Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 44
Tháng 04 năm 2005
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com
Tin Ghi Nhận:
• Ngày 17/4/2005, khoảng hơn 50 người Trung Quốc đã tổ chức
một cuộc biểu tình kéo dài hơn 1 giờ, trước Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội.Nhiều
nhân viên cảnh sát Việt Nam có mặt, nhưng không ngăn chặn cuộc biểu tình này
giống như đã từng ngăn chặn những người Việt Nam biểu tình phản đối Quân đội
Trung Quốc sát hại ngư dân Việt Nam. Xin được nhắc lại rằng,trong tháng 3, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 38/2005 về việc tập trung đông người nơi công cộng.
Nghị định qui định: Mọi hành vi tập trung đông người trái với quy định của pháp
luật ở lòng đường, vỉa hè, trước trụ sở cơ quan, tổ chức, tại khu vực đang diễn
ra các hội nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hoạt động
chính trị quan trọng... đều bị cấm.
Vụ biểu tình công khai của những người Trung Quốc hôm 17/4 cho thấy sự kiện
này đã được sự đồng tình của Hà Nội. Điều này có thể có tác động xấu đến quan
hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản vốn đang tốt đẹp.
----- O -----
Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Thông Cáo
Gần đây, nhà cầm quyền Hà Nội đã gia tăng các hình thức khủng bố. Tiến sĩ Nguyễn
Thanh Giang, một nhà Dân chủ ở Hà Nội, đã bị khủng bố bằng thư, quấy rối bằng
điện thoại, chặn đường gây sự. Ngoài ra, ông còn bị những kẻ xưng danh thương
binh đến nhà đe doạ, quấy rối, chất vấn và gây sự với thái độ côn đồ. Cùng lúc
đó, giáo sư Trần Khuê cũng đã bị tờ An Ninh thế giới, bất chấp pháp luật, viết
bài mạ lỵ, phỉ báng và gán ghép tội danh “phản động” để dọn đường cho các đợt
trấn áp mới.
Qua tài liệu mật Bộ công an, báo cáo về các hành động chuẩn bị đối phó với một số nhà dân chủ cụ thể là Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, giáo sư Trần Khuê, Giáo sư Hoàng Minh Chính, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, hoà thượng Thích Thiện Minh, đã cho thấy nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tiếp tục có kế hoạch khủng bố, cô lập và giam giữ.
Hành động mượn danh côn đồ để trấn áp các nhà dân chủ cho thấy đảng CSVN đã và đang cai tri đất nước theo kiểu băng đảng xã hội đen. Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam cực lực phản đối các thủ đoạn trấn áp mới của nhà cầm quyền Hà Nội và qui trách nhiệm hoàn toàn đối với đảng CSVN trước công luận quốc tế, nhân dân trong và ngoài nước về những hậu quả bắt nguồn từ kế hoạch đàn áp trên.
Việt Nam, ngày 28, tháng 4 năm 2005
Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
----- O -----
Thư của bà Nguyễn Thanh Giang
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập tự do hạnh phúc
-----oOo-----
Kính gửi các đồng chí lãnh dạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội
Giữa lúc các đồng chí bận trăm công nghìn việc, nào lo lãnh đạo phát triển kinh tế đạt chỉ tiêu phát triển 8% cho năm 2005, nào lo chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ X sắp tới, tôi thật lòng không muốn quấy bận thêm các đồng chí. Tuy nhiên, gần đây, hàng loạt sự kiện bất thường xẩy ra đe doạ cuộc sống bình yên của gia đình chúng tôi và uy hiếp nghiêm trọng tính mệnh chồng tôi - ông Nguyễn Thanh Giang. Tôi xin báo cáo cụ thể như sau :
Mười giờ sáng ngày 5 tháng Tư năm 2005, ba thương binh tên là Trần Minh Tuấn ở 159 Phùng Hưng, Đỗ Đức Tiến ở 50 Hàng Cót, Trần Anh Dũng ở 92 Lý Thường Kiệt mựon cớ tranh luận về một câu ông Giang viết trong bài “Về vụ án chính trị siêu nghiêm trọng liên quan đến Tổng cục 2” đến nhà tôi gây gổ.
Ngày 12 tháng 4 năm 2005, ba người này viết đơn tố cáo gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước … xuyên tạc, vu khống rằng ông Giang đã nói “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh phi nghĩa” để kích động dư luận. Họ ngang nhiên gọi ông Giang là “phần tử phản động, chống Đảng, Nhà nước” và hô hào “Cần phải loại ông ta (ông Giang) ra khỏi đời sống xã hội”.
Sáng 16 tháng 4 năm 2005, hai trong ba thương binh trên cùng 4 người nữa ập vào nhà tôi gây huyên náo suốt gần một tiếng đồng hồ làm cho hàng xóm tưởng gia đình tôi làm điều gì bất chính và công an xã phải đến.
Ông Giang vốn là người chân tình, cởi mở và thích giao tiếp. Nếu những người kia chân tình muốn được trao đổi, góp ý thì thông thường họ sẽ được tiếp đón niềm nở và ông Giang sẵn sàng lắng nghe, tranh luận. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể này, chúng tôi thấy có ẩn chứa những điều không quang minh, không lành mạnh. Biểu hiện như sau :
Họ nói là đến dể tranh luận nhưng họ lại không được đọc và
không biết ông Giang dã viết những gì. Họ cũng không biết câu trích của báo
“Công an Nhân dân” và báo “Pháp luật Việt Nam” ở đâu, trong bối cảnh nào, nhằm
mục đích gì ?
Khi tôi bảo ông Trần Anh Dũng rằng ông đã gửi đơn tố cáo chồng tôi lên cấp trên,
ông nên đợi cấp trên giải quyết thì ông Dũng ngơ ngác trả lời rằng ông ta không
viết đơn tố cáo và không gửỉ cho ai. Vậy ai đã viết lá đơn đó ?
Tại sao họ chỉ là những thương binh ở rải rác tại nhiều nơi mà khi đến nhà tôi
họ đều được xe ôtô chở đến ?
Tại sao trong đoàn 6 người đến nhà tôi có cả một thanh niên sinh sau năm 1975
? Cháu không thể là cựu chiến binh. Ai giao nhiệm vụ cho cháu mang máy quay
video và cháu quay video trong nhà tôi có mục đích gì ?
Từ sau hai bài viết “Về vụ án siêu nghiêm trọng liên quan đến Tổng cục 2” và
“Bộ quốc phòng rời bỏ nhiệm vụ chính của minh – Cảnh báo nguy cơ mất nước”,
ông Giang và gia đình chúng tôi nhận được một loạt thư đe doạ khủng bố. Trong
đó, tại sao 2 thư ký tên tập thể gửi từ Hoà Bình và Hà Nam lại cùng nét chữ
người viết trên phong bì ?
Một người quen đến thông báo với tôi rằng một cán bộ của Bộ Công an cho biết
là 30 tháng 4 này họ sẽ còn đến đập phá nhà tôi.
Trước tình hình như vậy, tôi không thể không lo lắng dến sự an toàn của gia đình tôi. Tôi xin báo cáo với các đồng chí và mong được các đồng chí chỉ thị cho điều tra. Nếu đây là việc làm manh động của một vài cá nhân thì cần nhắc nhở họ tôn trọng pháp luật, tôn trong đạo lý xã hội, ngăn chặn những hành động cuồng bạo có thể xẩy ra một cách đáng tiếc. Nếu là sự xúi giục của một cá nhân, một bộ phận nào đó vì nhận thức không đúng đắn, vì động cơ không lành mạnh thì cần xử lý nghiêm, không để họ tiếp tục làm điều xấu, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Tôi xin gửi các đồng chí lới chào trân trọng
Hà Nội ngày 22 tháng 4 năm 2005
Nguyễn thị Tuyết Mai
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn- Từ Liêm- Hà Nội
Điện thoại : 5 534370
----- O -----
30 Năm - Vài Cảm Nhận
Thấm thoắt mà đã 30 năm. Ba mươi năm sau đổ nát tan tành của mấy quả bom nguyên tử, Nhật Bản đã đủ sức vươn lên thành một cường quốc Châu Á. Ba mươi năm sau phân chia Nam Bắc, Hàn Quốc đã đủ thời gian bay lên thành một Con Rồng.
