Kinh
tế thị trường định hướng XHCN:
Quan niệm và giải pháp phát triển
Bài tham luận của
ông Nguyễn Phú Trọng
Các bài phê b́nh:
Lư Luận Làm Xàm, Ngô Nhân Dụng
Mâu Thuẫn Các Nước Giàu Nghèo, Ngô
Nhân Dụng
Về
Bài Phát Biểu Của Ông Nguyễn Phú Trọng, Hoàng Quế
Nguyễn Phú
Trọng thiếu lư luận chặt chẽ, không có cơ
sở thực tế khách quan, Lê Xuân Phong
Kinh tế thị trường định
hướng XHCN: Quan niệm và giải pháp phát triển
Nguyễn Phú Trọng
I- V́ sao Việt Nam lựa chọn mô h́nh
kinh tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa ?
1- Như mọi người đă
biết, kinh tế thị trường là một kiểu
tổ chức kinh tế phản ảnh tŕnh độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại.
Từ trước đến nay nó tồn tại và phát
triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư
bản, là nhân tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản đă biết lợi dụng
tối đa ưu thế của kinh tế thị
trường để phục vụ cho mục tiêu phát
triển tiềm năng kinh doanh, t́m kiếm lợi
nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực
lượng sản xuất của xă hội phát triển
mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa đă đạt tới giai
đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các
nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó c̣n có mặt trái, có
khuyết tật từ trong bản chất của nó do
chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc
lộ sâu sắc, không giải quyết được các
vấn đề xă hội, làm tăng thêm tính bất công và
bất ổn của xă hội, đào sâu thêm hố ngăn
cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn
thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa
hiện nay, nó c̣n ràng buộc các nước kém phát triển
trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc
lột theo quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Có
thể nói, nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống
trị của một số ít nước lớn hay là
một số tập đoàn xuyên quốc gia đối
với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu
thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính v́ thế mà, như C.Mác đă phân
tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất
yếu phải nhường chỗ cho một phương
thức sản xuất và chế độ mới văn
minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư
bản mặc dù đă và đang t́m mọi cách để
tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát
triển "nền kinh tế thị trường
hiện đại", "nền kinh tế thị
trường xă hội", tạo ra "chủ nghĩa
tư bản xă hội", "chủ nghĩa tư bản
nhân dân", "Nhà nước phúc lợi chung"...,
tức là phải có sự can thiệp trực tiếp
của Nhà nước và cũng phải chăm lo vấn
đề xă hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn
từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư
bản không thể tự giải quyết được,
có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu
được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa
hiện đại đang ngày càng thể hiện xu
hướng tự phủ định và tự tiến hóa
để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn
hậu công nghiệp, theo xu hướng xă hội hóa.
Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển
của xă hội. Nhân loại muốn tiến lên, xă hội
muốn phát triển th́ dứt khoát không thể dừng
lại ở kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa.
2- Mô h́nh chủ nghĩa xă hội
kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xă
hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc
phục những khuyết tật của chủ nghĩa
tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế
độ xă hội tốt đẹp hơn, một
phương thức sản xuất văn minh, hiện
đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là
một ư tưởng tốt đẹp, và trên thực
tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ
nghĩa xă hội hiện thực ở Liên Xô đă
đạt được nhiều thành tựu vĩ
đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của
đất nước và đời sống của nhân dân
Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng làm trái quy luật (muốn
xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế
kinh tế phi thị trường), không năng
động, kịp thời điều chỉnh khi cần
thiết cho nên rút cuộc đă không thành công.
Thực ra, khi mới vận dụng
học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xă hội
ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười,
V.I.Lê-nin cũng đă từng chủ trương không áp
dụng mô h́nh kinh tế thị trường mà thực
hiện "chính sách cộng sản thời chiến".
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người
đă phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng
vội bằng cách đưa ra thực hiện "chính
sách kinh tế mới" (NEP) mà nội dung cơ bản
của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa,
chấp nhận ở mức độ nhất
định cơ chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin,
để xây dựng chủ nghĩa xă hội ở
một nước c̣n tương đối lạc
hậu về kinh tế như nước Nga, cần
phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ và
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước để phát triển lực
lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực
hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đă đem lại
những kết quả tích cực cho nước Nga:
hồi phục và phát triển nền kinh tế bị
chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt
đầu hoạt động năng động, nhộn
nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của
V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xă hội với
chính sách NEP đă không được tiếp tục
thực hiện sau khi Người qua đời. Sự
thành công và sự phát triển mạnh mẽ suốt
một thời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công
nghiệp hóa đất nước bằng mô h́nh kinh
tế dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập trung cao
độ; phân phối thu nhập mang tính b́nh quân; kinh
tế hàng hóa, kinh tế thị trường bị
loại bỏ đă có sức hấp dẫn lớn
đối với nhân loại và làm cho giới lư luận
kinh tế các nước xă hội chủ nghĩa và các
nước đang phát triển tuyệt đối hóa,
biến thành công thức để áp dụng cho tất
cả các nước đi theo con đường xă
hội chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá
tŕnh xây dựng chủ nghĩa xă hội, giới lư
luận ở một số nước cũng cảm
thấy có cái ǵ "chưa ổn", cũng đă
đưa ra những kiến nghị, những đề
xuất, đại loại như quan điểm
"chủ nghĩa xă hội thị trường",..
nhưng không được chấp nhận.
Vào cuối những năm 70 của
thế kỷ 20, những hạn chế, khuyết tật của
mô h́nh kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rơ
cộng với sự yếu kém trong công tác lănh đạo,
quản lư lúc bấy giờ đă làm cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xă hội ở Liên Xô và các
nước Đông Ấu rơi vào t́nh trạng tŕ trệ,
khủng hoảng. Một số người lănh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà
nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi t́nh h́nh
bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng
với một "tư duy chính trị mới", họ
đă phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan,
phiến diện (ở đây chưa nói tới sự
phản bội lư tưởng xă hội chủ nghĩa của
họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế
lực thù địch), dẫn tới sự tan ră của
Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xă
hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước xă hội chủ
nghĩa khác ở Đông Ấu vào cuối những năm
80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20
đă làm lộ rơ những khuyết tật của mô h́nh
kinh tế cứng nhắc phi thị trường, mặc
dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân
tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
3- Việt Nam là một nước nghèo,
kinh tế kỹ thuật lạc hậu, tŕnh độ xă
hội c̣n thấp, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xă hội là mục
tiêu lư tưởng của những người cộng
sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng
đi lên chủ nghĩa xă hội bằng cách nào? Đó là
câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn
trả lời thật không đơn giản. Suốt
một thời gian dài Việt Nam, cũng như nhiều
nước khác, đă áp dụng mô h́nh chủ nghĩa xă
hội kiểu Xô-viết, mô h́nh kinh tế kế hoạch
tập trung mang tính bao cấp. Mô h́nh này đă thu
được những kết quả quan trọng,
nhất là đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ đất nước có chiến tranh.
Nhưng về sau mô h́nh này bộc lộ những khuyết
điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng
phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa
của những sai lầm đó là bệnh giáo điều,
chủ quan, duy ư chí, lối suy nghĩ và hành động
đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật
khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xă hội
không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng
đắn hơn và đầy đủ hơn về
chủ nghĩa xă hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam, Đại
hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
12-1986) đă đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội. Đại
hội đưa ra những quan niệm mới về con
đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa
xă hội , đặc biệt là quan niệm về công
nghiệp hóa xă hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng
định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh.
Đại hội chủ trương phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần với những h́nh
thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xă hội ;
chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có
nhận thức mới về chính sách xă hội. Đại
hội VI là một cột mốc đánh dấu
bước chuyển quan trọng trong nhận thức
của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chủ nghĩa xă hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam. Đó là kết
quả của cả một quá tŕnh t́m ṭi, thử
nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng
rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức
của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng
3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước,
đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi
lên chủ nghĩa xă hội, coi "chính sách kinh tế
nhiều thành phần có ư nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
chủ nghĩa xă hội".
Đến Đại hội VII (tháng
6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục nói rơ hơn chủ trương này và khẳng
định đây là chủ trương chiến
lược, là con đường đi lên chủ nghĩa
xă hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xă hội của Đảng khẳng
định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xă hội
chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lư của Nhà
nước". Đại hội VIII của Đảng
(tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới
rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xă hội mà là
thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội và cả khi
chủ nghĩa xă hội đă được xây
dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh
tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa
dùng khái niệm "kinh tế thị trường".
Phải đến Đại hội IX của Đảng
(tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm
"kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa". Đại
hội khẳng định: phát triển kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa là đường lối chiến lược
nhất quán, là mô h́nh kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă
hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau
nhiều năm nghiên cứu, t́m ṭi, tổng kết thực
tiễn; và là bước phát triển mới về tư
duy lư luận của Đảng cộng sản Việt
Nam.
II. Bản chất, đặc trưng
của kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lựa chọn mô h́nh kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh
tế thị trường và chủ nghĩa xă hội, mà
là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận
động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật
phát triển của thời đại và sự khái quát,
đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế
thị trường thế giới, đặc biệt là
từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xă hội
ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa
ra chủ trương phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xă hội. Kinh
tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa là mô h́nh kinh tế trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội.
Đây là một kiểu kinh tế thị trường
mới trong lịch sử của kinh tế thị
trường. Cũng có thể nói kinh tế thị
trường là "cái phổ biến", c̣n kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt
Nam, phù hợp với điều kiện và đặc
điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa có
nghĩa đây không phải là kinh tế thị
trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa,
cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lư theo
kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế
thị trường xă hội chủ nghĩa, bởi v́
như trên đă nói Việt Nam đang ở trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, vừa có
vừa chưa có đầy đủ các yếu tố
của chủ nghĩa xă hội.
Chủ trương phát triển kinh
tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai
tṛ tích cực của kinh tế thị trường trong
việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất,
xă hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật
- công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xă
hội và cải thiện đời sống nhân dân;
đồng thời phải có những biện pháp hữu
hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, như chạy theo lợi
nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt,
bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải
quyết các vấn đề xă hội. Đây cũng là
sự lựa chọn tự giác con đường và mô
h́nh phát triển trên cơ sở quán triệt lư luận Mác
- Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam chỉ rơ: kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường vừa dựa trên cơ sở
và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xă hội,
thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ
chức quản lư và phân phối. Nói cách khác kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lư của Nhà nước
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xă hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xă
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn
liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa có
nhiều h́nh thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
tṛ chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa có sự
quản lư của Nhà nước. Nhà nước xă hội
chủ nghĩa quản lư nền kinh tế bằng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
pháp luật và bằng cả sức mạnh vật
chất của lực lượng kinh tế Nhà
nước; đồng thời sử dụng cơ
chế thị trường, áp dụng các h́nh thức kinh
tế và phương pháp quản lư của kinh tế
thị trường để kích thích sản xuất,
giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích
cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường, bảo
vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn
thể nhân dân.
Kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa thực
hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xă hội. Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xă hội ngay trong từng bước phát
triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào
tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của
một xă hội đang trong quá tŕnh chuyển biến
từ nền kinh tế c̣n ở tŕnh độ thấp
sang nền kinh tế ở tŕnh độ cao hơn
hướng tới chế độ xă hội mới - xă
hội xă hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh
tế thị trường có tổ chức, có sự lănh
đạo của Đảng Cộng sản và sự quản
lư của Nhà nước xă hội chủ nghĩa,
được định hướng cao về mặt xă
hội, hạn chế tối đa những khuyết
tật của tính tự phát thị trường, nhằm
phục vụ tốt nhất lợi ích của đại
đa số nhân dân và sự phát triển bền vững
của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa thể hiện tư
duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và tŕnh độ của lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xă hội ở Việt
Nam.
Có ư kiến cho rằng, không thể có
kinh tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xă hội và
kinh tế thị trường không thể dung hợp với
nhau, nếu đem "ghép" định hướng xă
hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường
th́ chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra
một cơ thể "đầu Ngô ḿnh Sở". Theo
chúng tôi, ư kiến này không đúng. Không đúng là v́, hoặc
ư kiến này muốn tŕ kéo Việt Nam trong quỹ
đạo phát triển của chủ nghĩa tư
bản, phủ nhận định hướng xă hội
chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xă hội, đó là điều trái với quy
luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ư
kiến này không thoát ra được khỏi tư duy
cũ, đồng nhất kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị
trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản, từ đó "dị ứng" với kinh
tế thị trường, không thấy hết những
yếu tố mới, xu hướng mới của kinh
tế thị trường trong điều kiện mới
của thời đại, lặp lại sai lầm
của một thời trước đây.
Cũng có ư kiến nhấn mạnh
một chiều những đặc trưng chung, những
cái phổ biến của kinh tế thị trường,
chưa thấy hết hoặc c̣n phân vân, nghi ngờ về
những đặc điểm riêng, những cái
đặc thù của kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa. Từ
đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể
phát triển trên cơ sở chế độ công hữu
là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo;
rằng trong kinh tế thị trường không thể có
kế hoạch, không thể thực hiện
được công bằng xă hội, không thể khắc
phục được những tiêu cực, mặt trái
của cơ chế thị trường, v.v... Lại có ư
kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn
kinh tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa thực chất là trở về
với chủ nghĩa tư bản, có thêm định
ngữ "định hướng xă hội chủ
nghĩa" th́ cũng chỉ là để cho yên ḷng, cho có
vẻ "giữ vững lập trường" mà thôi,
trước sau ǵ th́ cũng trượt sang con
đường tư bản chủ nghĩa.
Chúng tôi cho rằng những băn
khoăn này là dễ hiểu, bởi v́ đây là những
điều c̣n rất mới mẻ, chưa có tiền
lệ, nếu không xác định rơ nội dung định
hướng xă hội chủ nghĩa và kiên tŕ vai tṛ
quản lư của Nhà nước xă hội chủ nghĩa
đối với nền kinh tế thị trường
th́ những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng
tôi c̣n phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh
nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng
định là : trong điều kiện mới của thời
đại ngày nay, nhất định không thể duy tŕ măi
mô h́nh kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị
trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác
đă phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa
với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái
kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng
định rằng: "...sản xuất hàng hóa và lưu
thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về
nhiều phương thức sản xuất hết
sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng
của chúng không giống nhau... Chúng ta hoàn toàn chưa
biết một tí ǵ về những đặc điểm
riêng của những phương thức sản xuất
ấy và chúng ta chưa thể nói ǵ về những
phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ
biết có những phạm trù trừu tượng của
lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất
cả các phương thức ấy"(1). Phải chăng
việc nhận thức cho đúng và nói cho được
những đặc điểm riêng của những
phương thức sản xuất đặc thù ấy là
trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế
hệ ngày nay?
Lựa chọn mô h́nh kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa không phải đơn giản là sự trở
về với phương thức chuyển nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà
điều quan trọng có ư nghĩa quyết định là
phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại,
văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên
chủ nghĩa xă hội. Đây là sự lựa chọn
phù hợp với các quy luật phát triển và các
điều kiện lịch sử cụ thể của
thời đại và của những nước đi sau,
cho phép các nước này giảm thiểu được
những đau khổ và rút ngắn được con
đường đi của ḿnh tới chủ nghĩa xă
hội trên cơ sở sử dụng được
ưu thế cũng như hạn chế được
những khuyết điểm của hai cơ chế:
kế hoạch và thị trường. Nói cách khác kinh
tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế
đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và
quy luật của hệ thống kinh tế thị
trường, vừa bảo đảm tính định
hướng xă hội chủ nghĩa. Chính tính chất,
đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết
định phương tiện, công cụ, động lực
của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị
trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả
điều tiết của Nhà nước xă hội chủ
nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội
nhập nhằm thúc đẩy quá tŕnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để
trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục
t́nh trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
II- Làm thế nào để phát triển
được kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Đây là một câu hỏi lớn mà
muốn trả lời được đầy
đủ và chính xác phải qua từng bước thử
nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực
tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi
Việt Nam bước vào thực hiện mô h́nh kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đă
đạt được nhiều kết quả và thành
tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rơ t́nh h́nh
đất nước. Kinh tế ra khỏi t́nh trạng
khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng
động và có hiệu quả. Của cải xă hội
ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện.
Đất nước chẳng những giữ vững
được ổn định chính trị trước
những chấn động lớn trên thế giới mà
c̣n có bước phát triển đi lên. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng b́nh quân 7% năm. Nông
nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là
về sản xuất lương thực, nuôi trồng và
khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu
hạ tầng được tăng cường. Các ngành
dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát
triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế không ngừng được
mở rộng,... Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn
đề mới đặt ra cần được
tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh
tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ
vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có
thể xác định những phương hướng,
nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa ở Việt Nam như sau :
1- Phải tiếp tục thực
hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không
nên có thái độ định kiến và kỳ thị
đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy
được vai tṛ chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho
sự phát triển kinh tế, là lực lượng
vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà
nước định hướng và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước
giữ những vị trí then chốt; đi đầu
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu
gương về năng suất; chất lượng,
hiệu quả kinh tế - xă hội và chấp hành pháp
luật.
Đẩy mạnh việc củng
cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu
của các doanh nghiệp nhà nước; đồng
thời tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách để tạo động lực phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh
nghiệp thực sự cạnh tranh b́nh đẳng trên
thị trường, tự chịu trách nhiệm về
sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lăi;
thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh
nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các h́nh
thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xă là
ṇng cốt. Các hợp tác xă dựa trên sở hữu
của các thành viên và sở hữu tập thể, liên
kết rộng răi những người lao động, các
hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và
địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà
nước giúp hợp tác xă đào tạo cán bộ,
ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở
rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ
trợ phát triển hợp tác xă.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ
cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng
lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp
đỡ phát triển, bao gồm cả các h́nh thức
tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho
các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân
được khuyến khích phát triển rộng răi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp
luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi về chính sách, pháp lư để kinh tế
tư bản tư nhân phát triển trên những
định hướng ưu tiên của Nhà nước,
kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển
thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho
người lao động; liên doanh, liên kết với
nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà
nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ
doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển thuận lợi, hướng vào các sản
phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế, xă hội gắn với thu hút công
nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc
làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lư
để thu hút mạnh vốn đầu tư
nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế
tư bản nhà nước dưới dạng các h́nh
thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước
với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho
các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các h́nh
thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp
nhiều h́nh thức sở hữu, giữa các thành phần
kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài
nước. Phát triển mạnh h́nh thức tổ
chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và
sử dụng rộng răi vốn đầu tư xă
hội.
2- Tiếp tục tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường;
đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lư kinh
tế của Nhà nước. Nh́n chung, kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa ở Việt Nam mới được bắt
đầu, tŕnh độ c̣n thấp, chất
lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh
chưa cao. Nhiều thị trường c̣n sơ khai,
chưa đồng bộ. V́ vậy, phải đổi
mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy
mạnh việc h́nh thành các loại thị trường.
Đặc biệt quan tâm các thị trường quan
trọng nhưng hiện chưa có hoặc c̣n sơ khai
như: thị trường lao động, thị
trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, thị trường khoa học và công
nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao
sức mua của thị trường trong nước,
cả ở thành thị và nông thôn, chú ư thị
trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ
động hội nhập thị trường quốc
tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền
kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới
sâu rộng cơ chế quản lư kinh tế, phát huy
những yếu tố tích cực của cơ chế
thị trường, triệt để xóa bỏ bao
cấp trong kinh doanh, tăng cường vai tṛ quản lư và
điều tiết vĩ mô của Nhà nước,
đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham
nhũng, lăng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi
trường pháp lư thuận lợi, b́nh đẳng cho các
doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát
triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng
lực lượng vật chất của Nhà nước
để định hướng phát triển kinh tế -
xă hội, khai thác hợp lư các nguồn lực của
đất nước, bảo đảm cân đối
vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập;
kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo
quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm
hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công
cụ quản lư vĩ mô của Nhà nước đối
với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi
trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới
công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công
tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xă hội; tăng
cường công tác thông tin kinh tế - xă hội trong
nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê;
ứng dụng rộng răi các thành tựu khoa học và công
nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra t́nh h́nh thực
hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3- Giải quyết tốt các vấn
đề xă hội, hướng vào phát triển và lành
mạnh hóa xă hội, thực hiện công bằng xă
hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng
của định hướng xă hội chủ nghĩa, bảo
đảm tính ưu việt của chế độ xă
hội mới. Điều đó chẳng những tạo
động lực mạnh mẽ nhằm phát triển
sản xuất, tăng năng suất lao động, mà
c̣n thực hiện b́nh đẳng trong các quan hệ xă
hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp
pháp, điều tiết các quan hệ xă hội.
Trong t́nh h́nh cụ thể hiện nay
ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp
tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc, bảo đảm
an toàn vệ sinh lao động, pḥng chống tai nạn và
bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Từng bước mở rộng hệ thống bảo
hiểm xă hội và an sinh xă hội. Sớm xây dựng và
thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao
động thất nghiệp. Cải cách cơ bản
tiền lương đối với cán bộ, công
chức, khuyến khích người có tài, người làm
việc giỏi, khắc phục t́nh trạng lương
và trợ cấp bất hợp lư; tôn trọng thu nhập
hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện
chương tŕnh xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc
những người có công với nước,
thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt
sĩ, gia đ́nh chính sách - một yêu cầu rất lớn
đối với một đất nước phải
chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh.
Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu
tranh pḥng chống tội phạm, giữ ǵn trật tự
và kỷ cương xă hội, ngăn chặn và bài trừ
các tệ nạn xă hội, nhất là tệ nạn ma túy,
mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi
trái pháp luật và đạo lư. Kiên quyết đấu
tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu
bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận
thương mại,... cùng với những tiêu cực khác
do mặt trái của cơ chế thị trường gây
ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu
tranh này là thước đo bản lĩnh, tŕnh độ
và năng lực quản lư của Nhà nước pháp
quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân và v́ dân.
4- Giữ vững và tăng cường
sự lănh đạo của Đảng Cộng sản.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân
tố quyết định nhất bảo đảm
định hướng xă hội chủ nghĩa của
kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ
sự nghiệp phát triển của đất nước.
