của ḿnh
lúc ấy. Vừa tự hào vừa lo sợ. V́ từ bé, tôi có bao giờ rời bến sông Thương để
đến chốn Hà Thành đô hội, giờ lại được mời lên ṭa báo "Ngày nay" nhận giải thưởng,
được gặp các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Như từ dưới đất chợt bay bổng lên mây
vậy. Giải thưởng năm đó, về văn trao cho Kim Hà và Mạnh Phú Tư. Về thơ không có
giải nhất, giải nh́ mà chỉ có giải khuyến khích và tôi được mời lên ṭa báo lĩnh
thưởng, dự tiệc trà.
* Bà c̣n nhớ số tiền thưởng nhận được?
- 30 đồng. Mà gạo lúc đó 3 đồng/1 tạ. Tức trị giá một tấn gạo. Nhận số tiền ấy
về, tôi nhờ bà chị mua cho mỗi người trong gia đ́nh một bộ quần áo. Riêng bố th́
mua cái cặp. Không nói ra, nhưng bố tôi có vẻ ân hận...
* Tính đến tập "Lệ sương" in năm 1995, bà đă có mười bốn tác phẩm. Trong số này
bà cảm thấy ưng ư đứa con tinh thần nào nhất, thưa bà?
- Đứa con đầu tiên, "Bức tranh quê". Đó là tất cả vốn liếng tuổi thơ của tôi. Viết
vội vàng, chưa nắm kỹ thuật nhưng nó là xúc cảm trung thực, hồn nhiên như cảnh
vật tôi đă sống. Cảnh vật vui, tôi vui. Cảnh vật buồn, tôi buồn. Tôi với cảnh
vật là một.
* Theo bà, đâu là điểm mạnh của phụ nữ trong sáng tác?
- Họ tinh tế và sâu sắc trong phản ánh tâm tư, t́nh cảm gia đ́nh. Ngược lại,
những vấn đề lớn của xă hội, đất nước th́ họ chưa từng trải và ít có vốn sống.
* Gần tuổi 80 mà trông bà vẫn c̣n nhanh nhẹn, cuốn hút, chẳng trách ngày xưa hai
bậc tiền bối Nguyễn Bính mê rồi Xuân Diệu quư bà?
- (Cười rất trẻ trung) Tôi mê thơ Nguyễn Bính, rồi yêu nhau qua thư từ, thơ ca.
Tuy nhiên, khi gặp trực diện ông ấy lần đầu ở Bắc Giang, tôi thấy không hợp. Khi
c̣n là cô gái chân quê, tôi chơi với nhóm bạn thơ nữ "Sông Thương" gồm Thanh Ngà,
Lệ Hoa, Mộng Lan và tôi, đứa nào cũng hứa quyết tâm lấy chồng thi sĩ. Trong mắt
các cô gái trẻ, thi sĩ là h́nh ảnh thiêng liêng lắm. Tôi yêu Nguyễn Bính, nhiều
đứa rất ghen. V́ ông ấy đang nổi tiếng.
* Vậy c̣n Xuân Diệu th́ sao?
- Ông Xuân Diệu tôi đặc biệt quư. "Ông hoàng" thơ t́nh đẹp trai này là h́nh ảnh
lư tưởng của các cô gái. Sau khi ḥa b́nh lập lại ở miền bắc, anh Xuân Diệu và
tôi sinh hoạt cùng chi bộ. Chúng tôi thực sự quư nhau. Anh vẫn thường xuyên đến
để chồng tôi chữa bệnh cho anh, ăn cơm với vợ chồng tôi. Anh rất thèm không khí
gia đ́nh. Có khi anh ngồi măi ở nơi tôi nấu nướng, xem tôi nhặt rau, thái thịt.
Anh với nhà tôi cũng hết sức quư nhau!
Tôi với anh có t́nh thân như đôi bạn thơ tri kỷ.
... Hồi ức của nữ sĩ Anh Thơ về nhà thơ Xuân Diệu và người bạn đời quá cố của bà
hết sức sâu sắc, xúc động. Tôi cảm tưởng bà kể bằng con tim chứ không phải bằng
ngôn từ nữa! Trước khi tạm biệt, chúng tôi c̣n được nữ sĩ lư giải khá thú vị về
xuất xứ cái tên sông Thương theo lời người xưa, mà từ đó bà bắt đầu giấc mộng
tang bồng thi ca: Bến sông này vốn là cánh rừng bạt ngàn hoang vắng. Khi những
người vợ tiễn chồng đi thú ngoài biên ải, họ đến bến sông này th́ bị rừng rậm ngăn
lại. Đứng bên này bờ, dơi theo bóng chồng dần xa hút, nước mắt những người vợ
trẻ tuôn trào như mưa. Cái tên sông Thương cất lên từ sự chia cắt ấy. Rồi nó lặng
lẽ nhập vào hồn thơ cô gái chân quê năm nào...