Khi còn chiến đấu gian khổ, nghe chủ tịch Hồ Chí Minh động viên : thắng giặc ta sẽ xây dựng một nước Việt Nam đàng hoàng, to đẹp, ai cũng nức lòng. Thế rồi ta đã được thống lĩnh giang sơn và có hoà bình để xây dựng đất nước trong suốt cả 30 năm. Ba mươi năm là thấm thoắt nhưng cũng đà đằng đẵng. Ngoảnh nhìn lại và tự hỏi : ta đã có được những gì ? vì sao ta chỉ có được như vậy ?
Còn nhớ, vào khoảng những năm sát trước 1975, một chuyên viên khoa học kỹ thuật có bậc lương cao ngang lương phó vụ trưởng như người đang viết này mà vì ăn uống thiếu thốn nên không lúc nào không bị cái đói dày vò. Đi kiểm tra kỹ thuật ở một đơn vị địa vật lý, năm giờ chiều ăn cơm xong, tám giờ tối ngồi bên đống lửa tán chuyện. Quanh quẩn chỉ được mấy câu rồi không biết thế nào lại quay vào chuyện ăn. Anh em vừa nể vừa thương cán bộ cấp trên xuống lắm nhưng không có gì, đành ra vườn rau tự túc hái một ôm về luộc chấm với nước muối pha mỳ chính, ăn vã. Năm 1989, sang Mỹ, hỏi một nông dân về chuyện ăn uống, anh ta bảo : ở nước tôi, người dân thường cũng ăn như Tổng thống. Nghe mà không sao tưởng tượng nổi.
Thế rồi, đùng một cái, phải nói là đùng một cái vì nó thay đổi như là biến đổi, sau Khoán Mười bỗng nhiên ta thừa gạo và từ lâu đã trở thành nước xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới. Bây giờ đói cơm là hãn hữu còn đối với những loại thường thường bậc trung như chúng tôi thì không còn cái cảm giác thèm ăn nữa.
Năm 1980, lần dầu tiên đi dự Hội nghị khoa học quốc tế ở một nước tư bản. Đi gần đến cấnh cửa nhà chờ sân bây, thấy cánh cửa bỗng tự nhiên từ từ mở. Ngạc nhiên quá. Hơn cả thần thoại à ? Mình đã kịp nói câu “Vừng ơi, mở ra !” đâu. Đi tiểu tiện, không tìm thấy cái nút đẻ giật nước dội nhưng vùa quay ra, nước đã ào ào xối. Ki cóp bao nhiêu năm mới mua được một chiếc “quạt tai voi” Liên Xô. Lúc bấy giờ, nhà nào có được chiếc tivi đen trắng thì cả xóm đến xem nhờ. Thế mà ngày nay, tivi mầu, cánh cửa tự động, vòi nước tự động không chỉ có ở sân bay, ở các khách sạn mà cả trong tư thất. Ngạc nhiên lắm chứ. Lạ kỳ lắm chứ. Đấy là nhờ chính sách mở cửa của Đảng và Chính phủ. Mở cửa để đón nhận kỹ thuật-công nghệ Phương Tây.
Mở cửa và từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá cứng nhắc là sự bừng tỉnh rất đáng hoan nghênh và khích lệ của đảng Cộng sản Việt Nam. Nó đã cứu đất nước khỏi vòng tăm tối bi thảm của mấy thập kỷ trước đó và, như là, bắt đầu cuộc đổi đời.
Tuy nhiên, mở cửa một cách chập chờn, từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá mù quáng để dấn thân vào kinh tế thị trường nhưng lại cứ vướng víu cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” nên trên đường đi tới, đất nước vẫn cứ như còn dùng dắng, không những không phát triển nhanh được mà còn phát triển rất không lành mạnh.
Vừa giành lại được Miền Nam xong, Đảng cử ông tổng bí thư tương lai Đỗ Mười vào Sài Gòn mở chiến dịch mới, cải tạo tiêu diệt không chỉ tư bản, mà cả công thương nghiệp tư doanh. Từ chỗ như thế đến chỗ lại tung hô “đảng viên cũng phải biết làm giàu” và tổ chức ngày hội vinh danh các doanh nhân phải nói là biểu hiện một sụ thoát xác ghê gớm lắm. Tuy nhiên, sao vẫn cứ còn “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” một cách ngoan cố với cái chủ nghĩa công hữu nặng nề đến vậy. Rón rén thừa nhận tư hữu mấy cái xi nghiệp thủ công, nay đang mon men thừa nhận tư hữu cả nhà máy điện, công ty bưu chính – viễn thông, cả trường đại học. Nhưng, ruộng đất thì dứt khoát cứ phải là tài sản của tập thể, của Nhà nước. Kể ra nếu đúng là của một cái thứ Nhà nước thật sự anh minh một cách lý tưởng thì cũng được, đằng này mấy Ông Nhà nước bằng xương bằng thịt bụng to, mặt bự dựa vào quyền lực tuyệt đối do Đảng trao cho để chiếm đoạt lấy rồi ban phát cho nhau. Nắm được kế hoạch mở đường, kế hoach đô thị hoá, người ta thí cho người nông dân mấy trăm nghìn, thậm chí vài nghìn đồng trên mỗi mét vuông đất rồi đuổi họ đi để ít lâu sau bán lại hàng triệu đồng chính mét vuông đất đó. Thế là cùng với bọn maphia buôn vũ khí, tầu ngầm, xe tăng, bọn cò mồi, bọn chủ đất này nghiễm nhiên trở thành những tư bản đỏ kếch xù, có tiền gửi nước ngoài không chỉ hàng triệu mà thậm chí hàng tỷ đola. Nông dân mặc nhiên bị tước ruộng vườn, bị đuổi khỏi thôn làng. Hoặc đi làm tỳ thiếp, tận Đài Loan, Trung Quốc, hoặc ra đô thị bán chôn nuôi miệng. Sau 30 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, số gái điếm, số trẻ em lang thang cơ nhỡ ở Thành phố Hồ Chí Minh bây giờ đông gấp bao nhiêu lần Sài Gòn khi xưa ?
Mang danh xã hội chủ nghĩa nhưng bất công, phân hoá giầu nghèo còn ghê góm hơn ở các nước tư bản giầu có rất nhiều. Chỉ số GINI của Nhật Bản, Đan Mạch chỉ cỡ trên dưới 25, trong khi Việt Nam xấp xỉ 40. Tiến sỹ Lê Đăng Doanh công bố công khai tại một hội nghị quan chức của Đảng và Chính phủ rằng ở Hà Nội có một nhà trẻ thượng đẳng, tai đấy có mấy chục người Việt Nam gửi trẻ với giá 2800 USD một tháng. ( Số tiền gửi một đứa trẻ con tư bản đỏ ở Việt Nam hiện nay bằng tiền người nông dân nuôi đứa con khốn khổ của mình trong hơn mười năm trời ! ) Tư bản đỏ, địa chủ cộng sản ngày nay giầu có và tàn bạo gấp trăm lần các nhà tư sản và địa chủ bị ta đấu tố, tù đầy bắn giết hồi cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, tư bản tư doanh.