Đây cũng là một trong những bài học lớn
nhất được rút ra trong những năm
đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị
trường, thực hiện dân chủ hóa xă hội,
mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng
cường và đổi mới sự lănh đạo
của Đảng Cộng sản. Thực tế ở
một số nước cho thấy, chỉ cần
một chút mơ hồ, buông lỏng sự lănh đạo
của Đảng là lập tức tạo điều
kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá
ră sự lănh đạo của Đảng, cướp
chính quyền, đưa đất nước đi con
đường khác.
Hiện nay, có ư kiến cho rằng,
đă chuyển sang kinh tế thị trường - tức
là nền kinh tế vận động theo quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...
th́ không cần phải có sự lănh đạo của Đảng
Cộng sản. Sự lănh đạo của Đảng
nhiều khi cản trở , làm "vướng chân"
sự vận hành của kinh tế (?). Ư kiến này không
đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi v́ như trên
đă nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh
tế thị trường nhưng không phải để
cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà
phải có lănh đạo, hướng dẫn, điều
tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực, v́ lợi ích của đại đa số nhân
dân, v́ một xă hội công bằng và văn minh.
Người có khả năng và điều kiện làm
được việc đó không thể ai khác ngoài
Đảng Cộng sản - là đảng phấn
đấu cho mục tiêu lư tưởng xă hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự
đại diện và bảo vệ lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lănh đạo có nghĩa là
Đảng đề ra đường lối, chiến
lược phát triển của đất nước nói
chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo
đảm tính chính trị, tính định hướng
đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho
kinh tế chẳng những có tốc độ tăng
trưởng và năng suất lao động cao, có lực
lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà
c̣n đi đúng định hướng xă hội chủ
nghĩa, tức là hạn chế được bất
công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của
đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ
sở đường lối, chiến lược đó,
Đảng lănh đạo toàn bộ hệ thống chính
trị và guồng máy xă hội, trước hết là Nhà
nước, tổ chức thực hiện bằng
được phương hướng và nhiệm vụ
đă đề ra.
Đương nhiên, để có
đủ tŕnh độ, năng lực lănh đạo,
Đảng phải thực sự trong sạch, vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
được nhân dân tin cậy và ủng hộ.
Đặc biệt, trong t́nh h́nh hiện nay, đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu lư tưởng, có trí tuệ, có
kiến thức, giữ ǵn đạo đức cách
mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh
khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các
hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng
và trong bộ máy của Nhà nước.
Tóm lại, sự h́nh thành tư duy kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự t́m
ṭi và phát kiến về mặt lư luận của chủ
nghĩa xă hội, mà c̣n là sự lựa chọn và khẳng
định con đường và mô h́nh phát triển trong
thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của
Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa là một
quá tŕnh tất yếu phù hợp với quy luật thời
đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng
khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất
mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm
vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lư luận
cũng c̣n không ít vấn đề phải tiếp tục
đi sâu vào nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ.
Chẳng hạn như: các vấn đề về chế
độ sở hữu và các thành phần kinh tế;
về lao động và bóc lột; về quản lư doanh nghiệp
Nhà nước ra sao để nó đóng được vai
tṛ chủ đạo; làm thế nào để thực
hiện được công bằng xă hội trong
điều kiện kinh tế c̣n thấp kém; vấn
đề bản chất giai cấp công nhân của
Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế
nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường
sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xă
hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v...
Với phương châm "Hăy bắt
tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả
lời", hy vọng rằng từng bước,
từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ
được các vấn đề nêu trên, góp phần làm
phong phú thêm lư luận về chủ nghĩa xă hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xă hội phù
hợp với điều kiện Việt Nam trong thời
đại ngày nay.
(1): C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993, tập 023, tr 175.
Ngô Nhân Dụng
Bài đăng trên Nhật Báo Người Việt
23/12/2003
Tạp chí Đàn Chim Việt mới
đưa lên mạng lưới (danchimviet.com) một bài
thuyết tŕnh của ông Nguyễn Phú Trọng, ủy viên
Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam,
bàn về "Kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa."
Theo Đàn Chim Việt th́ ông Nguyễn Phú Trọng nói bài này
ở một hội nghị trao đổi kinh nghiệm
với các nhà lư luận bên Trung Quốc, hồi tháng 10 năm
nay. Trong tháng đó, một hội nghị Trung ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng họp,
đưa ra các đề nghị sửa đổi
hiến pháp, mà đầu tuần này họ mới
chuyển qua cho quốc hội để bỏ phiếu
chính thức hóa. Như quư vị đọc trong Nhật báo
Người Việt hôm qua, có một điều thay
đổi lớn là hiến pháp Trung Quốc sẽ công
nhận quyền sở hữu của tư nhân, để
từ nay các xí nghiệp tư không c̣n bị chèn ép quá
đáng so với các doanh nghiệp nhà nước. Từ 50
năm nay, Cộng Sản Trung Quốc chỉ công nhận
một thứ quyền sở hữu công (trong thực
tế là của nhà nước,) nó được coi không
những là "bất khả vi phạm" mà c̣n
"thiêng liêng" nữa. Bây giờ họ chịu xác
định rằng "tài sản tư hữu hợp pháp
không thể bị vi phạm." Đồng thời,
quốc hội Trung Quốc cũng sẽ thảo luật
một dự luật về ngoại thương, theo
đó từ nay các cá nhân, các tổ chức và pháp nhân
đều có quyền kinh doanh xuất nhập cảng, trái
với trước đây chỉ các xí nghiệp nhà
nước mới có quyền đó. Như vậy là các
đồng chí Trung Quốc vĩ đại đă đi
thụt lùi trên con đường xây dựng chủ
nghĩa Xă hội, họ không chịu nghe lời
đồng chí Nguyễn Phú Trọng!
Nhưng họ không tin tưởng
lời ông Nguyễn Phú Trọng cũng đúng, v́ ông nói
nhiều điều họ nhắm mắt cũng thấy
ngay là sai lầm. Chẳng hạn, trong phần Một,
đoạn đánh số 3 ông viết như vầy:
"Đi lên chủ nghĩa Xă hội là mục tiêu lư
tưởng của những người cộng sản và
nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng
của cả dân tộc Việt Nam" (chúng tôi đánh
dấu.) Nói chủ nghĩa Xă hội là lư tưởng
của các đảng viên đảng Cộng Sản có
thể tin được, ít nhất trong đảng
cũng có vài ba người nghĩ như vậy. Nhưng
ngày nay không c̣n mấy đảng viên tin nữa, c̣n chính các
cán bộ th́ đă hết tin tưởng từ lâu rồi,
cho nên bây giờ họ chỉ lo kiếm tiền và
hưởng thụ. Nhưng lại nói đó cũng là
mục tiêu lư tưởng của nhân dân Việt Nam th́
hơi quá đáng! Thử đem trưng cầu dân ư coi
người ta có biết chủ nghĩa Xă hội là cái ǵ
chưa mà tin tưởng? Chính ông Nguyễn Phú Trọng
tiết lộ điều đó. Ông viết rằng:
"Nhưng đi lên chủ nghĩa Xă hội bằng cách
nào? Đó là câu hỏi lớn... muốn trả lời
thật không đơn giản." Ông là chủ tịch
Hội đồng Lư luận Trung ương mà ông c̣n
thấy là nó không đơn giản, thế th́ người
dân vô tội làm sao hiểu được nó như thế
nào mà chọn lựa? Sau đó ông Nguyễn Phú Trọng
liệt kê các "mô h́nh chủ nghĩa Xă hội"
từ thời Xô viết trở đi, để cho
thấy cái này là một huyền cơ bí kíp khó vô cùng ai
đụng vô cũng tẩu hỏa nhập ma hết!
Những bộ óc lỗi lạc như đồng chí Stalin
(mà Hồ Chí Minh vẫn quả quyết nhiều lần
rằng "Đồng chí Stalin không thể nào sai
được") mà ông Xít c̣n làm sai, th́ làm sao những phó
thường dân ở nước Nam ta biết
được chủ nghĩa Xă hội là cái ǵ mà chọn
làm mục tiêu?
Những lời hùng hồn hươu
vượn đó, người Trung Hoa đă nghe trong
nửa thế kỷ trước khi ông Đặng
Tiểu B́nh đưa ra lư thuyết thực dụng
"mèo trắng mèo đen được cả, miễn
bắt được chuột!" Các đồng chí
cộng sản Trung Hoa có thể tủm tỉm cười
trước thái độ ngây thơ ngờ nghệch
của ông Nguyễn Phú Trọng. Nhưng người ta có
thể tha thứ những kẻ khờ khạo ngây
thơ, c̣n nếu lại nói những điều sai lầm
một cách huênh hoang th́ có vẻ khinh cả người
nghe, hơi quá đáng! Người Trung Hoa không cần
đọc lịch sử Việt Nam cũng biết
rằng suốt trong lịch sử người Việt Nam
chưa hề nghe nói đến chủ nghĩa Xă hội
bao giờ, cho tới khi cha con ông Hồ Chí Minh đem ở
Nga ở Tầu về quảng cáo. Vậy th́ làm sao dám nói
đó là "khát vọng ngàn đời của cả dân
tộc Việt Nam" được? Có phải ông Bí
thư thành ủy Hà Nội mới khám phá ra trong các ḥn ngói,
ḥn gạch khai quật được, từ thời
Tiết độ xứ Cao Biền đă thấy những
chữ "Đi lên chủ nghĩa Xă hội" nhập
cảng từ Trung Quốc sang rồi?
Hay là ông Nguyễn Phú Trọng nói
đến hai chữ "ngàn đời" theo nghĩa là
ngàn đời sau, kể từ lúc ông Hồ Chí Minh mang sách
của Stalin về ngồi dịch trong hang Pắc Bó? Nói
như vậy là tiên đoán cả tương lai hàng ngàn
năm, tức là thuộc phạm vi bói toán, không c̣n là công
tác lư luận, tư tưởng nữa! Nhưng một
điều ông Nguyễn Phú Trọng làm mất ḷng các
đồng chí cộng sản Trung Hoa nhất có lẽ là
thái độ ông coi các lư thuyết của Đặng
Tiểu B́nh không ra cái ǵ cả. Ông đem những lư
thuyết của ông Đặng sang dạy dỗ lại các
đồng chí Trung Quốc của ông chẳng khác ǵ
một người Phi châu đem Coca Cola sang bán cho dân
Mỹ, khoe rằng xứ Uganda của ḿnh đă sáng chế
ra thứ nước ngọt đó!
Để khoe khoang công tŕnh của
đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú
Trọng kể rằng tại đại hội VI tháng 12
năm 1986, đảng ông "đă đề ra
đường lối đổi mới toàn diện"
với những "quan niệm mới," về "con
đường, phương pháp xây dựng chủ
nghĩa Xă hội," về "cơ cấu kinh
tế," rồi th́ "phê phán triệt để,"
rồi th́ "khẳng định chuyển hẳn
sang," vân vân. Ông dám nói với các đồng chí Trung
Quốc là "Đại hội VI là một cái mốc
đánh dấu bước chuyển trong nhận thức...
Đó là kết quả của cả một quá tŕnh t́m ṭi,
thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư
tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công
sức của toàn đảng, toàn dân trong nhiều
năm."
