Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư - Số 42
Tháng 03 năm 2005

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com

Tin Ghi Nhận:

• Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đang bị giam tại trại giam số 5, phân trại 3, xã Yên Giang, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Trong điều kiện giam cầm khắc nghiệt, bác sĩ Sơn ngoài bệnh thoát vi bẹn trái, hiện đang bi thêm bệnh u ở mũi. Gia đình b/s Phạm Hồng Sơn đã yêu cầu xin xét nghiệm và giải phẩu nếu cần, tuy nhiên bên Cục quản lý trại giam và Bộ Công An vẫn không có dấu hiệu giải quyết.

• Uỷ ban bảo vê ký giả (CPJ) vừa công bố bản phân tích về tình hình tự do báo chí trên thế giới, trong bản phân tích này, CPJ đã bày tỏ sự quan ngại về tình trạng mất tự do báo chí ở Việt Nam. Taị Việt Nam, mặc dù cộng đồng quốc tế thường xuyên gây áp lực và nhắc nhở, chính quyền vẫn không cho thấy sự nới lỏng nào đối với các hoạt động báo chí trong năm 2004. Một mặt thì nhà nước kiểm soát chặt chẻ báo in, báo nói, mặt khác thì tăng cường trấn áp báo trên mạng…. Hàng tuần các tổng biên tập viên của các tờ báo trong toàn quốc phải họp với Vụ Báo Chí-Ban tư tưởng văn hóa Trung ương ; Ban nội chính Trung ương, để nghe chỉ thị về nội dung nào được đăng và nội dung nào không được đăng tải. Mới đây nhà nước quyết định truy tố ký giả Lan Anh chỉ vì cô đã can đảm tường thuật tệ nạn lợi dụng quyền lực lũng đoạn thị trường trong lãnh vực phân phối và quản lý thuốc Tây ở Việt Nam. Tờ báo điện tử Tintucvietnam.com cũng đã bị đóng cửa. Ông tổng biên tập tạp chí điện tử VNexpress.net thì bị mất chức vì đã cho đăng bản tin về vụ nhập xe ô tô của các quan chức cao cấp. Đối với các vụ án nổi tiếng như vụ Nam Cam, vụ Lã Thị Kim Oanh, chỉ có một số rất ít các nhà báo được tham dự trong phiên tòa xử kín. Còn tại các phiên tòa xử những người dân chủ, không một nhà báo nào được tham dự, nhưng điều đáng nói là một số báo đã đăng tin hoàn toàn sai sự thật theo sự chỉ đạo của Đảng cộng sản.

----- O -----

RFA phỏng vấn ông Nguyễn Thanh Giang về tài liệu của ts Lê Đăng Doanh

LTS. Điện thư xin đăng lại bài phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang từ đài RFA về tài liệu của tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã đươc phổ biến trên điện thư số 41 vừa qua.

RFA: Ngày 2 tháng 11 năm ngoái, năm 2004, trong khuôn khổ chương trình K X - 10, một chương trình chuẩn bị cho Đại Hội 10 Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong một cuộc họp kín, lãnh đạo Trung Ương đã có một bản báo cáo hay nói đúng hơn là một bài thuyết trình dài 32 trang nhận định về tình hình kinh tế Việt Nam do chính tác giả Tiến sĩ Lê Đăng Doanh trình bày.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương, một chuyên gia kinh tế hàng đầu của chính phủ Việt Nam, từng giữ vai trò cố vấn cho cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Nguyễn Duy Trinh, và các cựu Tổng Bí Thư như ông Nguyễn Văn Linh và ông Đỗ Mười. Chức vụ cuối cùng trước khi về nghỉ hưu là cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư.

Để tìm hiểu thêm về tài liệu mà Bộ Chính Trị coi là "tối mật" này, Việt Hùng đã hỏi chuyện Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và được ông cho biết nội dung chính của bản báo cáo như sau:

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Sở dĩ có buổi nói chuyện đó là do ông Trần Ðình Hoan, Ủy viên BCT Ban chấp hành TW Ðảng, Trưởng ban Tổ chức TW có viết thư đề nghị ông Lê Ðăng Doanh trình bày để cho những người chuẩn bị cho các văn kiện ÐH 10 sắp tới nghe. Bài nói chuyện của ông Lê Ðăng Doanh gồm có 3 phần:

- Tóm tắt tình hình về thực trạng của Việt Nam
- Một số vấn đề về kinh tế Việt Nam và tiến trình hội nhập của VN
- Những yêu cầu cần thiết phải cải cách hệ thống chính trị ở VN để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới

Việt Hùng: Thưa Tiến sĩ, bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh cho đến nay dư luận cả ở trong và ngoài nước có thể nói là chưa biết đến. Trong phần nhận định về tình hình và thực trạng của VN, Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh đã đề cập đến những vấn đề gì?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Khi nhìn nhận về nền kinh tế VN, Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh ghi nhận rằng, đã có rất nhiều tiến bộ, đặc biệt là trong những năm "đổi mới" kể từ sau ÐH VI. Từ chỗ nhập khẩu từ chiếc xe máy cho đến bánh xà phòng, rồi cho đến vươn lên được 5 năm xuất khẩu được 2 tỷ đô-la. Sau chỉ vài năm tăng lên 5 lần, tức là được 2 tỷ đô-la, rồi năm qua 2004 được 25 tỷ đô-la. Tuy nhiên cho đến nay, đất nước VN vẫn là một đất nước quá nghèo và vẫn còn tụt hậu còn xa so với thế giới.

Việt Hùng: Với đà phát triển của VN trong năm ngoái 2004 mà VN trình làng với thế giới là trên 7%, vậy nguyên do nào mà trong bài nói chuyện Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh lại nói đến vấn đề tụt hậu của nền kinh tế VN?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Nói xuất khẩu trong năm qua đạt 25 tỷ đô-la thì thấy rõ bằng 5 bằng 10 năm trước thật, nhưng thực tế nếu so với mấy nước trong khu vực như Thái Lan, như mấy nước Trung Á đã không là cái đinh gì rồi. Những quốc gia này đã xuất khẩu hơn trăm tỷ, vài trăn tỷ đô-la.

Nói mức tăng trưởng cao thì mấy nước Trung Á tăng trưởng cao hơn nhiều. Trong 15 năm qua thì Kazactan mỗi năm tăng 10%. Nền kinh tế Singapo so với VN tăng ở mức chót vót, mà đã tăng trưởng cao thì nhích thêm 0,5% cũng chật vật lắm. Vậy mà trong năm qua Singapor cũng đã tăng 11%. Thế rồi nói GDP đạt trên 40 tỷ đô-la đã thấy vĩ đại so với ngày xưa, nhưng với con số ấy thì nền kinh tế VN cũng mới chỉ bằng 0,36% nền kinh tế toàn cầu thôi.

Nói rằng tuy GDP bình quân chỉ 500 USD nhưng do giá cả hàng hoá rẻ, giá nhân công rẻ nên tính theo sức mua tương đương PPP ở VN khá cao cũng khụng đúng. Tính theo sức mua tương đương thì ta xép thứ 130/175 nước. Nếu xếp theo tỷ giá nữa thì ta xếp thứ 149/203 nền kinh tế. Sau ngàn ấy năm "Đổi mới" oanh liệt lắm ta chỉ mới lẹt đẹt được đến như vậy. Chỉ số phát triển con người có thể cao hơn chỉ số kinh tế nhưng cũng chỉ đạt trung bình. Năm 2003 xếp thứ 109/175, năm 2004 xếp thứ 112/177 nước.

Vì trì trệ quá lâu rồi, tăm tối quá lâu rồi nên khi mở cửa ra cho ánh sáng bừng lên một chút đã thấy như đổi đời. Thực ra ta tiến còn chậm lắm. Chậm so với nhu cầu bản thân đất nước, chậm so với thiên hạ cho nên thực tế cho thấy là mình vẫn ngày càng tụt hậu. Chưa dám so với các nước tiên tiến, hay chỉ so với mấy nước Châu Á: Thái Lan năm 1950, thu nhập bình quân đầu người năm 1950 ta bằng 80,5% ; năm 1999 = 20%. Hàn Quốc 1950 = 85,5%; 1999 = 11%; Trung Quốc, năm 1950 ta giàu có hơn họ, ta gấp rưỡi họ nay = 20%.

Việt Hùng: Mới đây ông Phan Văn Khải có tuyên bố, trong năm 2005 VN sẽ phấn đấu trở thành thành viên của WTO trong năm nay, năm 2005 và quyết tâm trở thành thành viên của OECD, trong bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh có đề cập đến?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Việt Nam là một nước nhỏ nhưng diện tích cũng đến 330.990 cây số vuông, dân số 81,3 triệu người. Về qui mô quốc gia ta xếp vào hàng thứ 13, 14 gì đó trên thế giới. theo ông Lê Ðăng Doanh, để trở thành thành viên của OECD mức thu nhập đầu người phải đạt 10 000 đô-la/năm. Nay ta mới đạt 530 đô-la/đầu người/năm, cứ đà này 10 năm nữa sẽ được 1060 đô-la/năm. 20 năm nữa được 2120 đô-la/năm. Nếu không có cách mạng, không có phương sách nào khác thì lộ trình ra nhập OECD phải tính bằng thế kỷ.

Việt Hùng: Qua sự trình bày của Tiến sĩ về bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh thì kinh tế VN tụt hậu, tiến rất chậm ...., nhưng có ý kiến lại nói rằng, kinh tế VN phát triển chậm nhưng chậm chắc?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Nó tồn tại được là do những nguồn sau đây: bán tài nguyên đất nước, bán khoáng sản, bán dầu khí, bán thủy hải sản, bán sức lao động của công nhân & nông dân ra nước ngoài, rồi đi vay, đi xin và trông chờ vào khoản tiền hơn 3 tỷ của người Việt ở nước ngoài gửi về.

Bán tống bán tháo tài nguyên khoáng sản dưới dạng thô là coi như đổ của đi, làm cạn kiệt tài sản quốc gia của con cháu sau này. Con người VN thông minh, cần cù, tài hoa, khéo tay đến mức cày thầy cô giáo, các chuyên gia nước ngoài nào cũng phải khen, nhưng xuất khẩu từ các nước thì lao động VN lại chỉ được giá rẻ mạt vì trong tất cả lao động xuất khẩu, lao động VN thuộc loại ít được đào tạo nhất.

Ðánh giá về độ ổn định tài chính và khả năng tin cậy về tín dụng thì ta được xếp vào loại B+, hơn Bắc Triều Tiên. Ðộ sâu tài chính, tức là tổng số tiết kiệm của ngân hàng trên GDP của ta khoảng 44%, tổng sản lượng tính dụng trên GDP khoảng 48% trong khi Trung Quốc (TQ) là 162%.

Thị trường chứng khoán ra đời đã 3 năm nhưng nay chưa đứng lên đi được mà chỉ bò lê bò lết đến con số 1,6%.

Do quyền lực bị đảng thao túng tuyệt đối để cho các đảng viên có chức có quyền nên tham nhũng và lãng phí diễn ra tràn lan, hết sức thậm tệ dẫn đến phân hóa giầu nghèo rất cách biệt, dẫn đến bất công một cách tàn bạo nên xã hội chất chứa nhiều bức bối có nguy cơ bùng nổ một cách "đồng khởi", hàng loạt những vụ như Thái Bình, Tây Nguyên hay Kim Nỗ ....

Việt Hùng: Trong bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh, khi đề cập đến những cải cách thay đổi hệ thống chính trị của VN thì Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh đã nói những vấn đề gì, thưa Tiến sĩ?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Sau khi đưa ra con số của Tổ chức Minh Bạch Thế Giới xếp hạng tham nhũng ở VN đứng thứ 23 trên 145 nước, Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh đưa ra một dẫn chứng: Trong tòa tháp Hà Nội dựng lên trên đất Hỏa Lò có một nhà trẻ thượng đẳng, giá gửi một cháu là 2800 đô-la/ tháng, tính trong giờ qui định, hết giờ qui định mà còn ở lại nhà trẻ thì bố mẹ phải trả thêm 4 đô-la/giờ. Một người nước ngoài phàn nàn với Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh rằng, muốn đăng ký gửi mà hết chỗ rồi, trong số đó có 20 người VN gửi con ở đó.

Nhìn nhận hệ thống chính trị VN hiện nay, Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh nói, nguyên văn câu nói của Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh: "Hệ thống chính trị của ta hiện nay có nhiều điểm không còn phù hợp, bất cập và kém hiệu quả nặng, ta tự tạo nhiều khuyết tật, tự tạo ra nhiều vấn đề, kết hợp với mặt trái kinh tế thị trường sẽ dẫn dến chệch hướng rất lớn". Nhược điểm lớn nhất thể chế chíh trị của chúng ta là chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề. Ðè nén dân quá làm cho nó tích tụ lại, đến lúc nào đấy nó sẽ diễn ra cái việc gì đó giống như ở Liên Xô hay Cộng Hòa Dân Chủ Ðức hay như ở đâu đấy .... Theo ông Doanh thì ở Trung Quốc cũng có nguy cơ giống hệt như ở ta ......

Việt Hùng: Thưa Ts Nguyễn Thanh Giang, cái bài phát biểu của Ts Lê Đăng Doanh như vậy là cũng đã hơn 3 tháng nay. Tiến sĩ ghi nhận trong hàng ngũ đảng viên, hàng ngũ trí thức ở tại Việt Nam thì mọi người nhận định về bài nói chuyện của Ts Lê Đăng Doanh như thế nào ?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Cái bài đó thì mãi gần đây mới lọt ra ngoài, nhưng mà trong vòng mấy hôm nay tôi thấy rằng các người quan tâm đến tình hình đất nước đi xin nhau, đi photo, cho nhau rồi biết rất nhiều. Nhiều người đến hỏi tôi và họ thích thú, họ cho rằng cái bài nói ấy là cái bài nói được gan ruột, được ý nghĩ, được tình hình thực tế hiện nay và nó chứng tỏ một sự bức bối mà nó cần phải bung ra từ trong nội bộ. Nó thể hiện bây giờ cái suy nghĩ đa chiều, nó khác nhau, nó cọ sát nhau, chứ không thể bưng bít nhau được nữa. Và nếu mà cứ duy ý chí mà cứ bưng bít nó lại, bóp chặt nó lại thì nó sẽ bùng nổ dữ dội lắm.