Hứng chịu bất công lúc khoẻ, lúc ốm đau lại còn bị phân biệt đối xử tàn tệ hơn. Một cán bộ trung, cao cấp, một tướng lĩnh quân đội vào bệnh viện chiếm mấy phòng đầy đủ tiện nghi. Có máy lạnh, có lò sưởi ấm, có phòng tiếp khách. Trong khi đó, một kỹ sư, một nhà giáo, một công nhân vào bệnh viện Việt Nam còn khổ hơn vào nhà tù ở nước tư bản. Phải nằm theo cách hai người bệnh chọc chân vào mặt nhau trên một chiếc giường cá nhân ! Bệnh viện không đủ hộ lý nên mỗi người bệnh phải có một vài người nhà đi theo chăm sóc. Những người đi chăm sóc bệnh nhân này cũng bị đầy đoạ trong thảm cảnh. Suốt ngày không được nằm, không được ngồi vì không có chỗ. Đêm đến phải trải chiéu ngủ ngay dưới gầm giường người bệnh.
Trong khi các trụ sở Đảng, trụ sở chính quyền rất đàng hoàng, to đẹp, các quan chức cưỡi những chiếc ôtô sang trọng, đắt tiền hơn cả xe của quan chức tư bản giầu có thì trường lớp vừa thiếu vừa xập xệ ( Nhớ lại, ngày xưa Nguyễn Ai Quốc từng tố cáo chế độ thực dân Pháp, ở Việt Nam, nhà tù nhiều hơn bệnh viện và trường học ). Trường sở như vậy, giáo viên lại chỉ được hưởng đồng lương chết đói thì sao tránh khỏi tình trạng học sinh học đến lớp Năm mà đọc chưa thông, viết chưa thạo. Chương trình giáo dục, sách giáo khoa thì vừa lạc hậu lại thay đổi xoành xoạch. Cải tiến, cải tiến rồi lại cải tiến nhưng kết quả tổng hợp là cải lùi. Có tình trạng dó là do nói chung, các quan chức phần lớn chỉ là “ học giả ”, họ không được học thật, họ chưa từng sôi kinh, nấu sử.
Đảng ra sức thổi họ lên cho thành trí thức công nông và gắn cho họ đủ loại bằng sắc, học hàm, học vị thông qua con đường bổ túc công nông, hàm thụ, tại chức, phong giáo sư. Họ quyết sách đường lối, chủ trương về giáo dục nhưng bản thân chưa kinh qua và chưa hề được biết cái chính quy, cái mô phạm của giáo dục.
Bát mãn trước cảnh mua quan bán tước, cụ Tú Xương từng thốt lên chua chát :
Tú tài thằng ấm Kỷ
Cử nhân con đô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ối khỉ ơi là khỉ
Ngày nay, tình trạng bằng cấp không tương xứng trình độ, thậm chí bằng giả quá nhiều không phải chỉ do đồng tiên thao túng vì tác động của kinh tế thị trường mà có nguồn gốc từ sự độc quyền, độc đoán. Đảng muốn cho ai cái gì thì người ấy được. Mấy anh bạn cùng lớp ngày nào, học kém và lười nhưng bỗng được cho đi bổ túc công nông, rồi sang làm nghiên cứu sinh hữu nghi ở Liên Xô. Thế là chẳng mấy chốc đã có đủ hàm, đủ vị cao tít trên đầu.
Chỉ vài ông cán bộ cấp xã, cấp tỉnh … bị phát giác và thi hành kỷ luật về tội bằng giả. Bằng giả đối với những vị trên Trung ương tai hại hơn nhiều nhưng có ai được xét đến ý kiến phát giác đâu. Một ví dụ nhỏ : Bà Trương Mỹ Hoa- phó chủ tịch nước - học chưa hết phổ thông thì bị vào tù. Sau năm 1975, bà liên tục đảm nhiệm những trách nhiệm nặng nề, thế mà cách đây mươi lăm năm, trong bản lý lịch vào Trung ương, bà đã ngang nhiên khai có ba bằng đại học và biết ba ngoại ngữ. Người viết bài này đầu óc vốn không quá tăm tối, lại học hành rất nghiêm túc, thế mà học lõm mắt vào mới được một tấm bằng đại học. Không biết các ông các bà ấy học hành lúc nào, học theo kiểu nào ?
Tai nạn giao thông thì thật là khủng khiếp. Trung bình mỗi tháng 1 080 người chết. Chỉ riêng trên mặt trận giao thông vận tải con số này đã cao gấp nhiều chục lần số tử vong trong các cuộc chiến vừa diễn ra ở Afganistan, ở Iraq. Nghĩa là, ta như vẫn còn chiến tranh rất khốc liệt. Thảm trạng đó, một phần do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân còn kém ( Điều này có nguyên nhân từ nhiều thập kỷ bãi bỏ pháp quyền, thay bằng chuyên chính vô sản ). Phần chủ yếu do tổ chức và quản lý giao thông quá kém. Đầu tư hạ tầng cơ sở đã thiếu thốn lại còn bất hợp lý. Trong khi Quốc lộ Một cần khẩn trương nâng cấp, mạng lưới giao thông đô thi cần gấp rút mở rộng thì bỏ đó mà dổ của ra mở vội đường Hồ Chí Minh xuyên Viêt. Cho đến nay mật độ xe cô trên con đường này nói chung rất thưa thớt. Con đường chọc phá tan hoang bao nhiêu cánh rừng Trường Sơn cho đén nay vẫn cứ đang phơi mình trong heo hút cho mưa gió tàn phá.
Làm kinh tế với tinh thần duy chính trị đã đổ đi không biết bao nhiêu của cải của nhân dân, của đất nước. Người ta bức bối nhiều với nạn tham nhũng nhưng chưa có công trình nghiên cứu, chưa ai được phép công bố sự tàn hại có lẽ gấp rất nhiều lần gây nên bởi lãng phí. Chỉ một ví dụ thôi : Quyết định sai lầm về việc chọn Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên đã phá tán một lượng của cải bằng mấy năm trời nhân dân toàn tỉnh Quảng Ngãi làm ra. Luận chứng kinh tế-kỹ thuật khu công nghiệp này được phê duyệt từ năm 1996. Kế hoạch công bố là nước ta sẽ có xăng dầu trước năm 2000. Dân đang định cư ở Dung Quất bị đuổi đi sớm, để lại một vùng đất trơ trọi suôt nhiều năm sau. Vốn đọng lại trong đầu tư xây dung cơ bản ( nhà máy điện, nhà máy nước, đường xá … ) phải trả lãi nhiều đến mức năm 2002, một vị phó chủ tịch Quốc hôi đã phải giục giã : “ Cần đẩy nhanh tiến độ thi công vì nếu để chậm một ngày thì chúng ta sẽ mất 500 000 USD ”. Từ bấy đến nay đã hơn hai nghin ngày trôi qua. Tính tròn : 500 000 USD x 2000 = 1 000 000 000 USD. Riêng Dung Quất gây lãng phí mấy chục nghìn tỷ đồng Việt Nam. Vậy mà, cho đến nay vẫn cứ đang còn loay hoay chữa cháy lằng nhằng cái kiểu chuyển đổi từ khu công nghiệp thành khu kinh tế … Các ngành sản xuất vẫn chịu giá xăng dầu nhập ngoại cao làm giảm khả năng cạnh tranh, người tiêu dùng mệt mỏi leo thang cùng giá xăng dầu tăng lên mỗi ngày.
Sau 30 năm kiến thiết trong hoà bình, đất nước vẫn quá nghèo, vẫn tụt hậu xa so với thế giới về mọi mặt. Có ba nguyên nhân chính :
Trình độ lãnh đạo rất kém. Thấp so với yêu cầu thực tiễn, thấp
so với dân trí. Đây là kết quả của tình trạng Đảng cử-dân bầu, không có bầu
cử tự do thật sự, không chọn được nhân tài.
