Đoạn
4 : Lênin và tổ chức đảng
Chúng ta hăy nhớ
lại vài sự kiện lịch sử.
Trong những ngày
trước cách mạng tháng Mười, hai ủy viên Ban
chấp hành trung ương đảng bônsêvích, Kamênép và
Dinôviép đă chống lại kế hoạch khởi
nghĩa vũ trang của Lênin(1). Hơn thế
nữa, ngày 18-10, họ lại đăng trên tờ Nôvaia
Giưdin(2) của phái mensêvích một lời tuyên bố,
trong đó họ đề cập đến việc
đảng bônsêvích đang chuẩn bị cuộc khởi
nghĩa vũ trang mà họ (Kamênép và Dinôviép) coi là một
hành động phiêu lưu mạo hiểm. Như thế,
Kamênép và Dinôviép đă tiết lộ cho kẻ thù biết
nghị quyết của Ban chấp hành trung ương
về cuộc khởi nghĩa, nhất là họ công bố
cuộc khởi nghĩa sẽ xảy ra trong ṿng vài ngày.
Đó là một hành
động phản bội đối với đảng
và đối với sự nghiệp cách mạng. Về
vấn đề này, Lênin đă viết :
Kamênép và Dinôviép
đă tiết lộ nghị quyết của Ban chấp
hành trung ương đảng về cuộc khởi
nghĩa vũ trang cho Rốtdiankô và Kêrensky(3)...
Và Lênin đă
đề nghị Ban chấp hành trung ương khai
trừ Kamênép và Dinôviép khỏi đảng(4).
Nhưng sau khi
cuộc đại cách mạng xă hội chủ nghĩa
tháng Mười thành công, ai cũng biết Dinôviép và Kamênép
đă giữ các chức vụ lănh đạo. Lênin đă
đưa họ vào những cương vị mà tại
đó, họ đă chỉ đạo việc thực
hiện những nghị quyết rất quan trọng
của đảng. Họ cũng tham gia tích cực vào công
tác lănh đạo các tổ chức đảng và
xô-viết.
Chúng ta cũng
biết Dinôviép và Kamênép c̣n phạm hàng loạt sai lầm
khác - không kém phần nghiêm trọng - trong lúc sinh thời
Lênin. Trong Di chúc chính trị của ḿnh, Lênin đă
nhắc nhở : "Biến cố tháng Mười
của Dinôviép và Kamênép tất nhiên không t́nh cờ."
Dù vậy, Lênin
không đặt vấn đề bắt bớ họ và
dĩ nhiên, càng không có chuyện xử tử họ.
Hoặc, hăy xem
thí dụ của phái trốt-kít. Ngày nay, sau một giai
đoạn lịch sử tương đối dài, chúng
ta có thể hoàn toàn b́nh tĩnh nói về cuộc đấu
tranh chống phái trốt-kít và có thể phân tích vấn
đề này với độ khách quan cần thiết.
Trước tiên,
những người đứng xung quanh Trốtsky, xét
về thành phần xă hội, không thể liệt vào thành phần
tư sản. Trong số họ, một số là trí
thức và một số khác là những đảng viên có
gốc rễ lao động. Chúng ta có thể nhắc
đến tên nhiều người, thời xưa từng
ủng hộ Trốtsky. Nhưng những người
ấy - trước cách mạng và trong cuộc cách mạng
tháng Mười - đă tham gia tích cực vào phong trào công
nhân, sau đó, họ đă đấu tranh củng cố
thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ
đại đó(5).
Nhiều người
trong số họ đă đoạn tuyệt phái trốt-kít
và quay về lập trường lê-nin-nít. Thử hỏi có
cần thiết phải tàn sát họ hay không ? Chúng ta
tin chắc nếu Lênin c̣n sống, không bao giờ những
biện pháp cực đoan lại được mang ra áp
dụng đối với họ.
Đây chỉ là
một vài sự kiện lịch sử. Nhưng phải
chăng có thể nói Lênin đă không dùng những biện
pháp nghiêm khắc đối với kẻ thù của cách
mạng, khi quả thực điều đó là cần
thiết ?
Không, chúng ta không
thể nói như thế. Vlađimia Ilích không chấp
nhận bất cứ một thỏa hiệp nào
đối với những kẻ thù của cách mạng và
của giai cấp công nhân, và khi cần thiết,
đồng chí không ngần ngại sử dụng những
phương pháp cương quyết nhất. Chúng ta hăy
nhớ lại Lênin đă chiến đấu như thế
nào để chống lại các tổ chức của
bọn xă hội cách mạng(6) khi lũ này nổi
dậy chống chính quyền xô-viết, chống lại
phong trào phản cách mạng năm 1918 của bọn phú
nông (cu-lắc) v.v... Trong những trường hợp
đó, Lênin không ngần ngại dùng những phương
pháp cứng rắn nhất.
Nhưng Lênin
chỉ dùng các biện pháp này để chống lại
kẻ thù giai cấp thực thụ. Đồng chí không áp
dụng nó với những cán bộ chỉ mắc sai
lầm, có thể sửa chữa được bằng
giáo dục tư tưởng, thậm chí sau đó c̣n có
thể đặt họ và các cương vị lănh
đạo.
Lênin chỉ
sử dụng những biện pháp nghiêm khắc trong trường
hợp cần thiết thực sự : khi giai cấp
bóc lột c̣n tồn tại và chống đối cách
mạng quyết liệt, khi cuộc đấu tranh cho
sự sống c̣n được biểu lộ dưới
những h́nh thức gay go nhất, kể cả h́nh
thức nội chiến.