Rơ thật là hoang tưởng. Ai cũng
biết tất cả những ǵ đảng Cộng
Sản Việt Nam làm từ sau Đại hội 6 là
bắt chước những cải cách của ông
Đặng Tiểu B́nh đă làm ở Trung Quốc, bắt
đầu từ năm 1979. Ông Trường Chinh đă
đọc báo về những thay đổi của ông
Đặng Tiểu B́nh rồi đem ra bắt các
đảng viên học tập, mà đó cũng chỉ là
những biện pháp thực tế rách đâu vá đó
chứ chẳng có lư thuyết nào xa xôi cả. Không khác ǵ
ngày xưa các ông cộng sản ở Việt Nam đă cóp
sách của Mao Trạch Đông, từ đề
cương văn hóa đến chiến tranh nhân dân
trường kỳ kháng chiến, vân vân. Bây giờ ông
Nguyễn Phú Trọng lại tới Bắc Kinh đem khoe
khoang những "quá tŕnh t́m ṭi, suy tư, kết tinh trí
tuệ" của đảng ông! Thật không coi các
đồng chí Trung Quốc ra cái con mèo ǵ cả!
Trên đây chỉ là hai điểm sai
lầm về sự kiện trong bài lư luận của ông
Nguyễn Phú Trọng. C̣n nhiều điều sai lầm
khác quan trọng hơn, về căn bản tư
tưởng và phương cách suy nghĩ, chúng tôi sẽ bàn
tới trong dịp khác. Bữa nay là nhân dịp Lễ Giáng
Sinh, v́ ḷng Chúa nhân từ chúng ta không nên bàn những
chuyện làm bà con độc giả mất vui! Nhưng
một bài diễn văn về một đề tài quan
trọng nhất đối với đảng Cộng
Sản Việt Nam, do ông chủ tịch cái hội
đồng Lư luận Trung ương Đảng viết,
mà phạm những sai lầm sự kiện như trên th́ không
thể bỏ qua không nói được. Dẫu sao, cũng
xin quư vị tạm quên những chuyện làm xàm về
chủ nghĩa Xă hội, v́ ngay những người giàu óc
tưởng tượng như ông Nguyễn Phú Trọng
cũng chưa nghĩ ra cái "Lễ Giáng Sinh theo
định hướng ǵ ǵ" của họ cả!
Cuối cùng, xin kính chúc bà con trong và ngoài nước một
ngày lễ Giáng Sinh ai nấy được b́nh an trong tâm
hồn và trong cuộc sống.
Ngô Nhân Dụng
Nhật báo Người Việt,
California, 04-01-2004
Lại nói tiếp chuyện ông Ủy
Viên Bộ Chính Trị Nguyễn Phú Trọng dạy dỗ
người ta về những cái xấu, cái dở của
kinh tế tư bản. Sau khi chê bai chế độ
tư bản làm tăng thêm bất công xă hội, ông
Nguyễn Phú Trọng bắt đầu chê đến t́nh
trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia, mà ông
cũng đổ lỗi cho kinh tế tư bản
nữa! Ông nói: (kinh tế tư bản) "nó c̣n ràng
buộc các nước kém phát triển trong quỹ
đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo
quan hệ 'trung tâm - ngoại vi'."
Nói như thế chưa đủ làm
nản ḷng hàng triệu người dân Việt Nam đang
mới tập làm kinh tế theo lối tư bản
nửa chừng, tùy mức độ được
đảng cho phép, ông Nguyễn Phú Trọng dọa thêm:
"Có thể nói, nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự
thống trị của một số ít nước lớn
hay là một số tập đoàn xuyên quốc gia
đối với đa số các nước nghèo, làm
tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các
nước nghèo." Nói như vậy, chắc nhiều
người sợ bị bóc lột, bị thống
trị, sẽ từ bỏ ngay kinh tế thị
trường theo lối tư bản, đi sang Bắc Hàn
xin ông Kim Chính Nhất cho gia nhập câu lạc bộ vô
sản của cha con nhà Kim!
Đây là một luận điệu
"chống tư bản" được nhắc
đi nhắc lại thời chiến tranh lạnh,
trước đây 40, 50 năm, tưởng đă
được mai táng mồ yên mả đẹp từ
mươi năm nay rồi, không ngờ ông Nguyễn Phú
Trọng c̣n đào lên, dựng lại. Đó là luận
điệu của Cộng Sản Xô Viết đem ra
để dọa cho các nước nghèo, khiến họ lo
sợ bị các nước giàu bóc lột, rồi bảo
họ hăy theo cộng sản quốc tế chống đế
quốc tư bản. Những chữ "ràng buộc trong
quỹ đạo," "bị lệ thuộc và bị
bóc lột," "sự thống trị," cho thấy
cách nh́n kinh tế thế giới của ông Nguyễn Phú
Trọng vẫn nằm trong "quỹ đạo"
của tư tưởng Stalin và Mao Trạch Đông! Trên
căn bản, đây là một luận điệu chống
hệ thống thương mại quốc tế tự
do. Nhưng hầu như ông Nguyễn Phú Trọng không thèm
để ư ǵ đến những biến chuyển kinh
tế thế giới, ông tới Bắc Kinh mà không thèm
biết t́nh trạng Trung Quốc đă thay đổi
như thế nào từ khi mở cửa thông thương
với thế giới tư bản? Và Trung ương
Đảng Trung Quốc vừa mới quyết
định sẽ ghi vào hiến pháp là nhà nước
phải tôn trọng quyền tư hữu! Sau khi bị Trung
Quốc đánh lừa, xúi Hà Nội đừng đặt
bút kư, rồi Bắc Kinh kư thương ước
trước với Mỹ và gia nhập WTO trước,
không lẽ giờ này một lư thuyết gia cộng sản
Việt Nam c̣n sang Tàu dạy dỗ họ phải coi
chừng bị tư bản bóc lột? Năm 2002, Trung
Quốc hănh diện v́ nhận được nhiều
vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (53 tỷ mỹ kim,) lần thứ
nhất được nhiều tiền đổ vô hơn
cả Mỹ (30 tỷ đầu tư trực tiếp.)
Tại sao họ không để cho tư bản quốc
tế tiếp tục bóc lột công nhân Mỹ, Đài Loan,
Nam Hàn, mà lại để cho họ vào bóc lột dân Trung
Hoa như vậy? Nhưng nếu không có tư bản
quốc tế th́ làm sao Trung Quốc có thể đạt
mục tiêu bành trướng Tổng sản lượng
Nội địa cho lớn bằng GDP của Mỹ trong
ṿng ba, bốn chục năm!
Trong lúc cả nước Việt Nam,
từ Bộ Chính trị đến người đánh cá,
bắt tôm đều mong ngóng ngày nào nước Việt Nam
được gia nhập Tổ chức Mậu dịch
Thế giới, th́ ông Nguyễn Phú Trọng lại đi
nói như vậy, không biết ông nói để làm ǵ?
Đến Bắc Kinh mà nói chuyện như vậy, có khác
nào vào nhà có đám cưới mà khóc như đi viếng
tang? Lại c̣n dạy khôn các đồng chí Trung Quốc
về mối đe dọa của chủ nghĩa tư
bản, có khác nào đánh trống qua cửa nhà sấm?
Hiện giờ tương quan kinh
tế giữa các quốc gia không c̣n biết đâu là trung
tâm, đâu là ngoại vi nữa. Trung Quốc có phải là
ngoại vi, v́ Mỹ là trung tâm hay không? Trung Quốc bán hàng
sang Mỹ nhiều hơn mua của Mỹ, thặng dư
125 tỷ trong năm qua, bao nhiêu người Mỹ than
thở rằng chính phủ Mỹ dễ dăi với mấy
chú quá, như vậy Trung Quốc có bị bóc lột không?
Nếu Mỹ t́m cách cắt đứt thương mại
với Trung Quốc để dân Mỹ khỏi kêu rêu, th́
sẽ có mấy trăm triệu người Trung Hoa
thất nghiệp thêm? Nhưng lúc đó, các công ty bán lẻ
đại hạ giá như Wal-Mart mua hàng đâu về bán
giá rẻ cho dân Mỹ dùng? Các công ty Motorola, General Motors
đang đầu tư ở Trung Quốc liệu có
để cho chính phủ Mỹ yên hay không? Và nếu chính
phủ Bắc Kinh không có 400 tỷ mỹ kim ngoại
tệ dự trữ th́ ai bỏ tiền ra mua công trái
của chính phủ Mỹ, trong lúc chính phủ Mỹ chi tiêu
nhiều hơn thu vào, cần phải vay nợ? Có phải
Mỹ đang lệ thuộc Trung Quốc về tài chánh hay
Trung Quốc chỉ có cái thú vui là làm chủ nợ? Tất
cả các nước đang "trói buộc và lệ
thuộc" lẫn nhau, họ biết vậy, mỗi nước
tranh giành phần lợi lớn cho ḿnh, không ai nhịn ai
hết, nhưng không thể bỏ nhau được.
Vũ trụ không có trung tâm, mà kinh tế toàn cầu cũng
vậy.
Sự có mặt của các tập
đoàn công ty đa quốc cũng không thống trị
được các nước nghèo. Xứ Singapore
trước đây 40 năm may mắn v́ có ông Lư Quang
Diệu biết nói rằng: Công ty IBM mở nhà máy ở
Singapore, thuê mướn nhân viên người Singapore, sản
xuất hàng hóa ở Singapore để xuất cảng, th́
đó là một công ty Singapore. Thử hỏi công ty Dell bây
giờ là một công ty Mỹ, hay Đài Loan? Hay Mă Lai Á? Công ty
Siemen quốc tịch Đức hay quốc tịch Liên
hiệp Âu châu? Vodaphone là một công ty Anh, Mỹ, hay
Đức? Khi các sinh viên ở Anh, Pháp, Mỹ biểu t́nh
phản đối một công ty như Nike về tội
bóc lột các công nhân nghèo khó ở Indonesia, Việt Nam, Cam
Bốt, lúc đó là nước nào đang thống trị
nước nào?
Vấn đề do các công ty đa
quốc gây ra không phải là ai thống trị ai. Vấn
đề lớn thế giới cần giải quyết
là một hệ thống pháp luật liên quốc để
điều hợp các hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia đó, sao cho họ chỉ chú ư đến
việc gia tăng hiệu năng sản xuất chứ
không chỉ t́m các lỗ hổng thuế vụ để tránh
không đóng thuế. Đây là một cuộc tranh
đấu giữa một bên là các thực thể kinh
tế, các công ty lớn, bên kia là những thực thể
chính trị, là các quốc gia và tổ chức quốc
tế. Giữa kinh tế và chính trị. Chính phủ và
người dân các quốc gia phải ư thức vấn
đề chính yếu đó mà lo hợp tác với chính
phủ các nước khác cùng nhau giải quyết. Chúng ta
không nên phí thời giờ đi lo những chuyện tào lao
do các lư thuyết gia vẫn sống ở thế kỷ
thứ 19 đem ra hù họa, dọa nạt! Tại sao không
lo cho các cô gái Việt Nam thất nghiệp phải sang Cam
Bốt bán thân nhục nhă, mà lại lo những công ty
ngoại quốc đến Việt Nam đầu tư?