Việt Hùng: Với cái nhìn của Tiến Sĩ thì do đâu mà Ts Lê Đăng Doanh lại có cái bài phát biểu như vậy, dài 32 trang trong một hội nghị (khép kín) mà có thể nói là quan trọng như vậy ?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Cái tôi nói là sở dĩ ông Lê Đăng Doanh được đứng lên đăng đàn là do Ủy viên Trung ương Bộ Chính Trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng Trần Đình Hoan có lời yêu cầu, thì ông mới được đăng đàn. Nhưng mà khi được đăng đàn như thế này thì cái điều lý thú tức là ông Lê Đăng Doanh đã chóp lấy thời cơ đó để bày tỏ tất cả những suy nghĩ nung nấu của mình trong suốt thời gian dài vừa qua phục vụ Đảng, phục vụ các cán bộ cao cấp của Đảng và tất nhiên trước đây thì ông gần các ông khác thì ông biết được tất cả những rận ở trong chăn, ông biết tất cả những cái đó.

Nhưng khi ông còn ngồi phụ tá cho ông Phạm văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn văn Linh thì ông không dám nói, nhưng giờ thì ông đã nghỉ hưu rồi thì ông quy gốc với con người trí thức của ông mới sống lại hoàn toàn và ông nói thẳng, nói thật. Tôi cho rằng chính là vì như thế mà bây giờ TS Lê Đăng Doanh trở thành người được toàn Đảng toàn Dân hâm mộ và ông đang thực sự đóng góp cho việc xây dựng Đảng một cách tích cực nhất trong công cuộc cải tổ này.

Việt Hùng: Tiến Sĩ vừa mới nói rằng tài liệu đó thì bây giờ dư luận ở Hà Nội mới bắt đầu biết được đến. Nguyên do nào mà tài liệu đó lại được giữ kín đến mức độ như vậy? Phải chăng là vì những nhận định và những điều mà Ts Lê Đăng Doanh viết không đúng theo cái ý của Đảng hay sao?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Thì tất nhiên là mấy ông lãnh đạo thì cũng thấy rằng cần phải nghe. Muốn nghe đấy, nhưng mấy ông chỉ muốn một mình mấy ông nghe thôi, độc quyền nghe thôi. Cho nên tôi thường bị công an răn dạy rằng: "Thưa anh, anh viết gì thì anh viết, không ai cấm anh, nhưng anh viết xong thì anh chỉ nên gửi cho mấy ông lãnh đạo thôi, và gửi cho chúng tôi, chứ anh không nên gửi ra ngoài". Thế thì đối với ông Lê Đăng Doanh nói bên trong thì được, nhưng mà họ bóp nó lại, họ chận nó lại, chỉ để trong lòng họ nghe, họ biết để tìm cách đối phó thôi.

Cho nên đây là một tài liệu hết sức mật. Mức độ mật của nó cũng không kém gì bức thư của ông Nguyễn Văn Khánh cả. Nhưng tôi cho rằng vì tình hình nội bộ bây giờ nó đã nức vỡ rồi, không chỉ nức vỡ ở phía dưới, mà nức vỡ ở trên thượng đĩnh rồi cho nên chả có cái gì bí mật được đâu, chả có cái gì giữ gìn được đâu. Tôi chỉ nói một ví dụ mà gần đây tôi rất ngạc nhiên. là Hội nghị 6 ông ngồi bàn với nhau, rồi có thêm ông Đỗ Mười, ông Lê Đức Anh dự.

Có ý kiến của ông Lê Đức Anh là khai trừ ông Võ Nguyên Giáp, ý kiến ông Đỗ Mười thì đòi khai trừ ông Nguyễn Nam Khánh, tôi nghĩ đại hội đó thì rất hẹp lắm chứ nhưng làm sao mà cũng lọt ra được ngoài. Thế mà nó lọt ra ngoài, thì chứng tỏ rằng là từ trên chóp bu là đã có một cái gì bằng họăc không bằng lòng mà người ta không nói thẳng ra mặt đâu, nhưng mà tìm cách để người ta... thậm chí là sắp tới người ta sẽ tìm cách để chọc vào lưng nhau, người ta thụi vào mặt nhau.

Việt Hùng: Nhưng mà trong một tinh thần mà Đảng vẫn kêu gọi là nói thẳng, nói thật, chẳn hạn như là nhiều ý kiến cá nhân nhiều lần đóng góp cho đảng nhưng mà thường thường những ý kiến đó thì nhiều người nói rằng: Vâng thì chỉ việc gởi cho cấp lãnh đạo thôi nhưng mà gởi cho cấp lãnh đạo thì bị bỏ trong học tủ, bỏ xó, không được sự hồi âm mà thậm chí là bị dán cho cái mác là có những ý tưởng chống lại đảng.

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Vâng. Thì cái xã hội này toàn những vấn đề ngược cả chứ. Nó cứ nói, thực tế một đàng mà nó nói một nẽo, và có khi họ muốn một đàng thì họ tung hô lên một nẽo, v. v... Cho nên nó mới là cái xã hội bệnh hoạn, cái xã hội không sống trên cái công khai và cái trung thực cho nên tôi đã nói là công an răng dạy tôi là viết thì đừng có đưa, nói nhẹ nhàng rằng nếu anh rãnh thì anh chỉ đưa cho cán bộ lãnh đạo và chỉ đưa cho chúng tôi. Chứ anh đưa ra ngoài rồi mấy ông ổng lợi dụng anh rồi mấy ông tán phát làm lăng nhăng nọ kia.

Tôi bảo như thế này: Tôi là một cái anh làm khoa học tự nhiên nhá. Cho nên khi mà tôi bỏ thì giờ ra tôi viết những cái bài như vậy là công phu lắm, có mồ hôi, có nước mắt của tôi, có chất xám của tôi bị bòn rút ra ghê gớm lắm thì tôi mới viết được những cái bài chính luận để góp ý kiến như vậy. Cho nên tôi viết không để mà chơi, còn chừng nào mà tôi thấy rằng là các anh, cái thói kêu ngạo, cái thói kêu ngạo cộng sản xem đời không ra gì, không thèm đọc, không thèm xét đến ý kiến của tôi một cách nghiêm túc thì tôi đành phải viết cho toàn Đảng, toàn Dân đọc. Và cho nên, tôi phải tán phát rộng rãi bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu .Tôi trực tiếp đưa lên internet.

Việt Hùng: Những ý tưởng mà Ts Lê Đăng Doanh trình bày như vậy, cá nhân Tiến sĩ thì Tiến sĩ cũng đã nhiều lần trình bày trong các cuộc nói chuyện với chúng tôi. Thì phải chăng rằng cá nhân Tiến Sĩ cũng như Ts Lê Đăng Doanh có một cái nhìn chung trong một ý tưởng nào đó hay sao ạ?

Ts. Nguyễn Thanh Giang: Vâng, Lâu nay khi mà có được bài nói chuyện này truyền tay nhau được tán phát thì nhiều cụ lão thành cách mạng, nhiều cụ chiến binh có đến nói với tôi rằng là sao nghe TS Lê Đăng Doanh nói như thế này thì người ta cũng thấy là ông TS kinh tế Lê Đăng Doanh nói cũng giống như TS địa vật lý Nguyễn Thanh Giang, chỉ khác là một ông thì nói trước, một ông thì nói sau.

Ngoài lãnh vực đối nội, Ts Lê Đăng Doanh đã phê phán chủ trương giải thể Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội làm mất mầm mống đa nguyên đa đảng. Ngoài những yêu cầu mà ông Lê Đăng Doanh nêu lên là phải tăng cường thanh lọc, phải xét lại giai trò chỉ đạo của kinh tế quốc doanh, v.v... Thì bây giờ phải kiểm điểm lại một số vấn đề đối ngoại và công tác nước ngoài mà xem. Về Trung Quốc, Ts Lê Đăng Doanh nhận định rằng, bây giờ tôi nhắc lại nguyên lời của Ts Lê Đăng Doanh, bây giờ bạn của chúng ta là ai, ai là bạn của chúng ta, nhân sự thì ai hợp tác với chúng ta, liệu có nhân sự không. Mà cái ông Trung Quốc, ông ấy có phải là bạn ta không hay là ông lăm lăm để thịt mình đây.

Thế rồi ông Lê Đăng Doanh cũng đề xuất một việc như thế này, là nếu ta chớp Vịnh Cam Ranh lại thì có thể kiểm soát được kinh tế dầu lửa của Trung Quốc, lúc bấy giờ TQ sẽ rất ớn, bởi vì TQ hiện nay đã làm bài toán sai lầm, Trung Quốc rất đang đói dầu lửa. Ông Lê Đăng Doanh nói như thế này: "Ông Hoa Kỳ thì ông nói là ta, từ trước đến nay chưa có chiếm đất của thằng nào bao giờ. Hơn nữa Hoa Kỳ với mình hai nền văn minh khác nhau, chế độ kinh tế khác nhau, tâm lý khác nhau. Cho nên để mà hiểu nhau được không phải là đơn giản".

Tất nhiên là vì bài nói của ông Lê Đăng Doanh là do Ủy Viên Bộ Chính Trị, trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng đặt hàng, lại nói trước toàn những quan chức cộng sản nên ông ấy chỉ dám nói đến thế là cùng. Mà người nghe phải hiểu xâu xa hơn cả cái phần ý tại ngôn ngoại

Việt Hùng: Thay mặt thính giả của đài, xin cảm ơn Ts Nguyễn Thanh Giang đã giành thì giờ cho cuộc nói chuyện ngày hôm nay!

----- O -----

Thời Đại Mới, Tư Tưởng Mới

Hoàng Tùng

LTS. Điện thư trích đăng phần“Chủ nghĩa Mác vào cuộc” của Hoàng Tùng để độc giả có thêm tư liệu. Đây là phần thứ hai trong cuốn sách tựa đề ”Thời Đại Mới, Tư Tưởng Mới”, (Thử suy nghĩ về tiền đồ chủ nghĩa Mác), xuất bản tại Hà Nội năm 2004. Tuy nhiên vì khuôn khổ có hạn, chúng tôi phải bỏ bớt một số đoạn, những chổ có dấu ……là phần bị bỏ. Hoàng Tùng là một cán bộ cao cấp, về cuối đời ông nhìn lại Chủ nghĩa cộng sản bằng cặp mắt khách quan hơn, tuy chưa triệt để vì vẫn còn những giới hạn bộc lộ qua các bài viết. Dù vậy, với uy tín và ảnh hưởng của Hoàng Tùng, sự giác ngộ muộn màng về nhận thức của ông sẽ tạo ra chấn động về mặt tư tưởng trong đảng CSVN, nhất là đối với giới lãnh đạo Hà Nội giáo điều và cổ hủ.

Phần thứ hai
Chủ nghĩa Mác vào cuộc

………….. Bài giải thích gốc [chủ nghĩa Mác] của Stalin được truyền bá là sách gối đầu giường hoặc kinh thánh của những người cộng sản. Trong 3 người đứng đầu Liên Xô tự phong là nhân vật kinh điển số 2 đứmg đầu phong trào cộng sản quốc tế, trước tác của ông cũng nhiều (không nhất thiết tát cả đều do ông viết), đều được coi là kinh diển vì cuốn sách mang tên ông đều có in ảnh bốn người ngang nhau. Ông ký tên nhiều sách. Phần lớn là văn kiện (các báo cáo chính trị). Những trước tác chủ yếu của ông là những bài nói chuyện nói trên, những bài chống các loại gọi là chủ nghĩa cơ hội, Giản sử lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Những sách này thuộc loại mọi người phải đọc, và nói trái là chống Đảng. Người ta cũng gọi chủ nghĩa Stalin không phải là quá đáng vì có chủ nghĩa Tôn Văn, chủ nghĩa Gandhi và nhiều chủ nghĩa khác. Stalin viết và nói, nhất là để đứng đầu một Đảng Cộng sản nhiều năm nhất, 1903-1990, và một Nhà nước có lãnh thổ bằng 1/6 diện tích quả đất từ năm 1923 - 1993.

Điều cần nhận định là qua lý luận và hành động, Stalin đã trình bày trước nhân loại một học thuyết tả cực đoan và hành động thì tàn bạo, độc ác. Ông là một nhà độc tài thô bạo. Trong những bài nói, bài viết của mình, Stalin đã đưa ra nhiều luận điểm quá tả như: giới thiệu Lênin chỉ nói những vấn đề thuôc về chiến lược, sách lược nhấn mạnh những cái tả. Ba cương lĩnh cách mạng được khởi thảo dưới sự chỉ đạo của ông đủ tiêu biểu cho chủ nghĩa tả khuynh về mặt lý thuyết. Bãi bỏ chính sách kinh tế mới của Lênin, tập trung vào sự nghiệp công nghiệp hoá, ưu tiên xây dựng những cơ sở công nghiệp nặng, xoá bỏ toàn bộ các hình thức sở hưũ, kế hoạh tập trung nền kinh tế chủ nghĩa còn là sản xuất, xoá bỏ triệt để thương nghiệp và dịch vụ. Cuộc đấu tranh chống hiện tượng mà ông gọi là tả khuynh thật là khốc liệt, xoá bỏ tầng lớp phú nông, tập thể hoá là xoá bỏ cả tiểu nông và toàn bộ giai cấp nông dân, nông trường viên và xã viên nông trang là người lao động nông nghiệp. Chính sách tiền lương và phân phối đến toàn xã hội và viên chức của Nhà nước Xô viết cực kỳ sai lầm vì nó triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động, do đó mà năng suất lao động lúc cao cũng chỉ băng 1/3 của lao động các nước tư bản. Ăn ít cũng không thể làm nhiều.

Stalin nhận định, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bắt đầu là thắng lợi của cách mạng tháng 10, là quá trình chuyển đổi từ sự bao vây chủ nghĩa tư bản đối với chủ nghĩa xã hội thành quá trình ngược lại. Nền chuyên chính vô sản càng ngày càng phải quyết liệt hơn vì sự phản ứng của các giai cấp bị đánh đổ đến gần sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng giãy giụa, điên cuồng, thất vọng. Chuyên chính vô sản chẳng những phải tiêu diệt các giai cấp tư sản mà còn phải tiêu diệt những mầm mống của nó trong xã hội, nền sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản (luận điểm này của Lênin được nhấn mạnh và quán triệt trong hành động). Những kết luận nêu trong giản sử lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cũng là tiêu biểu của chủ nghĩa tả về công tác lý luận tổ chức đảng, chống khuynh hướng tiểu tư sản. Nêu cao tác dụng phê bình và tự phê bình nhưng không bao giờ phê bình mà phản kích ác liệt những người phê bình cơ quan lãnh đạo. Liên hệ với quần chúng chỉ là điều nói suông (càng ngày càng xa cách trong thực tế). Sau chiến tranh, nền kinh tế của Liên Xô dược khôi phục về đại thể, sau một kế hoạch 5 năm.