Ché độ chính trị lạc hậu, cơ chế hành chính yếu kém, tạo nhiều kẽ hở cho lãnh
đạo các cấp lũng đoạn, tàn phá nền kinh tế thậm tệ bằng tham nhũng và lãng phí.
Độc đảng, độc quyền, độc đoán không những không phát huy được nguồn lực dân
tộc mà do không có cơ chế giám sát, những người lãnh đạo được thả sức tự tung
tự tác quá lâu, làm cho Đảng không còn chất tiên phong mà dần dần trở thành
kìm hãm dân tộc.
Trong lịch sử cận hiện đại, không có dân tộc nào phải chiến đấu gian lao, quyết
liệt như Việt Nam để giành độc lập. Giành độc lập không phải để được vênh vang,
nhấm nháp với hai chữ độc lập mà chính là để được tự do vươn cánh bay cao, bay
xa, bay nhanh hơn các dân tộc khác không từng chịu hy sinh, mất mát lớn lao
đến như vậy. Cho nên trách nhiệm của đảng Công sản Việt Nam phải to lớn lắm,
món nợ của Đảng với đất nước, với nhân dân nặng nề lắm. Vậy mà, sự tha hoá,
biến chất của những người lãnh đạo, có chức, có quyền đang biến họ thành những
kẻ nội xâm có khi còn tệ hai hơn giặc ngoại xâm.. Chưa kể nguy cơ đang xuất
hiện những Trần ích Tắc, những Lê Chiêu Thống.
Không phải ngẫu nhiên mà gần đây hàng loạt lão thành cách mạng, nhân sỹ trí thức như cựu Trung ương uỷ viên Đặng Quốc Bảo, hoà thựơng Thích Quảng Độ, giáo sư Trần văn Hà, giáo sư-tiến sỹ Phan Đình Diệu … nêu yêu cầu bức thiết phải đa nguyên-đa đảng. Phải có đa nguyên-đa đảng để mở ra những tiền đề căn bản cho sự nghiệp dân chủ hoá đất nước. Có dân chủ, đất nước mới phát triẻn nhanh và phát triển lành mạnh được.
Ba mươi năm rồi, lẽ ra không chỉ có mấy dòng cảm nhận ngậm ngùi này, lẽ ra nhân dân ta phải được bớt khổ hơn nhiều, lẽ ra chúng ta phải đã được ngẩng cao đầu sánh vai cùng thế giới tiên tiến.
Hà Nội, gần đến 30 tháng 4 năm 2005
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại : 5 534370
----- O -----
30 năm thảm trạng Việt Nam, nguyên nhân nào ?
Kính thưa đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Nhân kỷ niệm 30 năm ngày quốc nạn và quốc hận 30-4 này, nhiều người, với tư cách chứng nhân hay nạn nhân, có lẽ sẽ nói đến những thảm nạn quá khứ xảy ra nhân biến động đó, nhiều người khác, với tư cách chuyên gia hay bình luận gia, có lẽ sẽ nhận định về những tệ nạn hiện đang ngập tràn trên đất nước VN. Với khả năng hạn hẹp, tôi xin được nói đến một trong những nguyên nhân gây nên hiện trạng đáng buồn, đáng lo và đáng phẫn nộ này.
1- Như người ta thường nói, nguyên nhân chủ yếu của mọi sự việc trên đời này là con người, và nơi con người, nguyên nhân chủ yếu thiết tưởng là giáo dục. Do đó tôi xin được nói đến chính sách giáo dục hiện nay tại nước CHXHCN Việt Nam. Xin xác định ngay: chính sách giáo dục này phải hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là việc giáo dục học sinh sinh viên, mà còn là việc giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức, quân đội, quần chúng, nghĩa là chính sách đào tạo uốn nắn mọi người dân Việt mà đảng CS đang độc đoán thi hành. Chủ trì việc này là Ủy ban tư tưởng văn hóa trung ương đảng, rồi các ban khoa giáo trong mọi lãnh vực.
Trong xã hội CS thường có thành ngữ “hồng hơn chuyên”, nghĩa là hiểu biết chính trị đi trước khả năng chuyên môn. Thành ngữ này vẫn còn là một nguyên tắc chỉ đạo trong xã hội. Nói cách khác, nền giáo dục CS là một nền giáo dục được chính trị hóa, hướng về một mục tiêu chính trị rõ rệt và bất biến: không phải là đào tạo những công dân cho đất nước nhưng là đào tạo những thần dân cho đảng CS, chỉ biết làm theo những gì đảng nói hay không nói về những gì đảng làm. Việc chính chính trị hóa này đã thực hiện ngay từ đầu đời con người. Cụ thể, trẻ em vừa đến trường mẫu giáo đã được học biết và yêu mến bác Hồ, yêu mến hơn cả mẹ cha, vâng lời bác dạy hơn cả mẹ cha dạy. Vào đội thiếu nhi tiền phong ở cấp một, thì khẩu hiệu các thiếu nhi thường hô là “Vì lý tưởng bác Hồ vĩ đại, hãy sẵn sàng”. Vào đoàn thanh niên ở cấp hai, cấp ba thì phải tâm niệm một câu quan trọng trong đoàn ca: “Tiến lên đoàn viên theo đảng tiên phong. Bước theo lá cờ nhuộm màu đấu tranh”. Vào công an thì có 5 lời thề danh dự trong đó có lời thề trung thành tuyệt đối với đảng. Vào quân đội thì sống theo khẩu hiệu “Trung với nước, hiếu với đảng” (ban đầu là “trung với nước hiếu với dân”). Làm bất cứ ngành nghề nào cũng phải nhắm mục đích tối cao là trở thành tiếng nói, công cụ của đảng, từ phóng viên, luật sư đến giáo viên, bác sĩ, nhà khoa học... Một chuyên gia VN từng nói cách mai mỉa: “Thay vì làm chính trị một cách khoa học thì chúng ta lại làm khoa học một cách chính trị”. Những đồ đệ của Lyssenkô, vị chúa tể ngành di truyền học Liên xô, vẫn còn nhan nhản tại VN. Môn chính trị là môn được dạy nhiều nhất, với hệ số điểm cao nhất trong các đại học, học viện. Thậm chí trong các nơi đào tạo tu sĩ tôn giáo, CS cũng bắt dạy môn chính trị mà nó gọi trớ là lịch sử Việt Nam, pháp luật Việt Nam như môn học chính khóa, theo điều 24 Pháp lệnh Tôn giáo, cũng nhằm nặn ra những nhà lãnh đạo tinh thần kiêm chính ủy hay những ngôn sứ miệng ngậm câm.
2- Môn chính trị, nghĩa là môn học về lý thuyết Mác xít, chế độ Mác xít và đảng Mác xít, tức đảng CS, được dạy cho mọi người mọi giới trong xã hội, bằng sách giáo khoa, bằng các lớp chính trị hay qua các phương tiện truyền thông xã hội. Như chúng ta biết, môn đó gồm hai phần chính: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật sử quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhắm trình bày con người chỉ là vật chất, thực tại chỉ gồm vật chất tự chuyển biến, không có hồn thiêng, tâm linh, chẳng có Thiên Chúa, thần thánh, chẳng có thiên đàng, địa ngục. Chủ nghĩa duy vật sử quan nhắm trình bày lịch sử nhân loại như một tiến trình có mục tiêu là thế giới đại đồng, xã hội cộng sản, một xã hội ưu việt, có tác nhân lý thuyết là chủ nghĩa cộng sản, đỉnh cao trí tuệ loài người, và tác nhân thực tế là đảng CS, đội quân tiên phong, đại biểu trung thành quyền lợi của dân tộc, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, như điều 4 Hiến pháp khẳng định. Mọi môn học đều phải tùy thuộc chủ thuyết chính trị này. Mọi sinh hoạt trong xã hội đều phải tùy thuộc chế độ chính trị này. Mọi tổ chức trong đất nước đều phải lệ thuộc chính đảng này.