Nếu họ sang Trung Quốc đầu tư th́ các cô gái
ở thôn quê Trung Quốc sẽ có việc làm, không phải
đi lấy chồng Đài Loan như đi bán làm nô
lệ!
Những mâu thuẫn giữa các
nước giàu và các nước nghèo không phải là khám phá
mới lạ. Trải qua hai thế kỷ, các nước
nghèo không c̣n ngu dốt như vua quan triều Thiệu
Trị, Tự Đức nữa. Các quốc gia phải
đối xử b́nh đẳng với nhau, mặc dù ai
cũng chỉ lo lợi cho ḿnh. Các tổ chức quốc
tế, các khối mậu dịch tự do giúp các
nước nghèo đoàn kết với nhau để
được đối xử b́nh đẳng hơn.
Không chú tâm lo lắng về vấn đề đó, mà
lại ru ngủ thanh niên bằng những lư luận
đời xưa để họ quên đi những
mối nhục trước mắt của sự nghèo
đói, tham nhũng, bất công, là có tội.
Mối nhục của người dân
Việt Nam bây giờ không phải là nhục nô lệ
ngoại bang, mà là mối nhục chậm tiến. Những
người như Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ
B́nh, Nguyễn Đan Quế đă v́ cảm thấy nỗi
nhục đó nên kêu gọi đảng Cộng Sản
Việt Nam hăy thay đổi. C̣n nhưng lư thuyết gia
như ông Nguyễn Phú Trọng vẫn vặn lưỡi
ba hoa, hô hào cho những cách nh́n thế giới lỗi
thời từ thế kỷ 19, chỉ cốt để
bảo vệ chính quyền của đảng, tŕ hoăn
việc thay đổi đất nước càng lâu càng
tốt để bảo vệ quyền lợi của
những lănh tụ trong Trung ương Đảng đang
ăn trên ngồi trốc. Nh́n thấy thế ai cũng
phải đau ḷng, không nói không được. Chứ cái
lối ba hoa lư luận để che mắt người dân
đó ai đọc cũng biết là sai, ai muốn phí
thời giờ tranh luận làm ǵ?
NGÔ NHÂN DỤNG
Chúng tôi lại xin đăng nguyên văn
một đoạn trong phần đầu bài thuyết
tŕnh của ông Nguyễn Phú Trọng liên quan tới bài B́nh
Luận này:
Tuy nhiên, kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó c̣n có mặt trái, có
khuyết tật từ trong bản chất của nó do
chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc
lộ sâu sắc, không giải quyết được các
vấn đề xă hội, làm tăng thêm tính bất công và
bất ổn của xă hội, đào sâu thêm hố ngăn
cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn
thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa
hiện nay, nó c̣n ràng buộc các nước kém phát triển
trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc
lột theo quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Có
thể nói, nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống
trị của một số ít nước lớn hay là
một số tập đoàn xuyên quốc gia đối
với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu
thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo...
Về bài phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng
Hoàng Quế
Hiện nay, tuy ĐCSVN có thi hành
những chính sách cởi mở hơn, nhưng chưa
thực sự thay đổi. Những ư kiến nói về
một nền "KTTT định hướng XHCN"
trong bài của Giáo sư, Tiến sĩ, Ủy viên Bộ
Chính trị Nguyễn Phú Trọng vẫn chỉ là những
lư luận chung chung cho thấy các nhà lănh đạo ở VN
c̣n khá mơ hồ về những kiến thức kinh
tế hiện đại, trong khi VN đang đứng
trước cơn lốc xoáy của hội nhập và toàn
cầu hóa về kinh tế. Các nhà lănh đạo VN vẫn
bám giữ những lư luận kinh tế dựa trên “thánh
kinh” của Marx-Lenine nói về nền kinh tế tư
bản từ thế kỷ 17-18 để áp dụng vào
đường lối và chính sách kinh tế của thế
kỷ 21, trong khi đó VN đă gia nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang xin gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Qua bài này ta có thể thấy là đă có
nhiều bước cải tiến trong cách “tư duy”
của ĐCSVN như: “Không c̣n có thái độ định
kiến và kỳ thị đối với bất cứ
thành phần kinh tế nào, chủ động hội
nhập thị trường quốc tế. Hạn chế
và kiểm soát độc quyền kinh doanh, v.v. nhưng
họ vẫn “khăng khăng” nói về một nền
kinh tế do Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) làm chủ
đạo và chịu sự lănh đạo của
đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) có nghĩa
là ĐCSVN sẽ đề ra đường lối,
chiến lược phát triển của đất
nước nói chung, v.v…”
Theo tinh thần khoa học, truớc khi
hành động ta cần xây dựng phương pháp tư
duy logic, sau đó phân tích, lập luận và cuối cùng
mới nâng lên thành lư luận để từ đó
đề ra các chính sách, các mô h́nh kinh tế thiết
thực. Nhưng làm sao để những lư luận đó
giúp chúng ta hành động và hướng tới một mô
h́nh kinh tế đúng đắn?
Kinh nghiệm thế giới cho thấy
là muốn có các mô h́nh kinh tế tốt không ai có thể
lấy những mô h́nh từ kinh Thánh, kinh Phật, hay từ
các sách triết lư của Platon, Khổng tử hay của
Karl Marx - Lenine, v.v. mà phi nghiên cứu và đúc rút ra từ
các tiến tŕnh phát triển một cách khoa học. V́
vậy, các kinh tế gia đă từ các kinh nghiệm
thực tế để cố gắng t́m ra các qui luật
chung hoặc các hiện tượng lặp đi lặp
lại (replicable) rồi từ đó đưa ra các
định luật, các quy luật hay các mô h́nh kinh tế.
Như vậy muốn đánh giá sự
phát triển kinh tế ở VN và Trung Quốc (TQ) hiện
nay, trước hết chúng ta cần xem xét vấn
đề sau:
1. Tại sao VN và TQ lựa chọn mô h́nh
kinh tế thị trường định hướng
XHCN?
2. Các lựa chọn theo kinh tế
thị trường (KTTT) định hướng Xă
hội Chủ nghĩa (XHCN) có khả thi hay không?
3. Cái giá dân VN phải trả.
A) Tại sao VN và TQ lựa chọn mô h́nh
kinh tế thị trường định hướng
XHCN?
Trên thực tế, ai cũng biết là
TQ vào 1976 và VN vào 1986 đă chọn con đường phát
triển kinh tế thị trường v́ chính sách phát
triển kinh tế theo kế hoạch XHCN, theo kiểu
mệnh lệnh đă thất bại liên miên, hậu
quả là toàn bộ nền kinh tế và xă hội, v.v. lâm
vào t́nh trạng bế tắc và gần như đổ
vỡ.
Nửa đầu của thập kỷ
80 của thế kỷ trước, VN phải nhập
gạo, không đủ ăn trong khi các nước XHCN
"anh em" cũng bị khó khăn và phải
đối mặt với nguy c tan ră. VN hoàn toàn bế
tắc về kinh tế. Khi đó, nếu VN và TQ không thay
đổi th́ có nhiều triển vọng bị phá sản
giống như Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu.
ĐCSVN đă chọn con đường này là v́ “sự
sống c̣n chính trị” của đảng chứ không
phải v́ những mục đích “do dân hay v́ dân”.
Khi thoát nạn, VN đă cố chứng
minh sự "đúng đắn" của KTTT
định hướng XHCN qua 4 kỳ Đại hội
đảng (ĐHĐ) (VI-1986, VII-1991, VIII-1996, IX-2001).
ĐCSVN đă nhiều lần muốn bỏ “vấn
đề đấu tranh giai cấp” vào năm 1995
dưới sự lănh đạo của thủ
tướng Vơ Văn Kiệt và bộ trưởng
ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm.
Nếu nh́n lại lịch sử th́
ĐCSVN đă “máy móc bắt chước” đàn anh Liên Xô
(LX) và TQ khi áp dụng các chính sách và mô h́nh kinh tế XHCN. Có
thể thấy rằng cho đến khi khối LX và Đông
Âu sụp đổ, các nhà lư luận kinh tế của VN
chỉ biết "dịch thuật" hay là "sao
chép" nguyên bản các lư luận hoặc mô h́nh kinh tế
của LX hoặc TQ và chưa bao giờ "dám"
đặt một sự nghi vấn hoặc xem xét ứng
dụng vào thực tế của các lư luận đó đă
mang lại hiệu quả như thế nào. Đó chính là
nguyên nhân khiến cho kinh tế VN trong nhiều năm
hầu như không phát triển.
Hiện nay, tuy ĐCSVN có thi hành những
chính sách cởi mở hơn, nhưng chưa thực
sự thay đổi. Những ư kiến nói về một
nền "KTTT định hướng XHCN" trong bài
của Giáo sư, Tiến sĩ, Ủy viên Bộ Chính
trị Nguyễn Phú Trọng vẫn chỉ là những lư
luận chung chung cho thấy các nhà lănh đạo ở VN
c̣n khá mơ hồ về những kiến thức kinh
tế hiện đại, trong khi VN đang đứng
trước cơn lốc xoáy của hội nhập và toàn
cầu hóa về kinh tế. Các nhà lănh đạo VN vẫn
bám giữ những lư luận kinh tế dựa trên “thánh
kinh” của Marx-Lenine nói về nền kinh tế tư
bản từ thế kỷ 17-18 để áp dụng vào
đường lối và chính sách kinh tế của thế
kỷ 21, trong khi đó VN đă gia nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang xin gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tại các nước phát triển, các lư
luận kiểu triết học này chỉ được
bàn căi trong các hội thảo ở các trường
đại học hay trong giới trí thức mà thôi. Các nhà
lư luận không thể lấy danh nghĩa nào mà áp
đặt các lư luận của họ cho các nước.
Cần nhớ rằng kinh tế cũng có qui luật phát
triển riêng và bất kỳ ai mong áp đặt ư muốn
chủ quan của ḿnh vào một xă hội th́ sớm
muộn cũng sẽ thất bại.
Ta hăy thử tóm lược một
số mục đích mà các nhà lănh đạo VN đă
đề ra trong cái gọi là "KTTT định
hướng XHCN” như sau:
[…1. Mục đích của kinh tế
thị trường định hướng XHCN là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế, kỹ thuật, nâng cao đời sống, ...
2. Kinh tế thị trường
định hướng XHCN có nhiều hinh thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai tṛ chủ đạo…
3. Kinh tế thị trường
định hướng XHCN có sự quản lư của Nhà
nước.
4. Kinh tế thị trường
định hướng XHCN thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế…Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với bảo đảm tiến bộ và cong
bằng xa hội ngay trong từng bước phat
triển…]
Từ những tóm lược trên, ta có
thể thấy có điểm ǵ khác biệt với KTTT
kiểu tư bản Tây phương chăng? Điểm
1, 3, và 4 th́ các nước gọi là tư bản đă
thực hiện từ lâu và thực hiện "nghiêm
túc" hơn nhiều so với các nước khác.
Điểm 2 th́ nhiều nước tư bản đă làm
việc, nhưng chính là qua kinh nghiệm thực tế có
nhiều khiếm khuyết, dễ tạo ra sự quan liêu
và cản trở sự phát triển kinh tế cho nên họ
phải tư nhân hoá. Có thể thấy rơ rằng ĐCSVN
chẳng "sáng tạo" hay phát hiện được
điều mới mẻ nào, họ chỉ đặt tên
mới cho những thứ đă có sẵn mà thôi.