Ngược
lại, Stalin đă áp dụng những biện pháp
đặc biệt và khủng bố hàng loạt khi
cuộc cách mạng đă toàn thắng, khi nhà nước
xô-viết đă được củng cố, khi giai
cấp bóc lột đă hoàn toàn bị dẹp tan, khi nền
móng vững chăi của những quan hệ xă hội chủ
nghĩa đă cắm rẽ ở khắp các ngành của
nền kinh tế quốc gia, khi đảng đă vững
mạnh về phương diện chính trị và ngày càng
được củng cố về mặt nhân sự
cũng như về ư thức hệ.
Hoàn toàn rơ ràng,
trong nhiều trường hợp, Stalin đă bộc
lộ rơ rệt cách cư xử không thể dung thứ,
bản tính lỗ măng và lạm dụng chức quyền.
Đáng lẽ phải chứng tỏ đường lối
chính trị đúng đắn, đáng lẽ phải
động viên quần chúng, đằng này Stalin lại
chọn con đường đàn áp và thủ tiêu thể
xác, không chỉ với kẻ thù thực sự mà c̣n
đối với những người không mảy may
chống lại đảng hay chính phủ Liên Xô. Không
thể coi đó là hành động sáng suốt, đây
chỉ là biểu hiện của bản tính thô lỗ mà trước
đây Lênin đă tiên đoán và đă lo ngại.
Sau này, nhất là
sau khi bè lũ Bêrya bị vạch mặt, Ban chấp hành
trung ương đă nghiên cứu nhiều vụ việc
mà bọn này đă ngụy tạo ra(7). Kết quả
cho thấy một bức tranh kinh hoàng của toàn bộ
thể chế độc đoán, có liên quan mật
thiết đến thái độ sai trái của Stalin.
Thực tế
đă chứng tỏ, Stalin - trong khi sử dụng
quyền hành vô giới hạn của ḿnh - đă nhân danh Ban
chấp hành trung ương mà không hỏi ư kiến các
ủy viên Trung ương, thậm chí, đồng chí
ấy cũng không xin ư kiến các ủy viên Bộ Chính
trị. Nhiều khi, Stalin chẳng hề báo cáo cho các
ủy viên Trung ương biết những quyết
định cá nhân trong các vấn đề hệ trọng
của đảng và của chính phủ.
Nghiên cứu
vấn đề sùng bái cá nhân, trước hết chúng ta
cần chỉ ra : thứ sùng bái cá nhân này đă gây
những tai hại đến mức nào cho đảng
chúng ta.
Lênin luôn luôn
nhấn mạnh vai tṛ và tầm quan trọng của
đảng trong việc lănh đạo chính phủ xă
hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân ;
đồng chí coi đó là điều kiện hàng
đầu cho sự thành công của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xă hội ở nước ta. Nhấn
mạnh trọng trách của đảng bônsêvích - trên vai tṛ
một chính đảng lănh đạo nhà nước
xô-viết -, đồng thời Lênin đ̣i hỏi chúng
ta phải nghiêm chỉnh tôn trọng những chuẩn
mực trong sinh hoạt đảng, đ̣i hỏi chúng ta
thực hiện nguyên tắc tập thể trong việc lănh
đạo đảng và nhà nước.
(1)
Trong hội nghị lịch sử quyết định
khởi nghĩa của Ban chấp hành Trung ương
bônsêvích (ngày 10-10-1917), Dinôviép và Kamênép đă bỏ phiếu
chống lại cuộc khởi nghĩa tháng Mười.
(2)
Tờ báo của Mắcxim Gorky.
(3)
Mikhain Rốtdiankô : chủ tịch Viện Đuma trong cách
mạng tháng Hai. Alếchsanđrơ Kêrensky (1881-1970) :
lănh tụ đảng Lao động (gần khuynh hướng
với đảng Xă hội Cách mạng), nghị sĩ
Viện Đuma, bộ trưởng Tư pháp và Quốc pḥng,
chủ tịch Chính phủ Lâm thời tháng 7 đến
tháng 10-1917. Bị lật đổ và chạy trốn trong
cách mạng tháng Mười.
(4)
Cuối cùng, hai người này chỉ bị khai trừ
khỏi Ban chấp hành Trung ương.
(5)
Trái với Stalin và những sự vu khống của các
đảng cộng sản trên thế giới, Khrushốp
công nhận Trốtsky và những người trốt-kít
"không thể liệt vào thành phần tư sản".
Nói cách khác, trốt-kít là những người trong giai
cấp công nhân. Nhưng cũng như Stalin, Khrushốp không
công nhận việc Trốtsky có quyền có khuynh hướng
chính trị khác với ban lănh đạo đảng.
Những tấn thảm kịch - trong đó hàng triệu
đảng viên cộng sản Liên Xô bị sát hại - là
do quan niệm ngăn cấm sự tự do dân chủ vô
sản. Đó là quan niệm "độc đảng" và
"đảng một khối" thịnh hành ở Liên
Xô và các nước xă hội chủ nghĩa cũ thời
xưa.
(6)
Đảng Xă hội Cách mạng thành lập năm 1901 từ
những nhóm dân túy, gồm tiểu tư sản, nông dân,
giáo học, bác sĩ v.v..., có nhiều ảnh hưởng
trong nông dân. Không công nhận cách mạng tháng Mười,
các thành viên đảng này đă tổ chức những
cuộc đề kháng quân sự và khủng bố vũ
trang, nhất là trong thời kỳ nội chiến 1918-1920.
(7)
Trước khi Bêrya bị bắt, đảng đă mở
cuộc điều tra về các vụ khủng bố dưới
thời Stalin. Ngày 4-4-1953, "bọn áo choàng trắng" -
do Stalin hạ lệnh bắt - đă được
trả tự do.