Chính chủ thuyết, chế độ và đảng Mác xít đó là nguồn gốc mọi điều tiêu cực, xấu xa, suy thoái nơi con người và nơi xã hội VN suốt 30 năm nay, bởi lẽ cả ba góp phần làm cho người ta khiếm khuyết nhận thức, lệch lạc phán đoán và hành động sai lầm. Khiếm khuyết nhận thức vì chủ thuyết Mác xít là một chủ thuyết cắt cụt thực tại, nó luôn lập luận ngụy biện dù có vẻ chặt chẽ. Lệch lạc phán đoán về thực tại và nhất là về đạo đức, vì chủ thuyết Mác xít không dựa trên chân lý hiển nhiên và luân lý thông thường. Từ đó dẫn đến sai lầm trong hành động là chuyện đương nhiên, như người ta thấy qua cả một lịch sử dài của chế độ Cộng sản, cái chế độ được tóm tắt qua thành ngữ: “Dối trá một cách bình thản, tàn ác một cách lạnh lùng và ngu xuẩn một cách cố chấp”.
a- Chính khi áp đặt lên đầu óc học sinh, sinh viên, binh sĩ, cán bộ, chuyên viên, đảng viên, thậm chí tu sĩ, rằng con người chỉ là vật chất, thực tại chỉ gồm vật chất tự chuyển biến, không có hồn thiêng, tâm linh, chẳng có Thiên Chúa, thần thánh, chẳng có thiên đàng, địa ngục, CS chỉ làm cho con người quan tâm đến vật chất, mưu tìm lợi ích vật chất và thành công kinh tế, sống cuộc đời này để thụ hưởng của cải, khoái lạc càng nhiều càng tốt, dửng dưng với tình thương, nhân phẩm, đau khổ của người khác, coi thường lương tâm, đạo đức, nhân mạng, dị ứng với đủ mọi loại sự thật. Thành thử chẳng lạ gì các chế độ CS, cụ thể là CSVN, đang đứng hàng đầu thế giới về phá thai, án tử hình, tai nạn giao thông, nhiễm độc môi trường, bất minh che giấu, đang nổi tiếng thế giới về một nền y tế chỉ biết bóc lột bệnh nhân, kể cả bệnh nhân nghèo; về một nền giáo dục bệ rạc, chỉ biết buôn chữ nghĩa hơn là dạy làm người, bán bằng cấp giả hơn là tạo chuyên gia thực; về một nền hành chính chỉ biết hành dân là chính, với đủ thứ quy định nhiêu khê, thủ đoạn moi tiền, nghĩa vụ cưỡng buộc; về một nền cai trị mà mỗi lãnh đạo địa phương là một ông trời con, mỗi tập thể lãnh đạo địa phương dễ thành một nhóm cường hào ác bá, ngang nhiên tước đoạt của công và của tư, thiếu lòng tự trọng và ý thức trách nhiệm, chuyên lập thành tích cách gian dối hay với xương máu nhân dân; về một xã hội đầy dẫy lường gạt, lọc lừa khi buôn bán, hợp đồng, làm dối làm ẩu, rõ rệt nhất là trong các công trình công cộng, các cơ sở hạ tầng. Vụ ngư dân Thanh Hóa chết trong đau thương và thân nhân họ đang sống trong tức tưởi vì thái độ vô trách nhiệm lẫn hèn nhát của chính quyền, vụ công ty Zuellig Farma nâng giá thuốc ngoại và rồi khiến phóng viên Lan Anh bị truy tố, vụ giải Trí tuệ VN năm 2004 được trao cho một nhóm ăn cắp bằng sáng chế nước ngoài, vụ VN không có đại học nào nằm trong số 500 đại học tốt nhất thế giới hiện nay, vụ các công trình phục vụ SeaGames 22 mau chóng xuống cấp, vụ hải cảng Thị Vải, nhà máy lọc dầu Dung Quất, công trình nhà tái định cư Thanh Xuân bị rút ruột cách tàn bạo, vụ đất công ở Phú Quốc, ở Bà Rịa bị cán bộ nhà nước cướp, vụ tàu hỏa E1 bị lật ở T.Thiên với nhiều quan chức phủi trách nhiệm v.v... Tất cả là những bằng chứng hùng hồn.
b- Chính khi áp đặt lên đầu óc mọi người dân cái chủ nghĩa duy vật sử quan cho rằng lịch sử nhân loại như một tiến trình có mục tiêu là xã hội cộng sản, một xã hội ưu việt, có tác nhân lý thuyết là chủ nghĩa cộng sản, đỉnh cao trí tuệ loài người, và tác nhân thực tế là đảng CS, đội quân tiên phong, đại biểu trung thành quyền lợi của dân tộc, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì CS đã tự bưng bít mình hay bưng bít nhân dân, không cho dân biết mọi thực tế đang xảy ra ngoài biên cương xã hội chủ nghĩa, nhằm làm cho đảng viên và nhân dân chỉ được thấy xã hội chủ nghĩa là ưu việt, là văn minh nhất đời. Do đó mới có nạn đảng độc quyền định hướng phát triển quốc gia, độc quyền ký kết những hiệp định về lãnh thổ, lãnh hải, thương mại, độc quyền về báo chí, truyền thanh, truyền hình, mới có nạn đảng giới hạn hay ngăn chận mạng lưới thông tin toàn cầu, kiểm soát thư từ điện thoại của nhân dân, theo dõi khủng bố những ai phê bình chế độ, nhà nước và đòi dân chủ. Rồi đảng lại đưa ra thứ “đạo đức cách mạng” thay cho đạo đức tự nhiên được trình bày trong các tôn giáo. Theo đạo đức cách mạng này, mọi cái giúp cho cách mạng tiến tới, cho nhà nước xã hội chủ nghĩa bền vững, cho đảng CS muôn năm trường trị thì mới là tốt, là đúng, là thiện, dẫu đấy là bạo lực và gian tà. Song song đó, mọi phương tiện truyền thông mà đảng hoàn toàn nắm, ra sức thổi phồng các khiếm khuyết, sai lầm hay tệ nạn tại các nước tư bản dân chủ. Dĩ nhiên, với việc bùng nổ thông tin toàn cầu và kinh nghiệm thực tế đau thương, nhiều người đã nhận ra được bộ mặt thực của CS. Nhưng vì sợ khủng bố, vì muốn an thân, vì thấy chưa có lực lượng nào trong nước đương đầu đối lập được với CS, nên họ đành nhẫn nhục chịu đựng hay chờ thời hoặc lợi dụng chế độ để tiến thân. Nhờ thế mà trong thời chiến, đảng đã thúc đẩy được nhiều người hy sinh, tuẫn tiết cho đảng, cho cách mạng cộng sản, đưa tới việc nhuộm đỏ toàn cõi toàn cõi Việt Nam, và nay trong thời bình, đảng tạo ra được nhiều người chỉ biết chủ yếu làm theo lệnh đảng hơn là làm theo luật pháp, làm theo lương tâm, đảng đã tạo ra được những lực lượng như công an, quân đội sẵn sàng đàn áp nhân dân để bảo vệ đảng và người của đảng, như tòa án sẵn sàng bóp méo luật pháp để kết tội những người chống lại đảng và chế độ, như báo đài sẵn sàng im lặng trước những sự việc đảng không cho phép nói. Vụ đàn áp các nhà dân chủ ở Bắc lẫn Nam, khủng bố các thành viên Hội chống tham nhũng năm nào, vụ xét xử vô luật pháp vô lương tâm đối với các anh Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn, đối với nhiều đồng bào sắc tộc Tây nguyên vượt biên sang Cam bốt là những bằng chứng. Thái độ im lặng hèn nhát của vô số nhà trí thức VN hôm nay, những kẻ sĩ lẽ ra phải gánh trách nhiệm trước hết về vận mạng đất nước, thái độ câm miệng an thân của vô số phóng viên nhà báo trước vụ hai hiệp định về lãnh thổ và trước vụ Trung cộng xâm phạm lãnh hải ức hiếp và giết chết ngư dân mới đây là những bằng chứng khác.