Các nước gọi là tư bản
như Thụy Điển c̣n mang bản chất XHCN
gấp bội các nước XHCN như VN hay TQ. Hệ
thống xă hội nhằm đảm bảo cuộc
sống của dân chúng như chế độ phúc lợi,
hưu bổng, y tế và giáo dục tốt gấp
bội. Sự phân phối lợi tức c̣n đồng
đều hơn VN hay TQ gấp nhiều lần. Thuỵ
Điển làm được như vậy v́ họ có
nhiều đảng, kiểm soát lẫn nhau, và các chính sách
kinh tế đều được đưa ra mổ
sẻ công khai và có sự tham gia của quần chúng. Trong
khi đó, ở VN th́ khẩu hiệu "dân biết, dân
bàn, dân làm chủ" chỉ được thực
hiện một cách h́nh thức. Do đó, trong xă hội
sẽ không có một cơ chế kiểm soát có hiệu
quả đối với nhà cầm quyền, dẫn
tới t́nh trạng cửa quyền diễn ra khắp
mọi nơi. Thêm vào đó sẽ phát sinh nhiều căn
bệnh nan giải như tham nhũng, lăng phí và vô trách
nhiệm. Hậu quả là sự phát triển của toàn xă
hội sẽ bị ngăn cản.
Ví dụ 2: Thực tế đă cho
thấy các chính sách nhằm xây dựng mô h́nh XHCN
trước đây đă sai lầm v́ xuất phát từ
sự “tưởng tượng” dựa trên “kinh thánh”
cũ kỹ mà các “nhà lư luận” đă áp đặt cho dân
chúng. Thực tế cũng chứng minh sự "luẩn
quẩn", bế tắc về lư luận dẫn
đến những sai lầm trong hành động,
khiến cả một dân tộc phải trả giá
bằng sự lạc hậu và nghèo đói của nhiều
thế hệ. Đơn cử như chính sách về ruộng
đất. Khi đánh Tây th́ các nhà lănh đạo ĐCSVN
kêu gọi ḷng yêu nước của toàn dân, kêu gọi nhà
nhà đóng góp nuôi cách mạng. Nhưng sau khi thành công th́
lập tức phân chia nhân dân thành ra nhiều loại thành
phần: tư sản, tiểu tư sản, địa
chủ, phú nông, bần nông. Rồi tịch thu tài sản
của những gia đ́nh thuộc loại tư sản
hay địa chủ. Ở nông thôn, cải cách ruộng
đất đă tịch thu hết ruộng đất
của địa chủ để chia cho nông dân, sau đó
lại xây dựng các hợp tác xă, và người nông dân
lại không có ruộng đất. Sau hàng chục năm
tiến hành các "thử nghiệm", nay ĐCSVN
lại trả quyền sử dụng đất cho dân
với chính sách gọi là "khoán" đến hộ gia
đ́nh và nhờ thế đă tránh được nạn
đói. Chỉ tiếc rằng cả dân tộc đă
được lấy ra làm thí nghiệm và đă mất
hơn 50 năm ...
Ví dụ 3: Những đ̣i hỏi
của WTO có thể t́m trong Marx không?
B) Các lựa chọn theo KTTT định
hướng XHCN có khả thi hay không?
Sau đó
ông Nguyễn Phú Trọng và ĐCSVN đưa những quan
điểm “hăy bắt tay vào hành động, thực
tiễn sẽ cho câu trả lời".
[…1- Phải tiếp tục thực
hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, không có thái độ định kiến và kỳ
thị đối với bất cứ thành phần kinh
tế nào.
* Kinh tế nhà nước phải phát
huy được vai tṛ chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then
chốt. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp
xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh
nghiệp nhà nước;
* Kinh tế tập thể gồm các h́nh
thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xă là
ṇng cốt.
* Kinh tế cá thể, tiểu chủ
cả ở nông thôn và thành thị có vị tri quan trọng
lâu dài.
* Kinh tế tư bản tư nhân
được khuyến khích phát triển rộng răi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp
luật không cấm.
* Tạo điều kiện để
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển thuận lợi, hướng vào các sản
phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế ….
* Phát triển đa dạng kinh tế
tư bản nhà nước dưới dạng các h́nh
thức …
2- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường; đổi mới và
nâng cao hiệu lực quản lư kinh tế của Nhà
nước. Chủ động hội nhập thị
trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát
độc quyền kinh doanh.
* Mặt khác phải đổi mới
sâu rộng cơ chế quản lư kinh tế, phát huy
những yếu tố tích cực của cơ chế
thị trường, triệt để xoá bỏ bao
cấp trong kinh doanh, tăng cường vai tṛ quản lư và
điều tiết vĩ mô của Nhà nước, …
* Tiếp tục đổi mới các
công cụ quản lư vĩ mô của Nhà nước
đối với nền kinh tế, trong đó đặc
biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp,
đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất
lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xă
hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xă
hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán,
thống kê….
3- Giải quyết tốt các vấn đề
xă hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xă
hội, thực hiện công bằng xă hội, coi đó là
một nội dung rất quan trọng của định hướng
xă hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu
việt của chế độ xă hội mới..
* Trong t́nh h́nh cụ thể hiện nay
ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp
tạo ra nhiều việc làm mới.
* Tiếp tục thực hiện
chương tŕnh xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc
những người có công với nước,
thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt
sĩ, gia đinh chính sách - một yêu cầu rất lớn
đối với một đất nước phải chịu
nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh….
4- Giữ vững và tăng cường sự lănh
đạo của ĐCS.
* Càng đi vào kinh tế thị
trường, thực hiện dân chủ xă hội, mở
rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng
cường và đổi mới sự lănh đạo
của ĐCS.
* Hiện nay, có ư kiến cho rằng,
để chuyển sang kinh tế thị trường -
tức là nền kinh tế vận động theo quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh... th́ không cần phải có sự lănh
đạo của Đảng Cộng sản. Sự lănh
đạo của Đảng nhiều khi cản trở ,
làm "vướng chân" sự vận hành của kinh
tế (?).
* Đảng lănh đạo có nghĩa là
Đảng đề ra đường lối, chiến
lược phát triển của đất nước nói
chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo
đảm tính định hướng đứng
đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh
tế có tốc độ tăng trưởng và năng suất
lao động cao, ...
* Đương nhiên, Đảng
phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân
dân tin cậy và ủng hộ… ]
1) Kinh nghiệm thế giới cho
thấy là các nước tăng trưởng tốt
hơn VN nhiều và họ có ĐCS đâu? Họ có
nhiều đảng, kể cả ĐCS, mà vẫn thành
công. Sự thành công trên thế giới cho thấy phát
triển kinh tế không có nghĩa là phải tất nhiên có
ĐCS lănh đạo, mới có công b́nh, hay tiến bộ
mà thường là ngược lại.
2) Nói là không có thái độ định
kiến và kỳ thị đối với bất cứ
thành phần kinh tế nào nhưng trên thực tế th́ VN
vẫn c̣n nhiều vấn đề:
Bài báo đưa lên VietnamNet ngày 2/7/2003 cho
thấy là không phải không có kỳ thị đối
sử (Ngân hàng quay lưng, thiệt tḥi về đất
đaii và bất b́nh đẳng về thuế (xem bài trong
annex 1).
3) Phát triển kinh tế với quốc doanh là chủ
đạo thông qua DNNN có thật sự cần thiết?
Trên thực tế ai cũng biết là
các DNNN làm ăn thiếu hiệu quả kinh tế,
thường thua lỗ nhiều v́ quản lư kiểu
“của chùa" hay “cha chung không ai khóc”.
[''Bộ trưởng Đào Đ́nh B́nh
cho biết: "Có thể nói, hiện nay các DN của ngành
GTVT, đặc biệt các DN làm về xây dựng công tŕnh
giao thông đều có hai tồn tại lớn là: lỗ và
nợ!". ]
T́nh trạng trên không chỉ diễn ra
ở ngành giao thông mà c̣n diễn ra trong nhiều ngành
nghề khác như sản xuất xi măng và
đường. Vậy những thất bại này là do
đâu? Phải chăng là do sự chỉ đạo
từ đường lối của Đảng?
Tại các nước gọi là tư
bản chủ nghĩa, khu vực nhà nước cũng khá
cao, lên tới 40% của GDP tại Pháp, v.v. nhưng v́
cạnh tranh không hiệu quả bằng khu vực tư do
cho nên bà cựu TT Anh Thatcher đă có chương tŕnh
giải tư và trả lại các lĩnh vực sản
xuất cho tư nhân (hoả xa, hăng hàng không, các cơ quan
sản xuất, v.v]. Các DNNN quen bao cấp lại
được hàng rào thuế quan bảo hộ cho nên tha
hồ “làm mưa làm gió”. TQ, nước mà VN đang học
theo, cũng đă phải cổ phần hoá các DNNN và nay các
DN khu vực tư chiếm khoảng 45% GDP. Nếu các DNNN
chỉ thua lỗ, và ngay cả TQ cũng đang t́m cách
bỏ các DNNN th́ tại sao cứ phải lấy DNNN làm
trụ cột của nền kinh tế? hay là v́ có DNNN th́
giới quan chức mới dễ bề hoành hành?
Ngày 17/11 vừa qua, báo chí VN đă dẫn
một báo cáo của Bộ Tài chính cho biết đă bị
thất thoát từ 20-25 ngàn tỷ đồng hay 30% kim
ngạch đầu tư và xây dựng. Số tiền này
được ước lượng là khong 5% GDP.
Việc này cho thấy nếu VN tăng trưởng
8%/năm th́ 65% số tiền này rơi vào tay một
thiểu số. Việc này nghịch lư với KTTT theo XHCN.
Trong tháng 7-03, hai vụ án tham nhũng
được nhà nước công bố, gây thiệt
hại cho ngân sách nhà nước.
Trích theo TBKT ngày 19-07 cơ quan an ninh Tây
Ninh điều tra vụ án “Công ty thương mại XNK
Tây Ninh” làm thất thoát 30 tỷ. Giám đốc công ty cung
ứng tàu biển cũng vậy. Nguyên nhân nào tham nhũng
trong DNNN hoành hành? Thứ nhất v́ ĐCSVN có quyền
tuyệt đối tạo cơ hội thuận tiện
cho hành vi phạm pháp. Giám đốc là đảng viên cao
cấp và nhờ vậy có tṛ đóng hụi chết.
Thứ hai là luật lệ thiếu minh bạch (rút
tiền không kư, tự ḿnh đi mua, v.v) .
Nói tóm
lại có hai nguyên nhân chính: a) yếu kém trong kỹ thuật
quản lư ngân sách (sổ sách, kế toán, v.v.) và đây là
vấn đề kỹ thuật nên có thể giai quyết
một cách dễ dàng; b) cơ chế XHCN. Trong cơ
chế này, mặc dù là sở hữu toàn dân nhưng theo ông
Nguyễn Phú Trọng th́ đảng “..lănh đạo cú
nghĩa là Đảng đề ra đường lối,
chiến lược phỏt triển của đất
nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói
riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định
hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh
tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc
độ tăng trưởng và năng suất lao
động cao,…” Trên thực tế là đảng đưa
ra dự án, duyệt dự án, chọn người làm
dự án, thanh tra dự án, kiểm toán, v.v. Nói tóm lại,
cơ chế XHCN cho phép người ta “vừa đá banh
vừa thổi c̣i.” Với cơ chế độc
quyền này th́ không thể nào giải quyết tham nhũng,
lăng phí được. Vậy “thực tế” đă cho
thấy là chính sách đó đang đi đến phá
sản.