………… Sau khi củng cố lực lượng vũ trang còn lại và xây dựng khu căn cứ ở Diên An, Mao mở chiến dịch phê phán đường lối chính trị giáo điều làm theo cương lĩnh cách mạng của Đại hội Quốc tế Cộng sản do Stalin chỉ đạo soạn thảo, phát động Đại cách mạng vô sản. Cuộc đấu tranh diễn ra cực kỳ ác liệt. Vương Minh, Lý Lập Tam, bị phê phán đích danh và cách hết mọi chức vụ.

Một Ban lãnh đạo mới được chỉ định gồm Mao là Chủ tịch và các nhân vật trọng yếu sau đây: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Trần Vân, Nhiệm Bật Thời, Khang Sinh.

Phê phán và bác bỏ đường lối và những người đề xuất thực hiện đường lới đó là một cuộc chính biến chống Stalin. Song quan hệ giữa Đảng Cộng sản do Mao đứng đầu vẫn duy trì một cách lỏng lẻo với Liên Xô và Quốc tế Cộng sản……………

Tư tưởng hoặc chủ nghĩa Mao ra đời từ năm 1942 khi Mao viết tác phẩm ”Luận tân dân chủ cách mạng”, chủ trương thành lập chế độ dân chủ mới, thực hành chuyên chính bốn giai cấp: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ông nói: Người Đức, người Nga và người Trung Quốc ta, ông Tôn Văn có chủ nghĩa của mình thì ta cũng phải có chủ nghĩa của ta. Muốn tỏ ra khiêm tốn, ta gọi là tư tưởng (do Lưu gợi ý). Thực chất cuộc cách mạng của Mao là cách mạng của nông dân, chiến tranh nông dân. Lịch sử thường lập lại như di truyền ở Trung Quốc đã có phong trào nông dân Khăn Vàng, Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, Thái Bình Thiên Quốc. Sau này, khi đã cầm quyền Mao cũng là hình ảnh Tần Thuỷ Hoàng, Lưu Bang (trước đó, ông cũng là Trần Thắng, Ngô Quy ?). Về quân sự, Mao là người thừa kế Tôn Vũ, Ngô Khởi).

Cách mạng Trung quốc, chủ nghĩa Mao đều là sản phẩm văn hoá của Trung Quốc.

Những sai lầm sau này của Mao cũng là sự kế thừa của quá khứ. Mao là một người Mác-xit, các bài văn của ông đều thể hiện quan điểm giai cấp, kể từ bài khảo sát phong trào nông dân tỉnh Hồ Nam, phân tích các giai cấp Trung quốc đến những bài chỉnh đốn Tam phong, Mâu thuẫn luận, Thực tiễn luận.. . Marx và Engels là người Đức, triết học do ông xây dựng cũng mang phong cách Đức vì ..người Đức là dân tộc triết học, tư duy khái quát rất phổ thông - có khi khái quát vội. Truyền bá vào xã hội Trung Quốc và người Trung Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác cũng mang theo phong cách Hán vì nó phải xuất phát từ lợi ích Trung Quốc và kết hợp với văn hoá Trung Quốc. Chủ nghĩa Mác mang những phong cách khác nhau, do không gian và thời gian quyết định. Nói chủ nghĩa Mác bất biến là không mac-xít, tức là không thấm nhuần chủ nghĩa duy vật biện chứng ……………

Phần thứ ba
Bài học

Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô (15 nước), Bungari, Đông Đức, Ba Lan, Rumani, Hungari, Tiệp Khắc, Anbani, Nam Tư (mới), Mông Cổ, Trung Quốc (phần của Mao) và thất bại của những cuộc phiêu lưu ở Inđônêxia (2 lần: 1938 và 1965), Nam Yêmen, Ethiopia, Bolivia, .. Els Sanvador, Nicaragoa cho nhiều bài học lớn. Sự co lại như miếng da lừa của Balzac, phong trào cộng sản ở các nước công nghiệp hoá trong đó có những thế lực một thời oanh liệt ở các nước Pháp, Italia, trong khi đó phong trào xã hội dân chủ vẫn là một thế lực lớn, một số đảng cầm quyền đã thi hành được nhiều chính sách tiến bộ điều tiết các thế lực tư bản chủ nghĩa.

Cuộc thí nghiệm đã thực hành trong mấy chục nước ở nhiều châu lục và tồn tại lâu nhất trên 70 năm, nước đi sau cũng nửa thế kỷ.

Liên Xô cũng giành được những thắng lợi có tính toàn cầu như sau Cách mạng tháng Mười là thắng lợi chống nước Đức phát xit, nước Nhật quân phiệt, và những thành tựu biến một nước công nghiệp mới ở giai đoạn đầu, căn bản vẫn là một số nước tiểu nông với mức độ khác nhau thành một nước nông nghiệp mạnh, xây dựng được một nền khoa học, một nền kỹ thuật tương đối tiến bộ, với một đội ngũ các nhà khoa học tiên phong khá đông, đi đầu trong công cuộc chinh phục vũ trụ.

Những bài học thành và không thành đều cần tổng kết nhằm giúp vào việc nhận thức lại dưới ánh sáng của hơn một thế kỷ đi vào cuộc sống, của chủ nghĩa Mác và của nền văn minh mới của nhân loại, đổi mới, bổ sung và phát triển trong thời cơ lớn, lấy lại sức sống và là động lực phát triển của lịch sử.

Vì đâu mà lại xuất hiện những nhân vật có thể tiêu diệt hàng triệu người, buộc cả một đảng, một dân tộc phải nghe theo, không dám chống lại sau một cơn nổi giận, có thể đánh đổ tất cả những gì đã xây dựng do bao xương máu và nước mắt của nhiều thế hệ.

Thật không ngoa: Gengis, Napoléon, Hitler không thể sánh vai với Stalin; Tần Thuỷ Hoàng, Hán Cao Tổ, Đường Thái Tôn không thể sánh với Mao Trạch Đông.

Thậm chí ở một nước nhỏ như Bắc Triều Tiên, một Kim Nhật Thành có thể nắm quyền sinh sát. Cuba, Bắc Triều Tiên vẫn còn đứng vững sống, nhân dân buộc phải sống căng thẳng kéo dài.

Phải chăng có thể có mấy bài học lớn sau đây:

Lịch sử xưa nay vẫn đi theo con đường tự nhiên của nó

Sự can thiệp của con người không thể phá bỏ quy luật, một chế độ kinh tế xã hội chỉ có thể thay đổi do sự phát triển đến hạn của kỹ thuật sản xuất và một nền văn hoá phù hợp. Cái con người có thể thay đổi là thế lực và thể chế quyền lực song cũng có giới hạn, quá khứ sẽ giành lại nếu đi quá xa, tuân theo qui luật vận động khách quan không phải là sùng bái sự tự phát. Thoát ly, bất chấp qui luật vận động khách quan thì cái giá phải trả rất cao, dẫn đến những thảm hoạ lịch sử. Cũng có những cơ hội tạo ra được những bước ngoặt đi lên, con người phải sẵn sàng tranh thủ nhưng chỉ đi xa khỏi giới hạn.

Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, chưa có cuộc cách mạng vô sản nào bùng nổ. Ở đây, người ta vẫn đi theo con đường tiến hoá cải lương. Các đảng cộng sản kị đảng nào tập hợp được lực lượng bằng con dường bạo lực đánh đổ chế độ tư bản.

Các cuộc cách mạng nổ ra và thắng lợi trong thế kỷ thứ 20 đều ở các nước nông nghiệp tàn dư phong kiến còn nặng, tiêu biểu là Nga và Trung Quốc, Mông Cổ thì còn lạc hậu hơn, kinh tế du mục. Một số nước là thuộc địa. Thực chất các cuộc cách mạng ấy là dưới ngọn cờ giải phóng xã hội. Những người cách mạng tổ chức ra lực lượng chiến đấu, nắm được thời cơ, đánh đổ bộ máy cầm quyền bị nhân dân oán ghét vào lúc nó suy yếu do chiến tranh, thiết lập chính quyền cách mạng.

Bản chất các cuộc cách mạng ấy là cách mạng nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa như Việt Nam.

Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều đã theo con đường của Liên Xô và đều phá sản. Trung Quốc buộc phải chuyển hướng sau Cách mạng Văn hoá, thực chất là nội chiến, tranh chấp quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản.

Việt Nam lúc đầu cũng đi theo con đường của Liên Xô và Trung Quốc, sau hai cuộc chiến tranh, đất nước, kinh tế bị tàn phá, buộc phải quay trở lại con đường do Nhà nước cách mạng xác định từ khi mới ra đời, phát triển công thương nghiệp dân tộc, mở rộng kinh tế thị trường, các hình thức kinh tế và giao lưu quốc tế.

Sau này, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa tan rã đều đi vào kinh tế thị trường.

Bài học rõ ràng đã thông qua thất bại phải trở lại từ đầu trong hoàn cảnh mới, nhiều điều phải đi vào thời đại mới.

1/ Lúc đầu đúng về phương pháp tiếp cận khoa học, sau đó lại hướng nhảy quá cao thành nguy hiểm dẫn đến tai hoạ.

Đảng công nhân xã hội lúc đầu đưa ra cương lĩnh cách mạng tư sản dân chủ, tức là cách mạng tư sản công, nông có thể gọi là nhân dân, không phải của tư sản trong thế kỷ 19, triệt để hơn cuộc cách mạng dân chủ của đẳng cấp thứ ba ở Tiệp lúc bấy giờ, hai giai cấp tư sản và vô sản chưa hình thành mới chỉ có mầm mống, sau đó Napoléon đã đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp, kinh tế, chính trị (thể chế tư sản), văn hoá.

Nước Nga phong kiến chuyên chế, từ Pierre thứ nhât bắt đầu công nghiệp hoá, đến đầu thế kỷ 18 mới vào giai đoạn đẩu của chủ nghĩa tư bản, song về cơ bản vẫn là chế độ phong kiến lãnh chúa điều hành.

Khi đi vào một cuộc cách mạng, điều quyết định thành bại là phải xác định nó bắt đầu và sẽ đi đến đâu trước mắt, từ đó, quyết dịnh chủ thể cách mạng là những lực lượng xã hội nào. Không có cuộc cách mạng nào lại xuât phát từ chỗ chân không và tiến tới một khoảng không mênh mông. Cách mạng là cải tạo tình trạng không phù hợp, không có các động lực của phát triển, quần chúng bất bình. Sự phát triển bao giờ cũng là sự tiếp nối, giành lại những cái hiếm có hợp lý, thay những cái không hợp lý thành cái hợp lý.

Sự tiếp cận ban đầu của Lênin là tương đối với Nga, không đúng với các nước công nghiệp Tây Âu, cách tiếp cận của Bertain, Causky là đúng với các nước đó, các con đường có thể song song. Chủ trương chuyển lên chủ nghĩa vô sản, đi ngay vào chủ nghĩa cộng sản tháng 4 năm 1919 và giải pháp tình thế dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười song lại là nguyên nhân trực tiếp đổi mới và sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa tư bản quốc tế. Sự trở lại con đường ban đầu, thay đổi căn bản nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, thực hiện chính sách kinh tế mới, vừa là giải pháp tình thế, vừa là con đường đúng.

Bãi bỏ con đường ấy, trở lại chủ nghĩa cộng sản là bước vào con đường nguy hiểm dẫn đến trì trệ và phá sản sau này. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Mười của công cuộc công nghiệp hoá, của cuộc chiến tranh chống phat xít là thắng lợi của tinh thần yêu nước, như đã đánh thắng Napoléon, của tư tưởng nhiệt tình cách mạng. Nguyên nhân dẫn đến thất bại là sự hy sinh cuộc sống, lợi ích vật chất và tinh thần của con người, của đời sống gia đình và cá nhân, tất cả đều nhân danh tập thể, bất chấp lợi ích từng người.

Trong khi phải đương đầu với chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới, đề xuât chính sách liên minh dân chủ, chủ nghĩa dân chủ mới cũng là giải pháp tình thế, đồng thời trở lại con đường đúng đắn ban đầu tạo ra động lực mới.

Sau thắng lợi chống chủ nghĩa phát xít, lại bãi bỏ một cách tàn bạo ở tất cả các nước châu Âu và châu Á. Sự tiến tới chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô hoặc Trung Quốc mà nhiều nước mới thoát khỏi chủ nghiã thực dân nhanh chóng thất bại vì cũng là những mạo hiểm quá sức (saut périlleux).

Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa cũ, sau năm 1990 đều trở lại kinh tế thị trường đi vào quá trình toàn cầu hoá trong nền văn minh mới, nghĩa là phải làm lại từ đầu trong thời đại mới. Một thế kỷ cách mạng oanh liệt, thắng lợi vẻ vang và thất bại nặng nề. Cái giá phải trả to lớn không thể nói hết. Điều có ích lớn là nhận thức đúng những bài học và xác định đúng con đường phát triển trong kỷ nguyên trí thưc, khoa học, trí tuệ là nhân tố thắng lợi cơ bản.

Nếu nói quyền lực là vấn đề then chốt của cách mạng thì bản chất quyền lực như thế nào là vấn đề quan trọng đầu tiên.

Một xã hội tương lai như bản phác thảo của Marx và Engels trình bầy ít tranh cãi trong phong trào cộng sản, những vấn đề tranh luận gay gắt kéo dài là con đường chủ thể cách mạng và quyền lực thay thế quyền lực cũ.

Đối với những người đối lập với chủ nghĩa Marx thì học thuyêt cơ bản bị coi là một ảo tưởng, một thảm hoạ nhân loại, chủ nghĩa tư bản là xã hội hợp lý sẽ tồn tại lâu dài và khắc phục khuyết tật của nó.

Marx, Engels chủ trương chủ thể cách mạng chỉ là giai cấp vô sản song trong thực tế, giai cấp ấy không tồn tại ở mọi không gian, thời gian. Lênin nhận định chủ thể cách mạng ở nước Nga là giai cấp công nhân và nông dân, vai trò chủ đạo là công nhân, nông dân cũng xem xét theo tiêu chuẩn công nhân. Mao nhận định từ đầu là nông dân, có lúc nói là của bốn giai cấp, cuối cùng trở lại nông dân, coi giai cấp công nhân đã tư sản hoá, quý tộc hoá ở Liên Xô và các nước châu Âu. Mao nói: Tôi sẽ tranh luận với Karl, vấn đề tôi đúng hay ông đó đúng. tôi nói :”Nông dân cách mạng nhất”. Mác nói “Công nhân”. Hãy trông vào thực tế cách mạng.