Vì thứ đạo đức cách mạng đó mà cộng sản phải tiêu diệt hay tê liệt hóa đạo đức tôn giáo bằng cách kiểm soát, khống chế nhân sự và sinh hoạt của các tôn giáo nhưng buông cương thả lỏng cho mê tín dị đoan tin vơ thờ quấy, bằng cách chỉ cho hoạt động những tín đồ biết hòa hợp lợi ích của đạo với lợi ích của đảng, biết liên kết đạo giáo với xã hội chủ nghĩa, biết đặt chính quyền trên giáo quyền, chỉ cho tôn giáo dạy mẫu giáo chứ nhất định không thể dạy các cấp cao hơn tới bậc đại học. Việc ban hành Pháp lệnh tôn giáo và mới đây là Nghị định áp dụng đầy những trói buộc phi lý, việc canh chừng, theo dõi, quản chế, giam cầm hay thủ tiêu các vị lãnh đạo tinh thần như các hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Thích Huyền Quang, đạo trưởng Lê Quang Liêm, mục sư Nguyễn Hồng Quang, tổng giám mục Nguyễn Kim Ðiền, linh mục Nguyễn Văn Lý là những bằng chứng. Việc cho các lãnh đạo tinh thần đẹp lòng chế độ hay vô hại cho chế độ được tha hồ xây dựng, tổ chức lễ hội, được ra nước ngoài lo việc đạo hay làm thuốc giải độc giúp nhà nước là những bằng chứng khác.
3- Chính tất cả chính sách uốn nắn, đào tạo, hay đúng hơn là tuyên truyền nhồi sọ mọi thành phần nhân dân như vừa nói trên, cái chính sách mà suốt 30 năm nay hầu như chỉ nặn ra được những con người vô lương tâm, vô trách nhiệm, thiếu nhân ái, thiếu tự trọng mà lại nắm vai trò lãnh đạo trong guồng máy quốc gia từ cao xuống thấp, hay nặn ra được những con người có lương tâm thui chột, mờ tối, khiếp nhược, an phận mà lại nắm vai trò lãnh đạo -nhờ đảng hỗ trợ- trong guồng máy tôn giáo từ cao xuống thấp, cái chính sách giáo dục phi nhân bản, phản dân tộc và đi ngược với văn minh loài người đó không những đã làm VN ngày càng khủng hoảng về đạo đức, nhân cách, lý tưởng sống của từng con người hay của toàn xã hội, mà còn xuống cấp về kinh tế quốc dân, suy thoái về tiềm lực quốc gia, tiêu tùng về quốc thể. Nó không những tàn phá đạo đức truyền thống của đất nước, bản sắc văn hóa của dân tộc, mà còn làm cho tài nguyên vật chất, môi trường sinh sống, lãnh thổ lãnh hải của tổ quốc ngày càng thoái biến và thu hẹp.
Kết luận
Bao lâu còn đảng CS độc tài độc quyền thì vẫn còn nền giáo dục độc đoán độc hại như chúng tôi vừa phác họa ở trên. Lúc ấy đừng có mong thực hiện tốt đẹp công cuộc cải cách giáo dục đảng đề ra cả mấy chục năm nay, đừng có mơ hoàn thành rực rỡ công cuộc tiễu trừ tệ nạn và phát triển đất nước đảng hô hào từ cái gọi là “ngày giải phóng”. Bao lâu đường lối mục tiêu giáo dục chưa phi chính trị hóa, tôn giáo chưa giành lại được quyền đào tạo con người, nhân dân chưa lấy lại được mọi quyền cơ bản, thì đừng mong có chuyện đất nước cất cánh hóa rồng. Thành thử điều tiên quyết là phải giải thể chế độ độc tài chuyên chế cộng sản hiện nay, phải phục hồi đầy đủ mọi nhân quyền và dân quyền, trong đó có quyền giáo dục và được giáo dục đúng nghĩa, quyền định kế sách lâu dài và tự do đóng góp cho việc phát triển đất nước.
Xin kính chào toàn thể đồng bào và kính chúc đồng bào được mọi phúc lành của TC.
Từ Việt Nam, ngày 18-4-2005,
Chúng tôi, ba anh em linh mục Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi
----- O -----
Thư hiệp thông với
Hòa thượng Thích Quảng Ðộ
qua Thông điệp gởi Ủy hội Nhân quyền LHQ nhân khóa họp thứ 61
Kính thưa ngài Hòa thượng Quảng Ðộ rất đáng kính,
Chúng tôi đã hân hạnh được nghe toàn văn bức thông điệp của Hòa thượng với một niềm phấn khởi hân hoan tột độ. Sau đây chúng tôi xin được có vài tâm tình ý nghĩ như sau:
1- Trước hết chúng tôi một lần nữa, xin bày tỏ lòng cảm phục của chúng tôi đối với đức vô úy phi thường của ngài Hòa thượng. Dù trong cảnh quản chế, gặp đủ mọi trắc trở, khó khăn, hăm dọa, ngài Hòa thượng cũng đã can đảm nói lên tiếng nói không những của ngài mà còn của mọi người dân VN đang rên siết dưới chế độ bạo tàn áp bức của Cộng sản. Chúng tôi cũng xin ngỏ lời cảm phục các phật tử Sài gòn đã bất chấp nguy hiểm, làm cho tiếng nói đầy uy lực của vị tù nhân lương tâm kiêm lãnh đạo bất khuất vượt bức tường sắt và bức tường lửa ra toàn thế giới.
2- Chúng tôi xin được bày tỏ sự cảm thông với những khó khăn đau khổ miên trường mà Hòa thượng cùng nhiều vị cao tăng và đạo hữu trong quý Giáo Hội PGVNTN đã và đang trải qua vì tranh đấu cho tự do của đạo pháp và của dân tộc. Chúng tôi coi những khó khăn đau khổ đó cũng là của mình, và thật sự chúng tôi cũng đang được chia sẻ một phần những đòn thù mà chế độ đang gây ra cho những tiếng nói dân chủ bất khuất như Hòa thượng.
3- Chúng tôi xin mạn phép thay mặt cho những công dân và tín đồ tại VN đang phẫn uất trước cảnh đày đọa dân tộc và tôn giáo cám ơn ngài Hòa thượng đã nói lên tiếng lòng đích thực nhất của tất cả con dân Việt Nam và của mọi người, đã gióng lên tiếng chuông báo động toàn thế giới về thảm trạng tại CHXHCN Việt Nam, đã mạnh mẽ đưa ra lời cảnh cáo đối với một chế độ đang mù quáng và tàn bạo giao chiến với chính nhân dân mình mà không biết rằng họ đang tự đào hố chôn mình trong sự phẫn nộ của toàn dân và khinh bỉ của nhân loại.
4- Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với mọi nhận định của ngài Hòa thượng về hiện tình đất nước, hiện tình các giáo hội, về chính sách nô lệ hóa nhân dân và tôn giáo mà nhà cầm quyền CS đang thực thi tại Việt Nam. Chúng tôi hết sức tâm đắc với lời phát biểu của Hòa thượng trong Thông điệp: “Bằng đàn áp, bạo động và tù đày, nhà cầm quyền tìm mọi cách dập tắt tiếng nói của người dân, nhưng họ không thể dập tắt ý dân, bởi ý dân là ý Trời!”.