3) Tăng cường sự lănh
đạo của Đảng?
Các kinh nghiệm cho thấy là hiện nay
theo bô. trưởng Công An, ông Lê Hồng Anh th́ chắc
chắn là có chạy chức chạy quyền tại VN (xem
bài annex 2)
Ngoài ra tờ: The Economist 16/11/2003 c̣n cho
thấy VN không có dân chủ v́ ngày thứ tư 12/11, chế
độ CSVN bỏ tù ông Trần dũng Tiến, một
người tranh đấu đ̣i dân chủ 78 tuổi.
Cùng ngày hôm đó chế độ quân phiệt ở
Myanmar...
Đối với tờ Economist, các
chế độ chính trị ở VN hay Miến
điện đều không chấp nhận dân chủ”
Đó là những vết nhơ trên bản đồ
thế giới, một thế giới đang càng ngày càng
nhiều người được sống tư do
hơn..”
[..Though the Middle East is indeed one of the most
repressive parts of the world, billions of people in other regions are also
having their democratic aspirations ignored or crushed. On Wednesday November
12th, Vietnam’s communist regime jailed Tran Dung Tien, a 78-year-old
pro-democracy campaigner. On the same day, Myanmar’s military junta rejected
criticisms made earlier in the week by the United Nations’ secretary-general,
Kofi Annan, of the regime’s failure to set a date for restoring political
rights and for continuing to detain Aung San Suu Kyi, Myanmar’s pro-democracy
leader.”
Of the 2.2 billion people living in unfree countries,
almost two-thirds are in China, which in the 30 years of Freedom House’s annual
surveys has edged up from its lowest rating to the second-lowest, due to
improvements in economic freedom and a slight relaxation of curbs on free
speech. Those in China’s “special administrative region” of Hong Kong enjoy a
little more liberty but they are pressing for more—and resisting the Beijing
regime’s attempts to chip away at those rights they already have: in July, the
authorities were forced to postpone introducing a repressive new
internal-security law after half a million of Hong Kong’s people marched to
protest against it…]
Về xây dựng đảng, kinh
nghiệm và lịch sử thế giới cho thấy
nếu có một đảng th́ (độc quyền hay
độc đảng) sẽ dễ đi tới lạm
quyền. VN nên từ đó rút ra những kinh nghiệm
để sửa sai.
Không có một xă hội nào là hoàn hảo
hay "lư tưởng", do đó cần sửa
đổi làm cho nó tốt hơn. Kinh nghiệm thế
giới cho thấy trong một nước nếu không có
phân quyền, không có sự kiểm soát lẫn nhau th́ dễ
dẫn tới áp bức và lạm quyền.
Ở VN có sự cách biệt rất
lớn giữa “lời nói và việc làm.” Chuyện này có
nghĩa là có sự cách biệt giữa “thực tế và
tư duy”.
Cũng như ông tổng thư kư Liên
hiệp quốc Koffi Annan nói là dân chủ cần
được bảo vệ và thực thi để
đảm bảo các quyền dân chủ cho dân chúng.
C) Cái giá phải trả cho dân VN
Cái giá mà Liên xô đă phải trả trong
quá khứ để thi hành các chính sách kinh tế XHCN theo
kiểu Stalin là trên 35 triệu người đă thiệt
mạng và một hệ thống tù đầy Gulag rộng
lớn tràn ngập đất nước.
Cái giá mà VN đă phải trả là
tại Hội nghị Thượng đỉnh của
Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái B́nh Dương (APEC)
hồi tháng 10 vừa qua tại Thai Lan, với một
lợi tức trung b́nh là $ 420/đầu
người/năm, VN là nước có mức lợi
tức thấp nhất trong số 22 thành viên ở khu
vực Thái B́nh Dương. Trong hiệp hội các
nước Đông Nam á (ASEAN) th́ VN chỉ hơn có Lào, Cao
Miên và Miến Điện. VN nghèo v́ các chính sách kinh tế
trong quá khứ theo XHCN là sai lầm và ngoài ra c̣n phi trả
giá khá cao về vấn đề độc quyền:
nạn tham nhũng.
Tại các nước phát triển, các
kinh tế gia th́ đi từ thực tế, rút ra những
quy định rồi đề ra các chính sách chứ không
lấy các chính sách từ kinh thánh rồi áp đặt cho
đất nước như ở VN.
C̣n nói về chủ nghĩa thực dụng th́ nên vận
dụng câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu
B́nh, ông tổ của cải cách kinh tế ở TQ.
“Muốn bắt chuột th́ không cần biết mèo
trắng hay mèo đen.” Kinh nghiệm và lịch sử
thế giới cho phép ta từ đó rút ra những kinh
nghiệm để sửa sai.
Annex 1
8:1', 2/7/ 2003 (GMT+7)
(VietNamNet) - ''Có thể nói rằng tác
động tích cực và to lớn nhất của Luật
Doanh nghiệp (DN) là vai tṛ của một bà đỡ mát
tay. Bởi sau khi nhiều doanh nghiệp mới ra
đời như những trẻ sơ sinh c̣n chập
chững, đặc biệt trong 5 năm đầu sau khi
thành lập, th́ sự hỗ trợ pháp lư của Luật
DN cũng khá mờ nhạt''. Thảo luận về
việc thi hành Luật DN trên địa bàn Hà Nội sáng
1/7, ông Mai Huy Tôn, Giám đốc Công ty TNHH Đức
Việt đă bức xúc về Luật DN như vậy.
Mỗi DN vừa và nhỏ có nhu cầu
b́nh quân khoảng 3000m2 mặt bằng sản xuất cho nhà
xưởng, kho tàng.
Không ai phủ nhận những đóng
góp của Luật DN trong việc thay đổi bộ
mặt kinh tế dân doanh bằng các thay đổi tích
cực trong khung pháp lư, nhưng số đông các DN tại
Hội thảo đều cho rằng việc thực thi
các chính sách, chế độ, quy định (luật,
nghị định, thông tư) vẫn c̣n nhiều bất
cập... mà nguyên nhân chính là do tổ chức thực
hiện, cơ cấu triển khai, con người (quan
chức Trung ương, địa phương....);
Vẫn c̣n sự bất b́nh đẳng giữa DNNN và DN
vừa và nhỏ tư nhân trong tất cả các lĩnh
vực mà tập trung nhiều nhất ở đất
đai, vay vốn, quan hệ với các cơ quan nhà
nước, nguồn vốn ODA, kư hợp đồng
với chính phủ, thành phố...Ngân hàng quay lưng. Các DN,
nhất là các DN mới ra đời thường có
nguồn vốn kinh doanh nhỏ. Để thực hiện
những dự án đầu tư, DN dân doanh thường
phải vay vốn hoặc huy động vốn từ các
nguồn khác như vốn vay từ họ hàng, bè bạn.
Việc tiếp cận vốn với các tổ chức tín
dụng như Ngân hàng, Quỹ đầu tư phát
triển là vô cùng khó khăn, kể cả trường
hợp doanh nghiệp đó có nhà xưởng, máy móc,
thiết bị. Những nhà xưởng, thiết bị
đó lại đặt trong khuôn viên đi thuê lại
với những hợp đồng ngắn hạn, không
đủ các giấy tờ mà các tổ chức tín dụng
đ̣i hỏi. Thiếu vốn thường làm mất
đi những cơ hội kinh doanh. Theo báo cáo của
Tổ cộng tác thi hành Luật DN, sau 3 năm thực thi,
trên địa bàn Hà Nội đă có hơn 158.000 DN hoạt
động theo Luật DN. Tổng số vốn
đăng kư của các DN là 23.000 tỷ đồng,
vốn b́nh quân của một DN là 1,67 tỷ đồng.
Tổng số lao động của khu vực DN ngoài
quốc doanh chiếm hơn 22% và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 5,6% trong tổng
số lao động đang làm việc tại các DN
của Hà Nội (hơn 400.000 người). 64,3% trong
số các DN này làm ăn có lời.Giai đoạn 2000-2002,
b́nh quân mỗi năm có 3.320 DN được thành lập
mới (khoảng 276DN/tháng), gấp 6 lần so với b́nh
quân năm giai đoạn 1992-1999. Và đặc biệt là
các tháng đầu năm 2003, b́nh quân mỗi tháng có gần
500 DN được thành lập mới.
Mặc dù Nghị định của
Chính phủ số 178/1999-NĐ ngày 29/12/1999 về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
đó ra đời gần 3 năm. Nhưng thực tế
lại làm khó cả DN nhà nước và DN tư nhân, bởi
lẽ: Nếu ngân hàng không yên tâm, kể cả với khách
hàng truyền thống là DN nhà nước, th́ họ vẫn
phải thế chấp. Nhưng DN nhà nước không
phải lúc nào cũng có lời hai năm liền (lỗ
năm nay, lời năm sau là bệnh thường,
nhất là DN làm xuất khẩu) và điều này làm
tăng sự khắt khe với DN nhà nước vốn
trước đây chỉ cần phương án kinh doanh có
hiệu quả là được vay. Với DN vừa và
nhỏ tư nhân lại càng khó. Do tâm lư, thói quen, dư
luận xă hội không thiện cảm nên ngân hàng chưa
chịu ''thông cảm'' với họ. Ngoài ra, cơ chế
xử lư rủi ro của ngân hàng vẫn c̣n chặt chẽ
với DN vừa và nhỏ tư nhân.Tâm lư ngân hàng vẫn
thận trọng với DN tư nhân bởi lẽ cần
bảo toàn vốn và do tŕnh độ quản lư, thẩm
định, tiếp thị của ngân hàng c̣n non yếu.
Các nguồn khác của tài chính đó hoạt động
nhưng chưa theo kịp được những yêu
cầu như: chứng khoán, thu mua tài chính...Đủ
mọi thiệt tḥi về đất đai. Các DN tư
nhân cũng bị thiệt tḥi trong các thủ tục về
thuế đất. Trong khi đối với các dự án
đầu tư nước ngoài, nếu chủ
đầu tư thuê đất, UBND tỉnh nơi có
đất cho thuê có nghĩa vụ tổ chức thực
hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn tất
thủ tục cho thuê đất, song đối với các
dự án đầu tư trong nước hiện nay
chưa có một quy định như vậy. Ngược
lại, DN tư nhân muốn thuê đất cũng phải
tự ḿnh hoàn tất mọi thủ tục để có
được các xác nhận cần thiết của
nhiều cơ quan hành chính. Quốc hội đang bổ
sung, sửa đổi một số điều của
Luật Đất đai; Chính phủ đă ban hành
nhiều Nghị định bổ sung quyền và
đơn giản nhiều thủ tục về
đất đai, nhưng việc thực hiện các chính
sách cho thuê đất c̣n chậm và không ít phức tạp
nên nhiều nhà đầu tư không thuê được
đất để làm mặt bằng sản xuất,
kinh doanh. Hiện, Luật đất đai chưa cho phép
DN trong nước được thế chấp quyền
sử dụng đất để vay vốn ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam. Đây là sự bất
hợp lư, thiếu b́nh đẳng so với DN có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI).Thời điểm tính
thời hạn thuê đất hiện nay cũng chưa
được Luật đất đai quy định.