Hồ Chí Minh nói: “Cách mạng là của nhiều lực lượng xã hội”, năm 1922 ông thêm vào khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kêt lại” ! bằng khẩu hiệu: “Tất cả các lực lượng bị áp bức, bóc lột đoàn kết lại”. Marx nói giai cấp vô sản đánh đổ giai cấp vô sản các nước tư bản, làm cách mạng giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Bác Hồ nói: ”Các dân tộc phải tự mình làm cách mạng, không trông chờ giai cấp vô sản các nước chính quốc”. Ở các nước thuộc địa, chủ thể cách mạng là toàn dân. Ở đây, sự phân hoá xã hội khác với các nước công nghiệp. Chế đô phong kiến cũng vậy, không có chế độ lãnh chúa.

Quyền lực cách mạng, chế độ mới thuộc về ai cũng là vấn đề tranh luận về đấu tranh, vô cùng phức tạp. Marx và Engels chủ trương chuyên chính vô sản, bá quyền vô sản, Lênin nhất trí và đi xa hơn khi ông viết tác phẩm Nhà nước và Cách mạng (sau tháng Mười, dự định viết lại song không được). Mao đưa ra thuyết Đảng Cộng sản, chính quyền Nhà nước đều ra đời từ họng súng của đội quân nông dân, ông đã nã pháo vào bộ tư lệnh của Đảng Cộng sản Trung quốc mà ông cho là đã đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vấn đề này trở thành những cuộc tranh chấp quyền lực đẫm máu ở Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác, sau khi Đảng cộng sản nắm chính quyền. Về lý thuyêt thật thì đề cao chính quyền của giai cấp, Đảng của giai cấp; trên thực tế biến thành Đảng của giai cấp, Đảng trở thành siêu quyên lực, trên thực tế trở thành quyền lực của một nhóm nhỏ, của một nhân vật đứng đầu, một chế độ cực quyền cá nhân, tạo thành trở lực cực kỳ lớn, triệt tiêu động lực cũng cực kỳ lớn của sự phát triển.

Ở Liên Xô, cuộc đấu tranh quyền lực diễn ra ngay lập tức sau khi Stalin qua đời. Stalin chết, cuộc đấu tranh quyền lực lại tiếp tục. Khroutchev loại trừ thế lực của Stalin muốn thay đổi cả đường lối cũ, song không kịp thực hiện đã bị đánh đổ. Cuộc tranh chấp quyền ưực tiếp tục sau khi bộ ba: Brejenev, Souslov, Koxưghin qua đời giữa Gorbachev và Yelsin

Ở Trung quốc, cuộc tranh chấp quyền lực diễn ra liên miên từ những năm 1920 giữa nhóm 28 người bolchevich được đào tạo theo con đường Stalin với Trần Độc Tú, giữa Mao và nhóm người ấy, giữa Mao và Lưu, Đặng (lũ bốn tên thuộc về Mao, giữa Mao và Lâm Bưu và sau này giữa các thế lực diễn ra kín đáo hơn).

Nói tóm lại, thì gần như trong tất cả các Đảng cầm quyền đều thực hiện quyền lực cá nhân (nói thành thật là Hồ Chí Minh từ đầu đã phản đối và kiên trì chống tranh chấp quyền lực và tự mình nêu gương, bao giờ cũng dựa vào tập thể và nhường quyền điều hành cho nhân vật lãnh đạo thứ hai).

Tệ chuyên quyền cá nhân, hình thành đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, đã bị phê phán nhưng không đánh đổ được, chỉ có hiện tượng đánh đổ lẫn nhau. Tệ chuyên quyền cá nhân, cực quyền hơn cả các vua chúa ngày xưa, kiềm chế quần chúng về mọi mặt. Tần Thuỷ Hoàng đốt sách nho, chôn sống nhà nho. Chế độ cực quyền cá nhân kiểm soát toàn xã hội cả đời sống kinh tế, văn hoá, cuộc sống gia đình, cho gì ăn nấy, chỉ có quyền vâng lời, không được phép nói trái với người lãnh đạo.

Chế độ cực quyền còn có cái hoạ là nhân cách, phong cách của nhân vật nắm trọn quyền lực, anh ta có thể phá sạch thành trì, tiêu diệt hàng triệu sinh mạng, ban phúc, gieo tai hoạ, tâm lý thất thường.

Là quyền lực của nhân dân là tất yếu và nhiều nhân vật lãnh đạo nói quá nhiều. Mọi quyền lực đều của nhân dân, dân chủ mà dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ tư sản, dân chủ nhất. Nhận định như vây là đúng với quy luật phát triẻn vì nền dân chủ này là nền dân chủ ban đầu của cách mạng dân chủ tư sản phát triển thành nền dân chủ chung, chứ không phải về thực chất là của giai cấp tư sản, trang trí bằng các vỏ dân chủ hào nhoáng đánh lừa được nhiều người, các thứ tự do đều có những quyền lực và két bạc của giai cấp tư sản không hề lay chuyển, mất mát.

Quyền lực thực sự là của dân, do dân và dân được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn thì sức mạnh của nền dân chủ là vô địch, cả lực lượng vật chât lẫn tinh thần. Nhờ thực tiễn chưa thật đầy đủ nhưng các cuộc kháng chiến của ta chống các thế lực xâm lược to lón là sức mạnh của toàn dân. Nó là vô địch. Hình thức quyền lực mỗi nước một khác, ở đây là Xô Viết, nói khác là cộng hoà dân chủ, không nên rập khuôn.

2/ Các nước đi vào chủ nghĩa xã hội năm 1917, những năm 1950, đều là những nước lạc hậu về kinh tế và văn hoá, nền sản xuât chủ yếu vẫn là tiểu nông, xã hội tiểu nông, số người mù chữ khá đông. Trừ nước Nga, các nước khác chưa có nền móng của một nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, các nước đó phải tham khảo con đường của Lênin, chính sách kinh tế mới, từng bước tổ chức lại nền sản xuất, nền cơ sở mới, nền kỹ thuật tiên tiến, tổ chức lại sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhằm xây dựng một nền sản xuất lớn hàng hoá, xoá bỏ trạng thái thủ công, công thương, tự cấp, tự túc giống như chủ nghĩa tư bản đã làm nửa sau thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chuẩn bị cho cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai……………

Trong khi nền kinh tế thiếu hut, tiếp tục cái đà xuống dốc, tinh thần phấn khởi xã hội tắt ngấm, người ta lại lao vào những công trình xây dựng lớn, dưới khẩu hiểu, hãy cố gắng lên, sắp đến chủ nghĩa cộng sản rồi đó, chẳng khác gì các giáo sĩ Kitô kêu gọi các con chiên, cố gắng lên các con, sắp đến thiên đường rồi đó.

3/ Thiên đường ngày càng xa

………..Những nhà sáng lập chủ nghiã Mác có cái lầm là đặt sức mạnh đội ngũ trí tuệ dưới đội ngũ sức mạnh cơ bắp. Các ông phê phán những người trí thức gắn liền với giai cấp thống trị, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nó, nhiều nhà thông thái rởm………

Các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều ra đời ở các nước nông nghiệp, văn hoá lạc hậu, lại chịu sự chi phối của những học thuyết cổ đại bảo thủ, hướng cổ, rất kị với những cái mới, nhất là về kinh tế, coi thương nghiệp là cái gì bẩn thỉu, hèn hạ cần phải ức chế. Ở châu Âu nó là một động lực lớn, chính nó chuẩn bị và góp phần phát triển nhanh nền kinh tế, nền văn hoá của các nước tư bản chủ nghĩa.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong lớp những nhà trí thức thường xuyên xuất hiện nhiều khuynh hướng đối lập. Lớp người này vừa được sự ưu ái, vừa bị săn đuổi, kể cả lớp trí thức do xã hội đào tạo không dính dáng gì với các giai cấp bóc lột cũ. Tập hợp được lớp trí thức, tức là tập hợp tinh hoa của xã hội, là một tiêu chuẩn đánh giá một nền chính trị mạnh hay yếu, sức hấp dẫn nhiều hay ít. Những người trí thức biết nhiều, thích nói, phản kháng sự áp đặt lẽ phải. Họ không dễ dàng làm việc với những người không bằng họ về trí thức. Người cầm quyền thích ra luật, họ thích tranh luận, không bằng lòng với vị trí xã hội của mình là bạn đường, đứng sau cùng trong trật tự xã hội vì không rõ chiến lược giáo dục, chiến lược khoa học đi liền với chiến lược phát triển đất nước, đào tạo ra một đội ngũ đông đảo những người trí thức nhưng không được sử dụng, sử dụng sai hoặc vất bỏ. Nhiều nhà trí thức của các nước xã hội chủ nghĩa chạy sang các nước tư bản chủ nghĩa. Trái lại, hiếm có những nhà trí tuệ có tài ở các nước tư bản chủ nghĩa chạy sang các nước xã hội chủ nghĩa. Những nhà khoa học lớn nhât, những phát kiến lớn nhất trong thế kỷ tứ 20 là của các nước tư bản chủ nghĩa.

Những người mac-xít một mực bác bỏ những phát hiện xã hội, văn hoá, nghệ thuật của những người ở các nước tư bản chủ nghĩa như thuyết kỹ trị, làn sóng thứ ba, cách mạng tin học, thuyết Taylor, thuyết Keynes đều cho là sản phẩm tư sản.

Khi tiếp xúc với các nhà trí thức thuộc phía bên kia, những người bên này thường tỏ thái độ trịch thượng, thầy đời, lời dài, ý hẹp.

Rõ ràng đội ngũ các nước tư bản chủ nghĩa năng động, hoạt bát, làm nên đình đám……

4/ Quan hệ quốc tế.

Marx và Engels kêu gọi giai cấp vô sản các nước đoàn kêt lại, tiến hành cuộc cách mạng thế giới, đánh đổ chủ nghĩa tư bản Quốc té, đi đén thế giới đại đồng.. Nếu là một viễn cảnh xa xôi thì cũng là một niềm hy vọng, một ước mơ của loài người. Đặt thành nhiệm vụ bàn tiếp thì ta không thực tế mà dẫn đến sai lầm về chính trị và tổ chức. Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau là cần thiêt. Cách mạng nhiều thay đổi hình thái kinh tế, xã hội là một quá trình lịch sử nổ ra và thắng lợi ở từng nước, không thể bùng nổ đồng loạt trên cả hành tinh dược, sự chỉ đạo của một bộ chỉ huy toàn cầu theo một chiến lược thống nhất.

Việc lập ra ba tổ chức Quốc tế: Quốc tế I, II, III có giúp đỡ một phần đáng kể cho sự phát triển phong trào cộng sản, song nó là một cuộc tuyên chiến với chủ nghĩa tư bản các nước, kích động đàn áp của chúng và dẫn đến sai lầm là người hô hào thành lập tổ chức này, tự nhận là lãnh đạo thành đạt, là nhân vật trung tâm, dẫn đến tranh chấp sau đó. Rốt cuộc các quốc tế lần lượt ra đời, lần lượt tự giải thể…….

5/ Cách mạng là một sự nghiệp cao cả giải phóng xã hội và con người, cải tạo xã hội bât công thành xã hội công bằng. Bản chât nhân văn của cách mạng, quyêt định phương pháp, hình thức cách mạng, thái độ ứng xử giữa con người, thay đổi ứng xử bất nhân bằng lối ứng xử nhân đạo. Đạo Nho coi trọng chữ nhân, chữ thiện, các tông giáo cũng khuyên thiện chống ác.Bản chất con người là thiện. Có người nói: “Nếu coi con người là người thì phải đối xử với nó có tính người”. Nhưng cuộc cách mạng đã quá lạm dụng bạo lực, gây ra những vụ đàn áp rât trầm trọng như ở Liên Xô, Trung quốc, thậm chí trong Đảng giết lẫn nhau để tranh quyền. Những nhà cách mạng chân chính lên án những hiện tượng tàn bạo đó, nghiêm khắc phê phán những người chủ trương mục đích là tất cả, phương tiện không đáng kể. Phải nói lại rằng mục đích là nhân đạo, thì phương tiện sử dụng cũng phải nhân đạo.

Lỗi lầm lạm dụng bạo lực khiến cho nhiều người xa lánh, ghê sợ cách mạng.

6/ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản quyết định thành bại của cách mạng thể hiện rất sinh động ở các nước trong thế kỷ vừa qua, thắng lợi và thât bại đều có tầm cỡ lịch sử như mọi người chứng kiến, lịch sử ghi mãi những sự kiện ấy.

Những thắng lợi lớn là cách mạng tháng 10 Nga, cách mạng Trung Quốc, Việt Nam và các nước khác, thắng lợi trong cuộc chiến tranh thế giới chống chủ nghĩa phát xít châu Âu và chủ nghĩa quan phiệt châu Á, cả của Nhật Bản và Trung Quốc. Thắng lợi của các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc đia, xoá bỏ hoàn toàn chủ nghiã thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới nhờ có chỗ dựa là các nước xã hội chủ nghĩa và ảnh hưởng tư tưởng giải phóng của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mao và nhiều thắng lợi khác.

Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và một loạt nước khác cũng do sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nghĩa là cái đúng, cái sai đều có cả.

Nguyên nhân đúng sai từ đâu ra ? Đây là một bài học lớn nhât đối với tất cả những người cách mạng.

Thắng lợi và thất bại đều bắt nguồn từ học thuyết cách mạng ban đầu, sau đó là sự lãnh đạo của các đảng và những nhân vật lãnh đạo của các đảng ấy.

Từ khi nắm quyền lãnh đạo đất nước, các đảng trở thành chuyên quyền, người lãnh đạo tuyệt đối. Về danh nghĩa thì nói rằng đảng của giai cấp công nhân, của toàn Đảng, trong thực tế thì người đứng đầu nắm mọi quyền lực, thông qua hệ thống tổ chức thực hành mọi quyêt định. Người đứng đầu thường nhân danh nguyên tắc tập trung, gắn thêm một cách lỏng lẻo để chuyên quyền và giải thích là nguyên tắc cao nhất trong sinh hoạt cuả Đảng.