5- Chúng tôi tán thành ba đề nghị của Hòa thượng, đó là phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo Hội PGVNTN và các giáo hội không được nhà nước công nhận, một quyền sinh hoạt đúng nghĩa, đích thật, xứng danh; đó là phát hành một tờ báo độc lập làm diễn đàn dân chủ cho tất cả mọi người, tiến tới một nền báo chí truyền thông tự do như mọi nước văn minh; đó là thả hết mọi tù nhân lương tâm đang tranh đấu cho tự do dân chủ và tự do tôn giáo, chấm dứt mọi sự theo dõi, hăm dọa, cản trở, quản chế cách này cách khác đối với các tiếng nói này.
6- Cuối cùng, chúng tôi xin chia sẻ quyết tâm của Hòa thượng là “tiếp tục cuộc đấu tranh bất bạo động, không ngừng đấu tranh cho đến ngày các ngưỡng vọng dân chủ được hình thành trên mảnh đất Việt Nam”. Chúng tôi cũng xin chia sẻ niềm hy vọng của Hòa thượng mà cũng là hy vọng của mọi người dân Việt trong và ngoài nước. Ðó là dịp kỷ niệm 30 năm chấm dứt chiến tranh sẽ là năm mở màn cho một tiến trình dân chủ hầu đem lại hòa bình tự do cho dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi nguyện xin Thiên Chúa là Cha mọi chúng sinh chúc lành cho niềm hy vọng chính đáng này.
Từ Việt Nam, ngày 18-4-2005,
Chúng tôi, ba anh em linh mục Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi
----- O -----
Trang giấy và sứ mệnh nhà văn
(Tham luận gửi Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII tổ chức vào ngày
21, 22, 23 tháng 4 năm 2005 tại Hà Nội)
Nhà văn Hoàng Tiến
Đầu xuân năm nay -ất Dậu 2005- nhà thơ Bùi Minh Quốc có công bố một tư liệu về những ngày cuối đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu, khi ấy anh nằm chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai). Trong một bức thư gửi bạn, Nguyễn Minh Châu viết:
“Nhà văn nước nào cũng vậy, ngoài tiếng nói trong tác phẩm,
phải có tiếng nói xã hội, tiếng nói trước công bằng và bất công, trước chiến
tranh và hoà bình.
Theo tôi, làm một thằng nhà văn Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn
đề dân chủ là thiếu tư cách kể cả việc anh núp sau lập luận rằng văn học là
cái gì sâu xa để đời ...”
Nguyễn Minh Châu mất ngày 23 tháng 1 năm 1989.
Nhưng tham gia vào dân chủ thường bị quy là vấn đề chính trị. Nó là vấn đề nguy hiểm ở nước ta. Có nguy cơ bị bắt bớ tù đầy. Chí ít nó cũng làm mếch lòng các vị lãnh đạo, bị cơ quan an ninh theo dõi, gặp khó khăn cho việc in ấn tác phẩm, thư tín bị kiểm soát, bị cắt điện thoại, không được phép đi ra nước ngoài ... vân vân và vân vân ....
Những việc đó không phải là tưởng tượng. Những việc đó đã xảy ra.
Nhà văn nữ Dương Thu Hương bị bắt vì do phát ngôn mạnh dạn những suy nghĩ độc lập của mình. Chị bị giam mất 7 tháng, sau đó thì thả ra, vô tội.
Ban Chấp hành Hội Nhà văn không có một lời can thiệp, hoặc thắc mắc, hoặc thanh minh, hoặc bảo vệ, hoặc an ủi thăm hỏi gia đình con cái chị Hương. Hồi ấy các cháu còn nhỏ. Chúng rất cần sự quan tâm của các bác các chú Hội Nhà văn lúc mẹ chúng đang cơn hoạn nạn. Sự quay lưng lại trước đau khổ của đồng nghiệp (ấy là chưa kể có người còn hùa với chính quyền nói xấu chị Hương) đã làm Dương Thu Hương phát chán cái Hội Nhà văn. Chị tuyến bố rút ra khỏi Hội với câu nói xanh rờn: “Không bằng cái hội xích lô !”. Những người chạy xích lô khi thấy đồng nghiệp của họ bị bắt, họ còn biết kéo nhau đến công an hỏi lý do bắt giữ, rồi cơm nước, quà bánh, săn sóc an ủi con trẻ. Dương Thu Hương không muốn có cái mặt mình trong Hội Nhà văn nữa. Nhưng người đời vẫn gọi chị là nhà văn. Chị vẫn sáng tác, trong nước không in thì nước ngoài in. Chị vừa hoàn thành một kịch bản phim bằng tiếng Pháp cho một đạo diễn người Pháp dàn dựng, tên kịch bản là Baptiser une guerre (tạm dịch Rửa tội cho một cuộc chiến).
Nhà thơ Bùi Minh Quốc bị khai trừ Đảng, bị buộc thôi việc, bị quản chế hành chính 2 lần (mỗi lần 2 năm), vì cả gan làm cuộc hành trình từ Nam ra Bắc lấy chữ ký phản đối việc đình bản tạp chí Langbian của Hội văn nghệ Lâm Đồng, đồng thời phản đối vụ kỷ luật tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn; rồi sau này là việc anh lên biên giới một mình bằng xe Honda 50 phân khối để chính mắt nhìn thấy sự mất đất cho Trung Quốc (thác Bản Giốc ở Cao Bằng và suối Phi Khanh trước Mục Nam Quan), khi về có viết một chùm thơ 4 bài gửi đăng báo. Anh bị bắt giữ trên đường từ Hà Nội về Đà Lạt. Anh cũng đã từng bị khám nhà, bị cắt điện thoại, bao vây thư tín. Cũng không có một sự can thiệp chia sẻ nào của Hội Nhà văn.
Và bản thân tôi, bị cắt điện thoại, lấy mất thư từ, không cho đi hội thảo nước ngoài. Tôi có gửi đơn đến Hội Nhà văn (và các cơ quan chức năng) nhờ can thiệp với những đề nghị rõ ràng:
Nếu có tội xin công an cứ bắt, đưa ra xét xử hẳn hoi. Còn không
nên cắt điện thoại cố định của người ta, bao vây thư tín người ta. Nó vi phạm
quyền dân chủ và quyền con người, để thế giới phải lên án nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Vả lại điện thoại là cả nhà người ta dùng. Không thể giận cá chém
thớt.
Trong thời đại tin học phát triển ngày nay, việc cắt điện thoại cố định trở
thành vô nghĩa, vô tác dụng, nó chỉ làm thế giới cười nhạo hành động đó mà thôi.
Không cho đi hội thảo nước ngoài, thì ban tổ chức người ta đến ghi âm, quay
phim mình đọc tham luận tại nhà, rồi đưa đến hội thảo. Cần thay đổi nhận thức
rằng trong môi trường thông tin hiện đại, việc ngăn chặn giao lưu tư tưởng là
lố bịch.
Không có một hồi âm can thiệp giúp đỡ nào của tổ chức nhà văn.
Sự vô cảm trước cái ác, cái xấu, cái bất công, đã trở thành một lối sống phổ biến. Chúng ta có thể đưa ra hàng tá lý luận để được yên thân, để được an ủi, nhằm che giấu nỗi sợ hãi của chính mình. Thậm chí còn dùng đến cả miếng võ thậm xưng tự xỉ vả: “Tôi là thằng hèn. Tôi nhận tôi là thằng hèn từ lâu nay rồi. Đáng phỉ nhổ từ lâu nay rồi.”
Nhà văn phải dùng đến miếng võ như vậy thì ai cũng phải vái lạy anh ta mà chạy dài thôi.