Các cơ quan quản lư đất đai cho rằng
thời điểm đó bắt đầu từ ngày ra
quyết định cho thuê đất và việc tính
tiền thuê đất cũng được tính từ
ngày đó. Các DN lại cho rằng thời điểm thuê
sớm nhất cũng chỉ có thể là ngày DN nhận
được đất, thậm chớ từ ngày DN có
thể sử dụng được đất trên
thực tế (v́ c̣n phải tính thêm thời gian bồi
thường, di dời, giải toả, san, lấp mặt
bằng). Cơ sở để tính tiền thuê đất
hiện nay được xác định dựa theo ngành
nghề kinh doanh, đối tượng thuê đất và
nhiều tiêu chỉ khác hiện nay không c̣n phù ....
Annex 2
Thứ ba, 11/11/2003, 09:22 GMT+7
“Chắc chắn là có chuyện chạy
chức chạy quyền”.
Bộ trưởng Lê Hồng Anh:
"Những trường hợp nghi vấn chạy
chức, chạy quyền có cả ở cấp địa
phương lẫn trung ương".
Bộ trưởng Công an Lê Hồng Anh
đă thừa nhận với báo chí như vậy. Theo ông
hiện nay có tồn tại một thế lực ngầm,
đường dây ngầm để chạy dự án,
chạy chức, chạy tội, có điều là t́m
chưa ra; có khi chuyện này xảy ra ngay trong bộ máy nhà
nước.
Nguyễn Phú Trọng thiếu lư luận chặt
chẽ, không có cơ sở thực tế khách quan
Lê Xuân Phong - Viết
riêng cho Đàn Chim Việt
Bài của ông Nguyễn Phú Trọng (xem
"KTTT Theo Đinh
Hướng XHCH?") không phải là một bài lư
luận khoa học và nghiêm túc về kinh tế nói chung,
về kinh tế thị trường định hướng
xă hội chủ nghĩa nói riêng. Ông đă viết ra
một bài quảng cáo cho mô h́nh kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa mà ông tán thành và ủng hộ. Bài có mục đích
truyền tụng tính hoàn thiện và hiện đại
tưởng tượng của đường lối
kinh tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa mà ông muốn người
đọc tin là có thật.
Bài viết thiếu lư luận chặt
chẽ, không có cơ sở thực tế khách quan. Tác
giả nói lấy được và huyênh hoang, không phân tích
hoặc dẫn chứng. Ông Trọng khẳng định
những điều mà ông đưa ra, đặc biệt
về đặc tính “sáng tạo”của một mô h́nh “hoàn
chỉnh” thể hiện “tư duy của đảng CSVN
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă
hội”.
Do những lời lẽ thiếu khoa
học, tự cao tự đại và mang tính khẳng
định của ông Nguyễn Phú Trọng, chúng tôi không có
ư muốn tranh luận hay đối đáp với ông. Chúng
tôi chỉ đưa ra vài điều nhận xét và phê b́nh
như sau:
1) Bài viết của ông Trọng tŕnh bày
nhiều ư tưởng đề cao mô h́nh kinh tế
thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa những nội dung vô nghĩa, chẳng
hạn như “Đại hội VIII của Đảng
(tháng 6 năm 1996) đưa ra một kết luận
mới rất quan trọng là sản xuất hàng hoá không
đối lập với chủ nghĩa xă hội mà là
thành tựu của văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xă hội và cả khi chủ nghĩa xă hội
đă được xây dựng.”
Chúng tôi tiếc rằng măi tới
Đại hội VIII, tháng 6 năm 1996, đảng CSVN
mới nhận thức được một sự
thực hiển nhiên. Hiểu đúng và sát nghĩa th́
bất cứ mô h́nh kinh tế nào, chủ nghĩa kinh
tế nào cũng phải sản xuất hàng hóa, cung cấp
dịch vụ. Đă nói tới kinh tế th́ tất nhiên
phải có sản xuất và thương mại, có hàng hóa
và dịch vụ!
Ông Trọng nói nhiều tới “kinh
tế hàng hóa”mà Việt Nam theo đuổi từ khi
“đổi mới”và cho rằng “kinh tế hàng hóa”xuất
phát từ thời Lê-Nin thông qua “chính sách kinh tế mới”(NEP).
Ông cho rằng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă
hội trong hơn 70 năm (1917-1990) đă rơi vào “tŕ
trệ và khủng hoảng”v́ tư tưởng của
Lê-Nin, chính sách NEP và “kinh tế hàng hóa”đă không
được thực hiện!
Ông Trọng hết ḷng tô son điểm
phấn khái niệm “kinh tế hàng hóa”, rồi sơn
phết nhiều lớp mô h́nh kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa, xem nó là “kết tinh trí tuệ và công sức của
toàn đảng CSVN”. Tác giả khoe khoang viết rằng
“kinh tế thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận
dụng xu thế vận động khách quan của kinh
tế thị trường trong thời đại ngày
nay.”. Rồi ông Trọng lộng ngôn viết tiếp:
“Đây là kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử của kinh tế thị trường …
Chủ trương kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh
nhân loại, … là sự lựa chọn tự giác con
đường và mô h́nh phát triển trên cơ sở quán
triệt lư luận Mác-Lê-Nin. “(Chúng tôi nghĩ ông Nguyễn
Phú Trọng xứng đáng được trao giải
thưởng Nobel kinh tế … giả hiệu!)
2) Ông Nguyễn Phú Trọng không nắm
vững quá tŕnh thay đổi đường lối
“đổi mới”của đảng CSVN từ 1986
tới ngày nay v́ ông đă viết như sau:
Ông Trọng có tính hay quên chăng, vậy
chúng tôi thông tin cho ông rơ sự thật như sau:
Ông Trọng hoàn
toàn nhầm lẫn khi ông viết “Cho tới tháng 4 năm
2001, đảng CSVN chỉ mới nói tới cơ chế
thị trường, chưa dùng khái niệm kinh tế
thị trường.”Ông Trọng tỏ vẻ thông thái nói
rằng đảng CSVN phát triển cơ chế thị
trường nhưng chưa phát triển kinh tế thị
trường! Cơ chế thị trường không
phản ảnh kinh tế thị trường th́ biểu
hiện cho cái ǵ? Mà kinh tế thị trường không có
cơ chế thị trường th́ chỉ là cái vỏ
trống rỗng không có ư nghĩa ǵ cả.
3) Để gạt bỏ ư kiến cho
rằng đường lối kinh tế thị
trường định hướng xă hội chủ
nghĩa cố ghép một cách gượng gạo cơ
chế thị trường với xă hội chủ
nghĩa, ông Trọng có những ư tưởng lạ lùng và
quanh co cốt tránh đi thẳng vào vấn đề.
Về điểm này, để bàn bạc đúng
đắn cần phải đối chiếu tư
bản chủ nghĩa với xă hội chủ nghĩa,
cơ chế thị trường với cơ chế
kế hoạch nhà nước tập trung, cơ chế giá
cả hàng hóa do cung cầu ấn định với giá
cả hàng hóa do nhà nước quy định, chế
độ tư hữu với chế độ công
hữu, v.v. Ông Trọng viết văn hoa nhưng viển
vông rằng “Kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa không phải là kinh
tế thị trường kiểu tư bản chủ
nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp theo
kiểu tập trung, cũng chưa hoàn toàn là kinh tế
thị trường xă hội chủ nghĩa mà là v́ c̣n
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội.”
Ông Trọng muốn bám víu vào chủ
nghĩa xă hội và bênh vực lấy được
chủ nghĩa xă hội. Chủ nghĩa xă hội chủ
yếu bao gồm kế hoạch nhà nước tập
trung, chế độ vật giá do nhà nước ấn
định, chế độ công hữu về
phương tiện và tư liệu sản xuất, v.v. Mô
h́nh kinh tế thị trường định hướng
xă hội chủ nghĩa phát triển cơ chế thị
trường, chế độ giá cả theo sự cung
cầu và một nền kinh tế có nhiều thành phần,
thừa nhận quyền tư hữu về phương
tiện sản xuất, v.v. th́ c̣n ǵ tính xă hội chủ
nghĩa? c̣n ǵ để bảo rằng đó là con
đường “quá độ tiến lên xă hội chủ
nghĩa”? Lập luận này không đứng vững,
nhưng có lẽ những người như ông Trọng
cứ đưa ra để bào chữa và duy tŕ sự lănh
đạo của đảng CSVN trong thời kỳ “quá
độ tiến lên xă hội chủ nghĩa.”
4) Điều sau cùng chúng tôi muốn nêu
liên quan tới vai tṛ của khu vực kinh tế quốc
dân và các doanh nghiệp nhà nước. Ông Trọng
đề cao “vai tṛ chủ đạo”của nền kinh
tế quốc dân trong mô h́nh kinh tế thị trường
định hướng xă hội chủ nghĩa. Ông
nhấn mạnh tới “vị trí then chốt”của các
doanh nghiệp nhà nước như “noi gương về
mặt năng suất, … tạo động lực phát
triển, v.v.”
Tiếc rằng thực tế và thông tin
hàng ngày hoàn toàn phủ nhận những điều mà ông
Trọng tuyên bố về kinh tế quốc dân và các doanh
nghiệp nhà nước. Tất cả các báo cáo của
Pḥng thương mại Việt Nam và các cơ quan chính
phủ Việt Nam và các phúc tŕnh của các tổ chức
quốc tế như ADB, WB, IMF, OECD, UNDP, v.v. đều
nhận định rằng công tác quản lư kinh tế
quốc dân Việt Nam yếu kém, hiệu năng sản
xuất của các doanh nghiệp nhà nước thua kém rơ
rệt các xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp tư
nhân.
Để kết luận chúng tôi
thấy bài của ông Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn thiếu
tính thuyết phục, chỉ có những tư tưởng
ṿng quanh, những câu văn hoa mỹ đề cao tư
tưởng Mác-Lê-Nin và chủ nghĩa xă hội. Thế
giới đă chứng kiến quá tŕnh thực tiễn
của chủ nghĩa xă hội và những đổi thay
trong khối các nước cộng sản từ sau
thế chiến tới ngày nay. Ông Nguyễn Phú Trọng cũng
như chúng tôi biết rơ thế giới đă đánh giá
thế nào chủ nghĩa xă hội và các thành tựu
của nó. Mặc dù vậy ông Trọng vẫn tin
tưởng, bám víu và bảo vệ hết ḷng chủ
nghĩa xă hội. Ông ám chỉ và cho hiểu rằng
nếu trong thực tế chủ nghĩa xă hội có tŕ
trệ hoặc khủng hoảng ấy là v́ thi hành sai, lănh
đạo không tốt chứ lư thuyết chủ nghĩa
xă hội rất hoàn bị. Có thể nào chăng bài viết
của ông Trọng chỉ dành cho thành phần đảng
viên trung thành với chủ nghĩa xă hội và với
mục đích nâng cao tinh thần cán bộ trong thời
kỳ “quá độ tiến lên xă hội chủ nghĩa”
đầy bất trắc, khó khăn và không có tương
lai.