Khái niệm naỳ xuất hiện từ đâu, và nó được đưa vào hoạt động như thế nào? Năm 1847 khi được những người lãnh đạo Liên minh những người công chính (Ligne des juste) yêu cầu cải tổ lại tổ chức này thành một chính đảng có cương lĩnh điều lệ. Đáp lại lời mời đó Marx và Engels nêu những điều kiện và thủ tục kết nạp các thành viên có tính tông giáo, hai là, chính đảng mới phải là đoàn thể dân chủ, khi chuẩn bị ra các qui định thì phải thảo luận dân chủ, mọi người đều bình đẳng khi bỏ phiếu. Cơ quan cao nhất của toàn đảng và các cấp là đại hội. Đại hội bầu ra cơ quan chấp hành; từ đại hội này đến đại hội sau cơ quan cao nhât là Ban chấp hành, Ban này phải chịu trách nhiệm trước đại hội.

Lúc này chưa nói đến nguyên tắc tập trung. Nguyên tắc này do Lênin nêu ra. Cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt khi chuẩn bị điều lệ của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga. Vì vây, đảng chia thành hai phái, đồng thời tồn tại đến Cách mạng tháng 10. Những người không tán thành chủ trương của Lênin là những nhân vật hàng đầu của phong trào mac-xít lúc ấy ở Nga như Phekhanov, Marta, Bogdanov, Asebra (?). Các đảng xã hội dân chủ Tây Âu cũng phản đối nguyên tắc này. Cuộc tranh luận kéo dài suốt thế kỷ 20 và tiếp tục đến tận bây giờ

Chúng ta xem, nhìn lại việc đưa nguyên tắc ấy vào cuộc sống bắt đầu từ Stalin. Ông này đã nhân danh nguyên tắc tập trung dân chủ để thực hiện chế dộ cực quyền cá nhân và chế dộ này đã để lại những hâụ quả tai hại mà mọi người đã biết. Và phong trào cộng sản quốc tế đã xuất hiện những nhân vật khét tiếng tàn bạo: Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật thành, Cheochetxcu.

Thể thức đưa ra các quyêt định rất tuỳ tiện. Những quyết định trên danh nghĩa đều được thông qua thảo luận của các cơ quan lãnh đạo. Song tiếng nói cuối cùng vẫn là của nhân vật đứng đầu, người chuẩn bị các quyêt định đó thông qua một nhóm nhỏ những người biên tập, không phải là những chuyên gia giỏi. Nhiều quyết định có quan hệ đến vận mệnh, tiền đồ đất nước được đề xuất và tất nhiên được chấp nhận theo tuỳ hứng, như bãi bỏ chính sách kinh tế mới, chuyển sang thực hiện năm năm với hai nhiệm vụ trung tâm công nghiệp hoá và tập thế hoá nông nghiêp, sau khi thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch thứ nhất, tiếp theo kế hoạch thứ hai, rồi năm 1936, tuyên bố xây dựng xong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.

Từ giận dữ, Stalin mở chiến dịch chống hữu khuynh, tả khuynh, thanh trừng nội bộ. Những nhân vật nói trên không bao giờ chấp nhận ý kiến người khác, chỉ thích nghe những lời tâng bốc ngọt nào, có quyền phê bình người khác, ai dám can Stalin?

Cũng từ giận dữ, Mao phát động chiến dịch đánh đổ Lưu, Đặng, xoá bỏ đường lối do Đại hội lần thứ VIII thông qua, đưa ra đường lối Ba ngọn cờ hồng, phát động Đại cách mạng văn hoá, loại bỏ tất cả, ai dám can Mao?

Không khí sinh hoạt trong đảng lãnh đạo mà trong xã hội các nước xã hội chủ nghĩa thật là buồn tẻ, mặc dù hội họp, lễ hội hầu như diễn ra quanh năm, các cuộc vận động không ngừng được mở rộng. Buồn tẻ vì người ta không có quyền nói về cuộc sống vất vả, thiếu thốn. Mọi việc đều được sắp xếp từ bên trên, ăn gì, mặc gì, con người không có quyền chủ động như Nguyễn Tuân nói: Bắt cởi trần phải cởi trần! Cho may ô mới được phần may ô, mà xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Xếp Hàng Cả Ngày.

Nói rằng, trong xã hội thường xuyên có sự nhất trí về chính trị và tư tưởng là không đúng sự thật, sự im lặng kéo dài, cuối cùng bỏ mặc cho chủ nghĩa xã hội tan rã, người ta bỏ phiếu bằng đôi chân lũ lượt chạy sang các nước tư bản để làm những việc thấp kém, có khi mât cả phẩm gia con người để kiếm sống.

Một tiềm năng cực kỳ to lớn của đất nước bị lãng phí sức lao động và trí tuệ của con người. Nếu là một đảng dân chủ, người được mở miệng ra thì nhiều sai lầm có thể tranh, nhiều thử thách có thể vượt qua.

Tư duy của những người lãnh đạo đã nắm được quyền lực, cố bám giữ bằng mọi cách, thi hành chính sách ngu dân, giữ nếp cũ, quay mặt đi trước những ý kiến xây dựng chân thành, đàn áp không thương tiếc những ai dám có ý kiến phê bình.

Nhiều nhà cách mạng biết khi đấu tranh gian khổ chống chế độ bât công thì anh dũng, anh hùng, gắn bó với nhân dân. Sau khi đã trở thành người lãnh đạo Nhà nước, tâm lý họ thay đổi rất nhanh, chuyển sang chăm lo giữ lấy quyền lực, tranh chấp với ai có thể thách thức họ. Tinh thần cách mạng sa sút như quả bóng xì hơi. Họ trở nên bảo thủ, cự tuyệt thay đổi vì sợ tạo thành rối loạn. Người muốn là nhà cách mạng tiên phong phải có lý luận tiên phong, những người nắm quyền lực, tư duy bảo thủ thì không muốn khám phá cái mới, cho nên họ muốn yên ổn, song đời sống lại không ngừng biến đổi, do đó mâu thuẫn phát sinh, phát triển làm cho mất sức. Họ đã không muốn tìm tòi, lại sợ người khác tìm tòi để đi xa hơn mình, vì vậy phải ngăn cản, giữ độc quyền chân lý mà họ đã nói, đã viết. Có người lãnh đạo bằng diễn văn, bài báo, tuyển tập……..

….. Lần thứ nhất nhân danh Quốc tế cộng sản, Stalin phê phán con đường của Nguyễn Ai Quốc là dân tộc chủ nghĩa cải lương, hữu khuynh, buộc phải chấp nhận cương lĩnh cách mạng công, nông, đổng thời đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hành con đường đó, lực lượng của ta bị thu hẹp giữa lúc tinh thần yêu nước đang lên cao kể từ năm 1929, đặc biệt trong giới trí thức, thanh niên và một bộ phận tư sản, địa chủ. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản dân tộc chưa thật sự hình thành.

Do tả khuynh, khi bị kẻ thù đàn áp, không tự sức chống đỡ, tổn thất nặng nề.

Từ năm 1936 trở đi, ta giành lại quyền chủ động. Năm 1941, ta phát triển đường cách mạng trong tình hình mới, thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giương cao ngọn cờ yêu nước, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và dân chủ, chuẩn bị lực lượng, khi thời cơ đến, tổng khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hoà Dân chủ của nhân dân, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp phát động cuộc chién tranh xâm lược lần thứ hai. Ta thực hiện được một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.

Năm 1950 Liên Xô và Trung Quốc buộc ta trở lại cương lĩnh cách mạng công nông, thực hành cách mạng ruộng đất bằng bạo lưc, chọn lọc tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy quân đội và bộ máy Nhà nước. Bao vây kinh tế, chuẩn bị xoá bỏ các hình thức kinh tế tư nhân bằng chính thuế (?).

Chiến dịch thanh trừng nội bộ, cải cách ruộng đất gây nên những tổn thất to lớn về lực lượng, chính trị và kinh tế. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, trên một triệu người ở miền Bắc chạy vào Nam. (Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, hai triệu người bỏ nước chay đi nước ngoài do chủ nghĩa tả khuynh của ta).

Sau lần tả khuynh dẫn đến cuộc khùng hoảng kinh tê-xã hội 1975-1985, buộc ta phải đổi mới con đường phát triền của nước ta. Công cuộc đổi mới của ta bắt đầu từ năm 1986, về thực chất là do đi trệch đường mà phải trở lại con đường cũ đã đựơc nêu ra 1929, 1941, 1945, khuyến khích phát triển công thương nghiệp dân tộc, mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, mở rộng kinh tế thị trường, thực hiện quyền tự chủ trong sản xuât kinh doanh của các chủ thể kinh tế, Nhà nước chỉ quản lý về mặt hành chính, chỉ đạo vĩ mô, đưa ra chiến lược phát triển đất nước.

Như vậy là ta đã hai lần mất quyền chủ động về đường lối và hai lần giành lại được. Công cuộc cách mạng trước đây, cũng như hiện nay, ta nắm vứng quyền chủ động thì cách mạng thắng to.

Những bài học quý báu nói trên nhắc nhở chúng ta, rằng phải biết tham khảo kinh nghiêm nước ngoài, nhưng phải nắm chắc tinh thần độc lập, tự chủ, chớ làm theo nước khác một cách máy móc. Chân lý bao giờ cũng cụ thể, cách mạng là sáng tạo.

Ta đã hội nhập đời sống quốc tế về nhiều lĩnh vực, tư duy đã đổi mới song vẫn còn nhiều hiện tượng ngập ngừng, vẫn còn vương vất không ít mầu sắc tư duy đã lỗi htời. Đi vào thời đại mới, muốn đuổi kịp người ta, phải có tư duy mới, tư tưởng mới, phong cách mới.

Toàn cầu hoá là một bước ngoặt rất lớn trong đời sống nhân dân. Không có bất cứ thế lực nào kéo lùi được bánh xe lịch sử, mặc dù mặt tiêu cực của nó ghê gớm như cuộc chạy đua giữa các cường quốc tranh nhau chỗ đứng dưới mặt trời, nước giàu muốn nuốt nước nghèo trong quan hệ kinh tế. Hội nhập có lợi lớn đối với phát triển vì nó mở rộng thị trường cho cả giàu lẫn nghèo, phân công lại lao động toàn cầu, chuyển giao công nghê, giao lưu văn hoá, kinh nghiệm kinh doanh trong thời đại thông tin.

2- Lựa chọn con đường càng ngắn càng tốt là điều kiện để nhanh chóng vượt lên phía trước, khắc phục càng nhanh càng tốt khoảng cách khá xa với các nước tiên tiến. Bao giờ trí tuệ cũng là nhân tố tiến bộ hàng đầu. Đẽo đá là bước tiến đầu tiên của con người cũng là sản phẩm của trí tuệ. Trong thhời đại điện tử, nền văn minh trí tuệ, muốn tiến nhanh phải có trí tuệ tương ứng. Đối với dân tộc ta, vận mệnh, tiền đồ đều do trí tuệ quyết định. Vì vây, tiền đề của phát triển là tạo ra một xã hội trí tuệ, một đội ngũ trí tuệ đông đảo. Các nước đi trước nước ta trong ba thế kỷ vừa qua hơn ta về trí tuệ. Trí tuệ đưa đến cuộc phục hưng, thế kỷ ánh sáng. Hai cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuất nhiều nước châu Â, châu Phi dẫm chân tại chỗ vì trình độ văn hoá, giáo dục thấp kém.

Nền giáo dục và đào tạo nhân tài của ta phải hình thành đồng bộ đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, kỹ thuật, quản lý, kinh doanh, hành chính và dội ngũ những người lao động giỏi, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của chiến lược phát triển kinh tế.

Nền kinh tế của ta phải là nền kinh tế đa dạng của nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức kinh tế, không cố định lâu dài xuất phát từ hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh và hợp tác bình đẳng.

Nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hoá - thị trường. Nó phải phục tùng những quy luật vận động chung của nền kinh tế ấy khi đã hội nhập nền kinh tế toàn cầu và hoạt động kinh tế của nước ngoài trên đât nước, của nước ta trên đất nước ngoài. Sự khác nhau là tất cả các hoạt động của kinh tế trên đất nước ta đều phải tuân theo pháp luật và làm nghĩa vụ. Mọi hoạt động kinh tế đều phải đóng thuế, nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.

3- Nền kinh tế của ta phải là nền kinh tế có hiệu quả cao, bằng cách tập trung sức lực hình thành những ngành kinh tế mà ta có thế mạnh về nguyên liệu, khí hậu, nhân lực. Tất cả đều dựâ trên những công nghệ mới nhất. Trong điều kiện cuộc cách mạng công nghệ trên thế giới đang bùng nổ, không nên xây dựng những cơ sở quá lớn, xây dựng lâu, khi đi vào khai thác thì kỹ thuật đã lạc hậu.

Nhiều ngành ta tự xây dựng bằng tiền vốn của mình và cũng nhiều ngành vẫn kêu gọi nguồn vốn nước ngoài khai thác như khoáng sản, năng lượng. Hiện tượng chạy đua xây dựng nền công nghệ điện tử, tin học làm cho nền kinh tế mới nhanh chóng bị bão hoà. Song không vì vậy mà ta không đi vào xây dựng có chọn lọc nền kỹ thuật này.

Công nghệ sinh học, hoa học, năng lượng là những ngành mà ta có ưu thế như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nhiệt đới, dược liệu thảo mộc, hương liệu của ta khá dồi dào. Nhiều sản phẩm không cần đầu tư lớn và nhiều nhân công nhưng thu lợi nhanh, nhiều, cần được khắc phục.

Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững là phát triển sản xuất, phải đi liền với phát triển xã hội. Sản xuất là sự nghiệp của con người vì con người đáp ứng tốt nhu cầu trước mắt, đồng thời với lâu dài. Hy sinh cái trước mắt mà cái lâu dài cũng không đạt được vì muốn sản xuất có hiệu quả, người lao động phải tái sản xuât sức lao động cho hôm nay và cả ngày mai…

4- Cùng với việc xây dựng nền kinh tế với ba khu vực trên nền tảng một nền công nghệ hiện đại, càng phải xác định chiến lược vì con người, đáp ứng từng bước tốt hơn các nhu cầu ăn uống, nhà ở, mặc, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, tức là mâm cơm, cái nhà hay căn hộ, quần áo, trường học và thầy giáo, bệnh viện và thày thuốc. Sự tan rã của các nước xã hội có một nguyên nhân quan trọng này. Giấy khai, danh hiệu, động lực tinh thần cũng cần song không thể biến thành robot.

5- Văn hoá là động lực của sự phát triển, là sức sản xuất tiềm tàng to lớn của một xã hội. Một nước trình độ văn hoá thấp, không thể có một nền sản xuất cao vì con người là chủ thể của nó. Sự phát triển đồng bộ kinh tế và văn hoá là bảo đảm của phát triển bền vững.

Hưởng thụ văn hoá là nhu cầu của con người. Nhu cầu ấy không chỉ là hạnh phúc, niềm vui, mà còn là phương tiện nâng cao tố chất con người, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, phấn đấu trong hoạt động sáng tạo.

Xuất phát từ con người, tât cả vì lợi ích con người là phương châm chỉ đạo hoạt động của kinh tế.

Hội nhập nền kinh tế toàn cầu, nghĩa là ta cũng phải xây dựng nền kinh tế mới, kinh tế trí thức. Muốn trí thức hoá nền kinh tế, phải có một xã hội trí thức mà nòng cốt là đội ngũ tài năng, tinh hoa, phải tập hợp trong Đảng cộng sản, Đảng của tinh hoa dân tộc, xã hội.

Đầu tư cho con người là quan trọng nhât, bảo đảm vững chắc nhất sự phát triển của đất nước. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là mục tiêu động lực của cách mạng nước ta trong thời kỳ trước mắt. Mọi hoạt động xã hội đều nhằm mục tiêu cơ bản ấy. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nền tảng vật chât- kỹ thuật của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Kiên trì thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta phải, về mặt tư tưởng, phải đi tiên phong trong thời kỳ mới, khắc phục những tàn dư tư duy cũ đã bị cuộc sống không chấp nhận. Hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải nhẹ nhàng, không tốn kém, hiệu quả cao, trong sáng, minh bạch. Đời sống xã hội phải hoạt bát, năng động, hoạt bát trên cơ sở một nền dân chủ nhân dân, tự do tư tưởng, ngôn luận. Dân chủ về chính trị đi liền với dân chủ về kinh tế, văn hoá.

Đảng Cộng sản phải là người tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc và xã hội, về đạo đức và phong cách, tiêu biểu của đạo đức cách mạng mà ta đang xây dựng.

Tư tưởng Hồ chí Minh mãi mãi chỉ đường cho các thế hệ chúng ta./.

Hoàng Tùng

----- O -----

Cảm Nghĩ Về Lời Đề Nghị của HT Thích Quảng Độ

Những dư âm ngọt ngào của Tết Ất Dậu đã đi qua, mỗi người trong chúng ta đã phải trở về với công việc thường nhật của mình. Năm Ất Dậu đã mở ra cho chúng ta nhiều hy vọng về một tương lai tốt đẹp. Một trong những sự kiện được cộng đồng người Việt nam khắp nơi chăm chú theo dõi và là một món quà Xuân đầy ‎í nghĩa đó là lời kêu gọi DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN cho Việt nam trong năm 2005, qua lá thư chúc Xuân của một Vị Đại Hòa Thượng, tức Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN).

Hòa Thượng Thích Quảng Độ là một khuôn mặt quen thuộc và gần gũi không những với những người Phật tử mà còn nổi tiếng trong cộng đồng Việt nam trong nước và Hải ngoại, với cả dư luận tiến bộ khắp Thế giới. Hòa Thượng được biết đến và ghi nhận như là một biểu tượng bất khuất trong việc đấu tranh cho Tự do Tôn giáo tại Việt nam. Ngoài ra Hòa thượng còn là người vận động không mệt mỏi cho nền Tự do và Dân chủ tại Quê nhà.

Mặc dù đã biết và nghe tên tuổi của Hòa Thượng đã lâu nhưng qua lá thư Chúc Xuân của Hòa Thượng cũng như hai phần trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do do phóng viên Ỷ Lan thực hiện, tôi thật tình khâm phục và kinh ngạc về kiến thức uyên bác của Hòa Thượng. Gần 30 năm nay, Hòa thượng sống trong cảnh bị quản thúc, theo dõi, nhưng hiểu biết của Ngài về cuộc sống hiện tại của người Dân Việt nam, về chính quyền cộng sản cũng như tình hình Thế giới thật là đầy đủ, khách quan và chính xác.

Lời kêu gọi của Hòa Thượng đã được tất cả những người Việt Nam có lương tâm và yêu nước nồng nhiệt đón mừng. Từ trong nước, hai nhà Dân chủ hàng đầu của Việt nam là Nhà Văn Hoàng Tiến và giáo sư Hoàng Minh Chính đã lên tiếng hoan nghênh và ủng hộ lá thư của Hòa Thượng. Ở Hải ngoại cũng vậy, nhiều nhà trí thức cũng bày tỏ sự ủng hộ nhiệt tình.

Hai mươi năm xây dựng CNXH ở Miền Bắc và 30 năm sau ngày thống nhất Đất nước, đảng cộng sản Việt nam vẫn còn loay hoay với một thứ chủ nghĩa và học thuyết đã bị loài người từ bỏ đã lâu, đó là học thuyết và chủ nghĩa Mác-Lênin, sau này còn ‘chế’ thêm hai món nữa là ‘tư tưởng Hồ chí Minh’ và ‘nền kinh tế thị trường định hướng XHCN’. Rõ ràng, chủ nghĩa cộng sản và học thuyết Mác-Lênin với nền tảng của nó là đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản đã không mang lại hạnh phúc và no ấm cho nhân dân , ngược lại nó chính là nguyên nhân gây ra nhiều khổ đau và nhục nhã cho dân tộc ta, một Dân tộc có lịch sử nghìn năm văn hiến. Con đường duy nhất để phục hưng Đất nước đó là ‘Dân chủ và Đa nguyên’. Ba mươi năm qua, biết bao nhiêu người Việt nam, bao nhiêu là tổ chức Chính trị… ưu tư với vận mệnh của Tổ quốc đã đi tìm cho mình một con đường, con đường đó đã có, đúng như lời của Ngài ‘Chúng tôi suy nghĩ từ bản thân qua hàng chục năm lưu đày, tù ngục và quản chế, thì thấy không còn con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái thiết đất nước’. Cho dù giữa các lực lượng dân chủ vẫn còn nhiều khác biệt, nhưng cơ bản đã thống nhất trên một lập trường chung : Dân Chủ Đa Nguyên và đấu tranh bằng con đường Chính nghĩa, Bất bạo động. Ngài khẳng định rằng ‘ Xu thế địa cầu ngày nay, khắp năm châu nổi lên ý lực hợp tác, chia sẻ, đối thoại, qua phong trào Toàn cầu hóa Kinh tế và Toàn cầu hóa Dân chủ’. Đó là Chân lí, là Thời đại, là khát vọng ngàn đời của mọi Dân tộc, mọi Con người.

Vẫn đang còn một Tâm lí đang ảnh hưởng và ngự trị mạnh mẽ trong suy nghĩ của nhiều người Việt nam, kể cả những người có trình độ và hiểu biết đó là ‘tôi không làm chính trị’, ‘tôi không thích, không quan tâm đến chính trị’, ‘ chính trị là một cái gì đó bẩn thỉu, xấu xa’…Tâm lí này hoàn toàn bị xua tan nếu chúng ta nghe những lời của Ngài Thích Quảng Độ ‘Ðúng nghĩa thì chính trị không phải là một cái xấu. Theo quan niệm của Ðức Khổng Tử thì ngài nói chính giả chính giã. Người làm chính trị là những người sửa sang việc nước, cái gì bất công thì sửa lại cho công bằng, cái gì cong queo thì uốn cho nó thẳng thắn, thì chính trị ấy là chính trị đạo đức’. Đúng là như vậy, bản thân chính trị không có gì xấu, ngược lại đó là những việc làm quan trọng và cần thiết trong bất cứ một xã hội nào, đó là những việc làm cao cả và vinh quang. Tiếc rằng những người cộng sản đã làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp này. Giờ đây, cứ mỗi khi nghe nói đến chính trị, người ta nghĩ ngay đến cái gọi là chính trị chế độ cộng sản đang thi hành . Và tất thảy đều rùng mình, kinh sợ vì đã chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh tranh dành quyền bính, vu khống, hãm hại, tiêu diệt lẫn nhau giữa những người mà người ta gọi nhau bằng những cái tên rất mỹ miều như ‘đồng chí’, ‘anh em’ v.v…. Một vụ việc đang trở thành thời sự ‘vỉa hè’ của tất cả những người Dân quan tâm đến chính trị đó là vụ án T4, tức vụ án do Tổng Cục 2 dựng lên, vì quyền lợi của phe nhóm mình mà những người cộng sản chóp bu như Cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh sẵn sàng vu khống hãm hại người khác, bất kể người đó là ai, kể cả Đệ nhất Công thần của chế độ như Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Trong lời kêu gọi cho một thể chế Dân chủ, Đa nguyên của mình, Hòa Thượng đã đề cao vai trò của giới Sĩ phu, Trí thức mà không phân biệt thành phần giai cấp, xuất thân, miễn là người đó có trình độ và hiểu biết ‘Thế giới ngày nay tiến bộ, tiến rất nhanh, đòi hỏi con người lãnh đạo đất nước phải có đầu óc tỉnh táo, nhạy bén để đương đầu, thích ứng với những biến sự xẩy ra từng giờ, từng phút, chứ không phải từng ngày. Nếu mình không thích ứng được thì mình tụt hậu. Bởi thế cho nên người lãnh đạo ngày nay cần phải có trình độ trí tuệ đáng kể. Như thế là bình đẳng chứ không phải phân chia giai cấp, như kiểu giai cấp đấu tranh của Cộng sản đâu… đã vào giới lãnh đạo là phải tối thiểu có một trình độ trí tuệ’. Quả thật là như thế, làm chính trị hay lãnh đạo đòi hỏi phải có một trình độ, hiểu biết nhất định. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng đã khẳng định rằng ‘lực lượng lãnh đạo luôn là lực lượng ưu tú nhất”. Lãnh đạo đất nước là một công việc nặng nề, khó khăn mà không phải ai cũng có thể làm được. Họ sẽ bị vất vả, mệt mỏi, chịu bao nhiêu điều ngang trái, và có thể sẽ rất cô đơn , nhưng chính họ sẽ là người thay đổi vận mệnh của Đất nước và nhân dân sẽ ghi nhớ công ơn của họ. Lực lượng duy nhất để canh tân Đất nước đó là tầng lớp sĩ phu, trí thức. Chính họ chứ không còn ai khác phải làm việc đó, tức là Cứu Nước.

Chúng ta có thế dễ dàng thấy được hiện thực xã hội mà chúng ta đang sống ngày hôm nay. Một xã hội bần cùng, nghèo khó, nhân cách và đạo đức suy đồi. Sự dối trá và lừa lọc ngự trị trong mọi tầng lớp xã hội. Thu nhập của người Việtnam thuộc hàng thấp nhất thế giới, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, tự do của con người bị đẩy xuống mức thấp nhất: người dân không dám nghĩ, không dám nói, không dám bàn luận, không dám nói thật những điều đang nghĩ. Chính Hòa Thượng đã phải thốt lên rằng ‘Tôi thấy về mặt tinh thần, nhân quyền bị chà đạp, phẩm giá con người bị coi thường. Về mặt vật chất, thì nhân dân phần nhiều đói khổ, tụt hậu, kinh tế không phát triển được’. Thử hỏi tương lai nào đang chờ đón chúng ta? Tương lai nào cho người Dân Việt? Theo quan sát của tôi thì dường như hiện nay chỉ có một con đường hữu hiệu duy nhất cho thanh niên Việt nam lập nghiệp, đó là đi làm thuê cho Nước ngoài! Nếu có học hành đàng hoàng thì cũng đi làm thuê cho các công ty nước ngoài vì biên chế nhà nước thì con cha cháu ông chiếm hết cả rồi. Còn nếu không học hành đến nơi đến chốn thì cũng chỉ có một con đường duy nhất là vào làm thuê trong các Khu chế xuất, Khu công nghiệp với đồng lương rẻ mạt so với công sức bỏ ra. Dân tộc Việt nam đang có nguy cơ biến thành một Dân tộc nô lệ, nô lệ chính ngay trên quê hương mình.

Trước bao cảnh đời ngang trái đó, người Dân Việt đã phản ứng ra sao? giới trí thức phản ứng ra sao? tinh thần Dân tộc của một Đất nước ngàn năm văn hiến như thế nào? để một người như ông Nguyễn Hải Sơn phải đau đớn thốt lên ‘vụ TQ bắn người, cướp xác ngư dân VN; chẳng có thằng sinh viên nào dám hó hé. Anh hùng chỉ là anh hùng… rơm. Ra đường quẹt nhau, xe chưa trầy nước sơn đã đánh nhau vỡ đầu chảy máu. Một dân tộc có nhân cách như vậy, không làm nô lệ cho thằng này cũng làm tôi tớ cho thằng khác mà thôi’ (Nguyễn Hải Sơn- Hòa Lộc một vụ khiêu chiến đầy chủ đích- Điện thư số 40). Chẳng lẽ người Việt nam cứ hành xử như vậy mãi sao? Tinh thần Dân tộc đâu cả rồi? Ai sẽ là người mang lại niềm tin cho chúng ta? Không ai khác đó là những người trí thức, sĩ phu, những người có lương tâm và hiểu biết. Những người biết đau cái nỗi đau của đồng bào mình, biết nhục cái nhục của Đất nước mình, biết xót xa cho thân phận bọt bèo của người mình. Có như vậy Đất nước mới hồi sinh và con cái chúng ta mới có cơ hội ngẩng đầu lên với bè bạn bốn phương.

Có những việc làm rất đáng hoan nghênh trong thời gian qua đó là nhân vụ án ‘chính trị siêu nghiêm trọng’ (T4, Tổng Cục 2) đã có rất nhiều tiếng nói đã cất lên từ những Cựu chiến binh, các Vị Lão thành cách mạng, các Cựu quan chức cao cấp của chế độ, mà mới đây nhất là thư của các Ông Hai Xô, Ông Bảy Cống, Ông Năm Thi (ở Miền Nam) và kể cả Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Họ đều là những người có công và uy tín lớn với chế độ, sau khi nghỉ hưu quay trở lại với đời thường, có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp Nhân dân khác nhau Họ đã thấy nhiều điều bất công và ngang trái mà trước đây họ không (hoặc chưa) thấy được. Do nhiều liên hệ ràng buộc chặt chẽ với chính quyền mà những lời đề nghị của Họ không hẳn dứt khoát và mạnh mẽ được như lời đề nghị của Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thế nhưng những tiếng nói yêu cầu lãnh đạo đảng cộng sản phải tôn trọng và thực thi Luật pháp (của chính chế độ cộng sản) một cách công minh và rõ ràng cũng là những tác động rất tốt đến công cuộc đấu tranh cho Dân chủ và Tự do của nhân dân Việt nam. Rất mong rằng sẽ có nhiều tiếng nói khác được cất lên bởi những người có uy tín và lương tâm trong chính hàng ngũ của Đảng cộng sản. Sự cam đảm nói lên những suy nghĩ đúng với lương tâm này sẽ làm cho Họ được thanh thản và không phải hổ thẹn khi về thế giới bên kia, danh dự của Họ, của con cháu Họ sau này sẽ còn mãi, còn nếu cứ cố tình ‘ngậm miệng ăn tiền’ thì chắc chắn rằng trong sâu thẳm tâm hồn họ sẽ có những lúc ăn năn, xấu hổ. Chẳng lẽ lại mang theo những mặc cảm này đi về cõi Vĩnh hằng sao?

Tất cả những người Việt nam đấu tranh chân chính cho nền Dân chủ và Tự do đều khước từ bạo lực, đều muốn mang lại sự thay đổi trong Hòa bình và êm thắm, không ai muốn đổ máu và nội chiến cả. Vì vậy sự thay đổi chỉ đến với Việt nam khi đại đa số nhân dân Việt nam ý thức được sự cấp thiết của dân chủ, và tất cả sẽ cất lên tiếng nói của mình, từ những người thường Dân cho đến các bậc sĩ phu, trí thức, công chức, công nhân, nông dân, tư sản, sinh viên, học sinh…kể cả các chức sắc Tôn giáo. Khi tất cả người Dân đều nói lên chính kiến và suy nghĩ của mình một cách mạnh mẽ thì sẽ tạo ra được áp lực buộc chính quyền phải thay đổi. Đó là sự thay đổi trong hòa bình, không có gì xấu xa hay ghê gớm cả. ‘Diến Biến Hòa Bình’ là quá trình đấu tranh bền bỉ, cao cả, vất vả và nhân văn của mọi tầng lớp Nhân dân Việt nam, chứ không phải là ‘âm mưu thâm độc’ của bất cứ kẻ thù nào.

‘Không còn con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái thiết đất nước’, đúng như vậy, đó là con đường duy nhất để mang lại hạnh phúc cho nhân dân ta. Không có Dân chủ sẽ không có Tự do, không những với Dân thường mà kể cả với Tôn giáo. Sự Tự do của tôn giáo chỉ có được khi có Dân chủ thật sự. Bằng chính cuộc đời mình Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã khẳng định rằng ‘Pháp nạn của Giáo hội chúng tôi, trừ ra có chế độ đa đảng dân chủ, nếu không thì Giáo hội thường xuyên bị đàn áp, chẳng biết bao giờ được chấm dứt. Còn chế độ độc đảng Cộng sản như thế này, Giáo hội còn bị đàn áp, bởi vì từ bản chất Cộng sản đã không dung chấp tôn giáo, thường xuyên là một chính sách đấu tranh giai cấp, luôn luôn tranh đấu đến khi nào tiêu diệt được tôn giáo mới thôi’. Đấu tranh cho một nền Dân chủ đích thực sẽ là công việc của cả Dân tộc, không phân biệt thành phần xuất thân hay Tôn giáo, cho dù chúng ta có không muốn ‘dây dưa’ với chính trị thì chính trị cũng sẽ ảnh hưởng đến chúng ta từng ngày, từng giờ. Từ chuyện cảnh sát ăn tiền, làm luật đến chuyện chầu trực xin chứng nhận một loại giấy tờ gì đó, từ Phường, Xã cho đến Trung ương.(Có một câu chuyện mới đây trên báo Tuổi trẻ là con một ông Bộ trưởng hay Thứ trưởng gì đó muốn xin đăng kí kết hôn cũng phải chạy toát mồ hôi, qua 8 ‘cửa ải’ mới làm xong thủ tục rất đơn giản này, như vậy không chỉ Dân đen là nạn nhân của chế độ mà kể cả con cái của các Đại quan cũng chịu chung số phận đau buồn này).

Có những câu hỏi mà nhiều người trong giới sĩ phu vẫn đang tìm câu trả lời, đó là: Thời cơ bao giờ đến? Vận mệnh của Đất nước bao giờ mới Đổi thay? Hoà Thượng Thích Quảng Độ cũng ưu tư về cái thời, cái vận của dân tộc, ngài viết :‘đất có tuần, dân có vận. Vận nước tuần hoàn đi rồi lại lại. Sự tuần hoàn như thế xác định mọi sự trên thế giới đều chuyển biến, thay đổi không ngừng, chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn. Ðạo Phật chúng tôi gọi lẽ ấy là vô thường. Nhờ vô thường, mà con người có thể tham dự, như tác nhân, để chuyển hóa nghịch cảnh : hạnh phúc có thể tái tạo, tự do có thể thiết lập, nô lệ có thể chấm dứt. Cho nên kẻ sĩ phu theo thời mà thông biến. Lịch sử nước ta trải dài nhiều nghìn năm cho thấy sĩ phu là giới hiểu thời vụ, nhờ hiểu thời vụ mà ra tay chuyển hóa thời đại làm cho quê hương thoát cơn luân hiểm, sinh dân được an lạc.’

Tôi tin rằng không phải tự nhiên mà Đại Lão Hòa Thượng khẳng định như vậy, Ngài là người uyên bác và thông hiểu kinh sử. Tuy Ngài không nói rõ là ‘thời thế’ ra sao nhưng cứ nhìn vào những gì đang xảy ra trên Thế giới thì chúng ta có thể tin rằng Ngài rất có lí khi nói rằng ‘thời cơ đã đến, vận nước đã đến’, ‘kẻ sĩ phu cứ theo thời mà thông biến’. Năm 2004 đã khép lại với làn sóng Dân chủ diễn ra mạnh mẽ trên Toàn cầu, bắt đầu từ Grugia, đến Cộng hòa Ucraina. Tại khu vực Trung Đông, vị Tân Tổng thống Palestin Asbas yêu chuộng hòa bình đã và đang làm mọi cách dẹp bỏ các tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan, tiến tới hòa đàm và chung sống với Irxael. Tại Libăng chính phủ độc tài thân Sirya đã phải từ chức trước sức ép của các cuộc biểu tình rầm rộ của Dân chúng sau vụ ám sát cựu Thủ tướng đối lập Hariri. Iran và Bắc Triều Tiên đang chịu sức ép ngày càng lớn của Thế giới, không riêng gì Mỹ mà cả Châu Âu cũng có cùng quan điểm này, cho dù rằng quan hệ Hoa Kỳ - Châu Âu đang lạnh nhạt và bất đồng trên nhiều điểm. Một sự kiện mà chúng ta cũng cần chú ý đến đó là những lời tuyên bố mạnh mẽ và dứt khoát của Tổng Thống Mỹ Bush trong diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2 của mình: Ủng hộ mạnh mẽ cho Dân chủ và Tự do trên khắp thế giới. Tổng thống khẳng định rằng ‘Tự do của Hoa Kỳ ngày càng tùy thuộc vào Tự do của các vùng đất khác’. Đài RFA cũng bình luận: ‘Bài diễn văn đọc trong lễ tuyên thệ của Tổng thống George W. Bush có thể nói là một bản tuyên ngôn của tự do và của cuộc chiến đấu cho tự do gửi đến toàn thế giới.’

Đó là những lí do khách quan, còn về chủ quan thì trong nước người Dân ngày càng oán thán chế độ, niềm tin của nhân dân với chế độ hầu như không còn nữa ‘Dân chẳng còn tin vào nhà nước nữa vì tham nhũng, nhà nước cũng chẳng tin dân nữa. Nếu đưa ra trưng cầu dân ý mọi vấn đề và để dân quyết, thì nhà nước này khó lòng đứng vững. Mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân ngày càng xa rời thì còn đâu là một nhà nước mạnh’ (Hoàng Tùng Bách-Việt nam). Đảng cộng sản đang chuẩn bị cho Đại hội 10, trong khi đó nếu không thể giải quyết được vụ T4, Tổng cục 2 thì Đại hội khó lòng diễn ra suôn sẻ, nhiều tiếng nói phản đối đã được cất lên từ những người là cán bộ cao cấp, công thần của chế độ. Việc thăng cấp Trung tướng cho một nhân vật đầy tai tiếng như Nguyễn Chí Vịnh cũng gây ra nhiều ngạc nhiên và bất bình cho giới Cựu Chiến Binh, Tướng Lĩnh và Sĩ quan cao cấp của QĐND Việt nam. Rồi việc bổ sung và hoàn chỉnh các bộ luật cũng như sự thực thi các điều khoản cam kết với các nước để nhanh chóng gia nhập WTO, cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém khiến chính phủ phải thừa nhận rằng không thể vào WTO trong năm 2005 được.

Ngoài ra còn một mối nguy nữa, tuy chưa rõ nét nhưng chúng ta cũng phải đề phòng đó là lời nhận định của Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa là có thể trong năm nay Trung Quốc sẽ bị khủng hoảng về Kinh tế, sau đó sẽ là khủng hoảng Chính trị và khi đó thì ‘các chính quyền độc tài bị yếu thế thì lãnh đạo thường thổi lên chủ nghĩa quốc gia dân tộc, thực chất là chủ nghĩa phát xít và có khi gây hấn với bên ngoài để trấn áp chống đối bên trong. Trường hợp ấy mà xảy ra ở Trung Quốc thì Đài Loan và Việt nam có khi lãnh họa’ (Mối lo từ Trung Quốc-RFA) Vụ tấn công và giết hại 9 ngư phủ của Việt nam trên Vịnh Bắc Bộ, vụ đụng độ trên Biển Đông giữa tàu tuần tiễu Trung Quốc và Đài Loan khiến 2 người Trung Quốc thiệt mạng (BBC), việc Quốc hội Trung quốc chuẩn bị thông qua một đạo luật chống Đài Loan ly khai… đang củng cố thêm cho nhận định này của Ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Con đường nào để Việt nam thoát ra khỏi những khó khăn và thách thức đó? Chỉ có một con đường duy nhất đó là DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN, như đúng lời Hòa Thượng Thích Quảng Độ “Con đường tương lai duy nhất phải đi, toàn dân tộc phải đi, không có con đường nào khác. Không trì hoãn được. Trước sau gì rồi cũng phải cởi mở. Trước sau gì rồi cũng phải đi đến: Con đường Dân chủ đa nguyên”.

Một năm mới với nhiều hy vọng đang đến với nhân dân Việt nam. Chúng ta có quyền tin rằng rồi Hạnh phúc, Tự do và Dân chủ sẽ đến với Dân tộc Việt nam.

Năm mới xin được phép gửi đến Hòa Thượng Thích Quảng Độ lời kính chúc sức khỏe, chúc Hòa Thượng mãi anh minh và sáng suốt để dẫn dắt GHPGVNTN đấu tranh cho đến ngày có Tự do Tôn giáo trên Quê hương Việt Nam dấu yêu của tất cả chúng ta.

Việt Hoàng

----- O -----

Đảng cộng sản Việt Nam

Hà Nội, ngày 3 tháng 1 năm 2005

Kính gửi:
- BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 9
- Các đ/c trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa 9
- Đ/c Tổng Bí thư BCH TW Đảng khóa 9
- Các đ/c Ban kiểm tra TW Đảng khóa 9

Chúng tôi, một số đ/c Đảng viên thuộc chi bộ 31 cụm 8 phường Láng Hạ, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, với trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, căn cứ vào điều lệ Đảng, chúng tôi xin bày tỏ sự lo ngại và đề đạt nguyện vọng của mình trước một số việc xảy ra từ Đại hội V đến nay nhưng chưa được giải quyết, mặc dầu khóa trước bàn giao cho khóa sau nhưng vẫn chưa được kết luận và không thông báo cho toàn Đảng rõ, cụ thể là:

Đại hội V có nêu ý kiến đồng chí Võ Nguyên Giáp là con nuôi mật thám!

Đại hội VII dàn dựng vụ Sáu Sứ Năm Châu, vu khống đ/c Võ Nguyên Giáp có hoạt động bè phái.
Từ Đại hội VIII đến nay có vấn đề T4 và Tổng cục II, đưa Cục II trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu thành TC2 trực thuộc Bộ Quốc phòng, giao cho quyền hạn quá cao "siêu Đảng, siêu Nhà nước", bịa chuyện vu khống đồng chí nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và nhiều đ/c lãnh đạo khác.

Từ Đại hội IX đến nay, vấn đề Tổng cục 2 không được giải quyết mà ngày càng đi sâu vào việc làm nghiêm trọng "siêu Đảng, siêu Nhà nước" đặt mình trên tất cả... Việc càng về sau càng nghiêm trọng hơn nhiều.

Đặc biệt là gần đây, trước thư từ tố cáo Tổng cục II của các đ/c lão thành cách mạng, các tướng lãnh, cựu chiến binh và nhiều người bình thường tâm huyết trong đó có thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhất là thư của Thượng tướng Nam Khánh đưa ra những chứng cứ xác đáng, vừa có đề nghị giải quyết vấn đề Tổng cục II một cách kiên quyết, đúng người đúng tội để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng, minh oan cho những đ/c bị vu khống cùng với nhiều đ/c khác của các tướng lĩnh, của nguyên Trung ương ủy viên, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị.

Trước nguy cơ bị đưa ra pháp luật những người đứng đầu TCII như Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh thì lại có việc phong hàm Trung tướng cho Nguyễn Chí Vịnh như thách thức trước dư luận và gần đây Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự Trung ương Phạm Văn Trà đã tổ chức Hội nghị Đảng ủy Quân sự TW mở rộng ra Nghị quyết sai trái trong đó nhận định âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Việt Nam, Đông Dương từ nay đến Đại hội X, trong đó nhấn mạnh "hiện nay trong Đảng có tình hình chống phá quân đội và tập trung mũi nhọn trước hết vào TC2 ngày càng quyết liệt, bôi nhọ TCII, gây mâu thuẫn trong TC2, "đánh sập" TC2 làm cho Đảng "ù tai, mờ mắt"... Trong báo cáo miệng còn nói ông Nam Khánh gây rối, cơ hội chính trị.. và đòi xử lý kỷ luật.

Nghị quyết này có thông qua BCH TW hoặc Bộ Chính trị không, nếu không thì trách nhiệm thuộc về ai ?

Trước tình hình trên, chắc các đ/c đều đã biết, là Đảng viên ở cơ sở, chúng tôi muốn đề đạt nguyện vọng như sau:

Bộ chính trị, Ban Bí thư phải đưa những vấn đề trên mà trước hết là vấn đề Tổng cục 2 ra trước toàn thể BCH TW vì BCH TW là cơ quan quyền lực cao nhất giữa 2 nhiệm kỳ Đại hội bàn bạc, giải quyết một cách triệt để. Không nên vin vào lý do ổn định tình hình mà chần chừ. Vì để như thế sẽ làm cho tình hình nội bộ Đảng mất ổn định, ảnh hưởng không tốt đến việc tiến tới Đại hội X.

Một số vấn đề về trách nhiệm cá nhân như:

Lê Đức Anh khai man lý lịch nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, cần căn cứ Điều lệ mà giải quyết; đó mới thực sự xây dựng Đảng là then chốt. Còn việc Lê Đức Anh nặn ra TC2 và T4, lấy TC2 và T4 để làm nhiều điều có phương hại đến lợi ích của Đảng và dân tộc kết hợp giải quyết vấn đề TC2 mà xử lý.

Phạm Văn Trà, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ QP, phó Bí thư Đảng ủy quân sự TW làm sai nguyên tắc, lộ bí mật, sai đường lối của Đảng, xúc phạm lão thành cách mạng, tướng lĩnh, CCB cũng phải xử lý nghiêm theo Điều lệ Đảng và qui chế làm việc của TW.

Những người đứng đầu TC2 như Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh phải xem xét cụ thể để cần thiết đưa ra pháp luật truy tố, để không cho họ có điều kiện chống phá tiếp một cách điên cuồng.
Về phương pháp, phương châm giải quyết nên xuất phát từ lợi ích tối cao của Đảng mà phân loại các vấn đề: đơn giản giải quyết trước, phức tạp giải quyết sau. Dựa vào Đảng viên và quần chúng ưu tú mà tiến hành củng cố, xây dựng Đảng, việc trở ngại đầu tiên và lớn nhất ở đâu đó phải có bước đi phù hợp, vừa ổn định tình hình, vừa giải quyết những vấn đề tồn tại, không để địch lợi dụng nhưng cũng không được vin vào ổn định mà để lọt những kẻ xấu, thậm chí để kẻ xấu làm phức tạp thêm.
Chúng tôi luôn tự hỏi mình phải làm gì để bảo vệ sự nghiệp của Đảng, của Bác Hồ để lại, không thể để lý tưởng bị thoái hóa, khoanh tay nhìn thời cuộc như 20 triệu Đảng viên Đảng CSLX khi Liên bang Xô Viết sụp đổ.

Với trách nhiệm đầy đủ, chúng tôi xin ký vào bản này bày tỏ lo ngại và đề đạt nguyện vọng một cách hoàn toàn tự nguyện, tự giác.

Xin gửi tới các đ/c lời chào trân trọng và mong muốn có sự trả lời của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Ban chuyên môn của Đảng.

Kính


Nguyễn Xuân Mai
Đảng viên 58 tuổi Đảng
C10 (đơn nguyên 1) Láng Hạ
Trần Hữu Ái
Đảng viên 45 tuổi Đảng
10/21 Hoàng Ngọc Phách
Trần Đình Tiếp
Đảng viên 45 tuổi Đảng, CCB
C9 Láng Hạ


----- O -----

Thư gửi TƯ ĐCSVN

Ngày 14 tháng 01 năm 2005

Kính gửi:
- BCH Trung ương
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư

Thưa các đồng chí,

Vụ T4 là một vu cáo chính trị độc ác, phân hóa, phá hoại Đảng chưa từng có trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Lê Đức Anh là người chủ mưu.

1. Ngay từ khi chưa được phép của Đảng và Nhà nước, từ 1995 ông Lê Đức Anh đã thành lập Tổng cục 2 để thực hiện các vụ Sáu Sứ, T4.

Từ ngày 07/10/1989 Đặng Tiểu Bình đã nói rõ những tính toán sâu xa đến phân hóa Việt - Lào, Việt - CPC, Việt - Xô và phân hóa nội bộ Việt Nam.

2. Chính ông LĐA đã từ lâu dùng Tổng cục 2 để điều tra và vu khống chính trị các cán bộ cao nhất của Đảng. Thì cũng chính ông LĐA đã dựng lên vụ A10, vu cáo đ/c Lê Khả Phiêu âm mưu điều tra nội bộ Đảng.

Không có nguyên tắc nào của Đảng cho phép ông. LĐA chỉ đạo Tổng cục 2 ghi âm 1 đ/c Uỷ viên Trung ương Đảng (vụ Sáu Sứ ghi âm đ/c Võ Nguyên Giáp).

3. Để đánh đổ đ/c Lê Khả Phiêu, ông LĐA đã đặt nghi vấn: tại sao đ/c LKP lại gặp lãnh đạo Trung Quốc một mình? (Sự thật không có như vậy).

Khi đ/c Võ Nguyên Giáp gặp MacNamara xong thì ô. LĐA đặt nghi vấn: đã bố trí phiên dịch tiếng Anh rồi, tại sao ông Giáp còn nói thẳng bằng tiếng Pháp với MacNamara ?

Nhưng theo tài liệu chính thức của Bộ Ngoại giao Việt Nam thì từ ngày 06/06/1990 tại Hà Nội Bộ trưởng Quốc phòng - Việt Nam Lê Đức Anh đã gặp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy, chỉ có 2 người, không có cán bộ Ngoại giao hoặc ngành nào khác, không có phiên dịch vì Trương Đức Duy trước làm thông dịch rất thạo tiếng Việt Nam. Sau đó cố vấn Lê Đức Thọ cũng phải có ý kiến là: "Đáng tiếc không nên gặp".

4. Để lấy lòng Trung Quốc, Ô. LĐA rất tích cực thực hiện sáng kiến "giải pháp đỏ" ở CPC, nghĩa là lực lượng HêngXomrin và lực lượng PolPot là chủ chốt bàn bạc với nhau. Ông LĐA nói: ngày xưa PolPot là bạn chiến đấu của tôi". CPC phản đối kịch liệt. HunSen viết là nhân dân CPC không thể nào chấp nhận được và rất nguy hiểm.

Ông LĐA cũng là người tích cực ủng hộ Trung Quốc về phương án hòa giải dân tộc. Mặc dầu hội nghị quốc tế về CPC ở Tokyo đã thỏa thuận phương án 6+ 2 + 2 + 2 rồi, nhưng Ô. LĐA vẫn ủng hộ phương án 6 + 2 + 2 + 2 + 1 có lợi cho Trung Quốc, nhưng đã làm cho bạn CPC phản ứng gay gắt: CPC thắng mà có 6 thôi, bên kia thua lại được 7, nhân dân sẽ nói CPC bị Trung Quốc và Việt Nam ép.

Thêm nữa là sau đó Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về thỏa thuận này giữa Trung Quốc và Việt Nam (trên đầu CPC), và Trung Quốc nói là Việt Nam không đáng tin cậy!

5. Lãnh đạo Trung Quốc đã nói với ông Đỗ Mười là tài liệu "diễn biến hoà bình" chỉ là tài liệu của nhóm Đặng Lực Quần phản đối đường lối mở cửa của Đặng Tiểu Bình, nhưng Ô. LĐA vẫn ra sức phái người đi phổ biến khắp các Quân Khu, các Tỉnh tài liệu này để làm hạn chế và làm chậm lại việc thực hiện đổi mới của Việt Nam". Ông LĐA đã bảo hoàng hơn cả nhà vua để có lợi cho vua.

6. Những hiệp định biên giới và trên biển rất bất lợi cho Việt Nam đều có sự chỉ đạo từ lâu của Ô. LĐA.

7. Khi Ô. LĐA đau nặng thì Trung Quốc cử ngay 4-5 thầy thuốc giỏi sang cứu sống.

Không biết Bác Hồ đau nặng thì có được Trung Quốc săn sóc như vậy không? Chắc chắn là không!

8. Bộ Chính trị Việt Nam đã thống nhất và cử đ/c Phan Văn Khải lên đường để ký hiệp định thương mại với Mỹ. Ông Đỗ Mười thì phản đối. Nhưng Ô. Lê Đức Anh lại đồng ý: thực chất là động tác giả: Vì ngay sau đó Tổng cục 2 đã gửi một bài báo cáo về những bất lợi lớn cho Việt Nam nếu ký hiệp định thương mại với Mỹ, làm cho cả đ/c Lê Khả Phiêu và 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh do dự. Sau đó BCT phải hoãn lại việc ký này. Ông Vũ Chính Tổng cục trưởng TC2 đã vỗ ngực: Nhờ có TC2!

Ở ngoại quốc vào buổi sáng đ/c Phan Văn Khải trả lời báo chí vì sao chưa ký được thì ngay ở buổi trưa đài Bắc Kinh đã loan báo tin này.

Cuối năm 2004, một số doanh nhân Pháp trong phái đoàn của Tổng thống Chirac đến thăm Việt Nam đã cho ta biết (tập san Kinh tế của ta có đăng): chúng tôi rất muốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng chúng tôi buộc phải chuyển qua Trung Quốc vì Trung Quốc đã gia nhập WTO, nên có nhiều thuận lợi (sau khi Trung Quốc đã ký hiệp định thương mại với Mỹ).

Tóm lại, thay vì ký hiệp định thương mại với Mỹ trước Trung Quốc thì ta đã làm chậm lại và ký sau Trung Quốc.

9. Trong tài liệu chiến lược đối ngoại của Trung Quốc tên gọi là "Trung Quốc không phải là Mister No", họ đã nói rõ chính sách với các nước thuộc thế giới thứ 3: vì Trung Quốc đã để đầu tư tràn lan"; thí dụ tỉnh nào cũng sản xuất xe hơi: kỹ thuật thì lạc hậu, hiệu quả kinh tế thì kém. Trung Quốc sẽ giúp các nước thuộc thế giới thứ 3 bằng cách bán lại nhà máy cho họ và bao tiêu luôn sản xuất của nhà máy đó (vì Trung Quốc có 1 tỷ 3 dân số). Chỉ cần bán một ít trong nước đó thôi. Như vậy nước này sẽ rất mừng vì làm ăn có lãi, công nhân có việc làm... Nhưng kỹ thuật và quản lý sản xuất của nước này sẽ phụ thuộc và muôn đời lạc hậu.

Ngày 17/12/2004 báo chí của ta đã tin là tỉnh Quảng Ngãi đã bắt đầu có một nhà máy xe hơi hợp tác với Trung Quốc! Ngoài việc phục hồi nhà máy gang thép Thái Nguyên về giá cả vật tư thiết bị nghe nói cũng cao hơn các nước tư bản.

Một đất nước bị phụ thuộc về đối ngoại thì đối nội tất nhiên cũng sẽ bị lệ thuộc và sẽ tụt hậu mãi mãi.

10. Khi Nguyễn Chí Vịnh chỉ mới là giám đốc công ty thương mại Toseco thuộc TC2, mà mấy lần đi Trung Quốc, đã được cán bộ cao cấp và con của Đặng Tiểu Bình đón tiếp long trọng ra sao, quà cáp những gì, và bàn bạc những gì thì TC2 và ô.LĐA có báo cáo với BBT và BCT hay không ? Tiếp theo đó là bà Nguyễn Thị Nhẫn (vợ ông Vũ Chính) đi chữa bệnh ở Hoa Nam... thậm chí thuyết phục cả Tổng Bí thư đi gặp lãnh đạo Trung Quốc theo con đường của tình báo Trung Quốc thì ai là đạo diễn ?

Kính mong sự sáng suốt của các đ/c Trung ương để cứu lấy đất nước Việt Nam.

Đề nghị TW đã đánh con rắn thì không thể đánh mình và đuôi rắn, lại chừa cái đầu ra được. Cần phải cương quyết đánh dập đầu rắn.

Kính chào

Một số cán bộ tình báo chân chính

----- O -----

LTS: Ở đất nước chúng ta ngày nay, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là gánh nặng đè lên đôi vai của nhân dân chân chính, là sức cản quá lớn đối với sự phát triển đất nước, là nỗi đau của bất cứ ai đang ngày đêm trăn trở về một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Tham nhũng phát sinh từ cơ chế chính trị. Ngay từ những ngày đầu của nhà nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, tham nhũng đã hiện diện và tiếp tục phát triển ngày càng mạnh mẽ. Để loại bỏ tham nhũng, không còn cách nào khác là phải thay đổi toàn bộ hệ thống chính trị. Chỉ có một nhà nước Pháp quyền xây dựng trên nền thể chế đa nguyên- đa đảng mới giúp chúng ta dần loại trừ được tham nhũng, đưa đất nước thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo, lạc hậu.

Chúng tôi xin gửi tặng quý độc giả bài thơ sau đây của cố nhà thơ Phùng Quán. Bài thơ phản ảnh một phần hiện thực xã hội miền Bắc năm 1956, giúp chúng ta mường tượng về tình trạng tham nhũng lãng phí của quan chức chính quyền và nỗi cơ hàn của nhân dân trong giai đoạn đó. Mơ ước của ông về một đội quân trừ diệt tham nhũng, đến nay vẫn chưa thành hiện thực.

Chống tham ô lãng phí

Tôi đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bởi đồn giặc, trồng ngô trỉa lúa …

Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng
Nước biển dâng cao, ướp muối các cánh đồng
Hai mùa rồi, lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ;
Tôi đã gặp
Những em thơ còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mau đến Tết !
Để được ăn no có thịt
Một ngày…Một ngày…

Tôi đã đi giữa Hà Nội
Những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Chị em công nhân đổ thùng
Run lẩy bẩy chui hầm xí tối
Vác những thùng phân…
Thuê một vạn một thùng
Mấy ai dám vác ?
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con …

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng, thắt lưng để sống
Để dựng xây, kiến thiết nước nhà
Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ trang kim vàng mã
dán lên quân trang đẫm mồ hôi và
máu tươi của Cách Mạng !

Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêugiấy bạc giả !

Các đồng chí ơi
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng !

Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm thiếu áo …

Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
Đảng đã phê bình trên báo
Còn bao tên chưa ai biết ai hay?
Lớn, bé, nhỏ, to,cao, thấp, béo, gầ, …
Chúng nảy nòi, sinh sôi như giòi bọ !
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có !
Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân dân !

Tôi đã dự những phiên tòa xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái …
Còng lưng rỏ máu lấn vành đai !

Trung ương Đảng ơi !
Lũ chuột mặt người chưa hết.
Đảng cần phải lập những đội quân trừ diệt
Có tôi !
Đi trong hàng ngũ tiên phong.

Phùng Quán
1956

Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Trở về trang chính