Và đấy cũng là một nguyên nhân để thấy rằng tại sao chúng ta không có những tác phẩm tầm cỡ. Ngạn ngữ châu Âu: Le style c’est l’homme – Văn tức là người vậy, hay nói nôm na như ông cha mình: người nào văn nấy. Phải có nhân cách Nguyễn Công Trứ, nhân cách Cao Bá Quát, nhân cách Phan Bội Châu, nhân cách Phan Chu Trinh ...vv... thì mới có thơ văn Nguyễn Công Trứ, thơ văn Cao Bá Quát, thơ văn Phan Bội Châu, thơ văn Phan Chu Trinh ...vv...
Nhà văn Nguyễn Minh Châu còn trả lời phỏng vấn báo Văn Nghệ ngày 3-12-1988, nhấn mạnh một lần nữa rằng, nhà văn phải dùng “tiếng nói xã hội” của mình để bày tỏ thái độ trước bất công, trước cái ác, trước nỗi oan khiên của số phận con người.
Anh nói:
“Tôi nghĩ rằng thời nào và ở đâu cũng vậy, các nhà văn chỉ có một việc chính và duy nhất là viết cho hay. Ngoài ra, bằng uy tín của mình, anh phải tham gia tiếng nói vào những vấn đề của con người, trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng, thây kệ khi con người bị đày đoạ và chà đạp [...] Cái lỗi lớn nhất của mỗi chúng ta là đã khiếp hãi trước cái ác. Và lâu dần, dường như không làm gì được thì chúng ta coi như không có nó.”
Một điểm yếu kém nữa của giới cầm bút chúng ta ngày nay là sự bẻ cong ngòi bút. Người viết không viết theo cái đầu mình suy nghĩ, con tim mình đập nhịp. Họ làm theo đơn đặt hàng, suy nghĩ bằng cái đầu người khác, tình cảm phập phồng theo con tim người khác. Cho nên đấy cũng lại là một nguyên nhân không thể có những tác phẩm tầm cỡ.
Tôi nói có sách, mách có chứng. Tôi biết một giáo sư nhà văn đáng kính, có tuổi, đã bẻ cong ngòi bút phục vụ cho ý tưởng của lãnh đạo. Phải làm như thế chắc ông cũng rất khổ tâm. Thật tình tôi không muốn làm ông khổ thêm. Nhưng việc nói cứ phải nói. Nói để rồi không lặp lại những chuyện ấy nữa cho mọi người cầm bút, chứ không phải chỉ cho riêng ông.
Ấy là bài “Chúc văn giỗ tổ các vua Hùng” năm 2000, năm đầu tiên Đảng và Nhà nước đứng ra chủ trì giỗ tổ. Trong bài Chúc văn, những thành tích của con cháu qua các thế kỷ đều được kể ra để báo cáo với tổ tiên. ở thế kỷ 20, có hai chiến tích lừng lẫy Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước, thì bài Chúc văn lại không có. Thành ra bài văn tế, như tác giả của nó trình bày, làm đúng 100 câu ứng với truyền thuyết 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu, thiếu mất 2 câu nói về Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh.
Bởi một vài nhà lãnh đạo nào đấy, muốn làm chìm đắm tên tuổi ông Võ Nguyên Giáp, nên cho chìm luôn những chiến công gắn với tên tuổi của ông.
Một cựu chiến binh chống Pháp từng lên tiếng về dân chủ bị kết tội 10 tháng tù giam, phẫn nộ lên án bài Chúc văn là phản bội lịch sử dân tộc, đòi lập toà đại hình xét xử kẻ chủ mưu, và kết luận bằng những lời chua chát: “Để thưởng công cho việc dám xoá bỏ Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh, họ thưởng cho nhà văn ấy danh hiệu Anh hùng Lao động.”
Độc giả có quyền phê phán của độc giả. Và cựu chiến binh, những người đã đổ xương máu bảo vệ đất nước, có quyền phê phán của cựu chiến binh.
Với những người cầm bút chúng ta nên coi đây là một bài học soi chung.
Chúng ta thường phàn nàn về tự do sáng tác, bởi những tiếng còi huýt giật mình của ban Tư tưởng-Văn hoá, anh em rỉ tai nhau: có hơn 600 tờ báo và tạp chí, nhưng chỉ một tổng biên tập là ban Tư tưởng-Văn hoá; sách báo bị tịch thu mấy năm gần đây còn nhiều hơn cả thời Nhân văn-Giai phẩm; thậm chí tịch thu cả bản thảo của nhà văn, một tài sản riêng tư coi như những tư trang thuộc quyền sở hữu cá nhân, khi nó chưa hiện diện trên các quầy sách báo. Những việc làm thô bạo đó đã gây một không khí trầm uất, thiếu hào hứng trong sáng tác.
Nói thì nói vậy, nhưng cũng có phần lỗi ở những người cầm bút chúng ta. Chính chúng ta, chứ không phải ai khác, đã kiểm duyệt nhau một cách chặt chẽ. Gây phiền hà cho nhau khá nhiều. Cắt xén những câu văn, đoạn văn, còn khe khắt hơn cả những tờ báo chính trị chuyên mục.
Tôi lại nói có sách, mách có chứng. Nhà thơ Hải Như có viết một bài nhan đề “Cần biết xấu hổ”. Ông gửi cho báo Văn Nghệ chỗ anh Hữu Thỉnh. Sau một thời gian chờ đợi, mong mỏi, ông thấy bài được đăng, nhưng bị cắt gần nửa, toàn những chi tiết quan trọng và tâm huyết. Chán ngán, ông gửi cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ban Tổ chức Trung ương là Trần Đình Hoan nhận được, nhiệt liệt hoan nghênh, gửi thư cám ơn ông và chuyển bài đó cho báo Người đại biểu nhân dân. Báo Người đại biểu nhân dân của Quốc hội, báo chính trị hẳn hoi, đăng toàn văn, không cắt một chữ. Như thế là sao đây? Có phải chúng ta đã làm theo như một câu ngạn ngữ : “Bảo hoàng hơn nhà vua” chăng ?
Anh Hữu Thỉnh có kể với tôi, cắt như thế rồi, mà sau khi báo đăng, vẫn còn bị hai ông bí thư tỉnh ủy gọi điện đến chất vấn đấy. Văn chương mà cứ phải chiều ý các nhà cầm quyền ở đủ mọi cấp, lại mỗi ông một phách, rồi nó thành ra cái thứ văn chương gì? Ở đây cần bản lĩnh của người cầm bút.
Một viên thượng tá A 25-Bộ Công an có kể với tôi, chính anh ta đã đi xin việc về Hà Nội cho nhà thơ Bùi Minh Quốc bị kỷ luật mất việc ở Lâm Đồng. Báo Văn Nghệ hồi ấy không nhận. Anh ta phàn nàn: “Văn nghệ sĩ các anh cũng chẳng muốn cưu mang nhau.” Việc thực hay hư không rõ. Có thể họ tung tin gây chia rẽ trong văn nghệ sĩ. Có thể kiểm tra xem ai hồi ấy phụ trách báo Văn Nghệ ? Ban Chấp hành hồi ấy là ai? Chuyện đó có thật không ? Nhưng rõ ràng sự cưu mang nhau trong hoạn nạn là quá yếu ớt ở Hội Nhà văn chúng ta. Chúng ta chưa có ý thức giới. Giới văn nghệ sĩ. Giới khoa học. Giới báo chí. Giới tu hành ...vv....
Lại nghe kể trong một hội nghị văn nghệ sĩ địa phương, họp trù bị để bầu đoàn đại biểu dự đại hội các nhà văn toàn quốc lần thứ VII, có nhà văn phát biểu hết sức phẫn nộ rằng tác phẩm của mình bị cắt xén, dàn dựng, thay đổi cả chủ đề, biến dạng các nhân vật, đến mức không còn nhận ra của anh ta nữa. Nhưng anh ta vẫn cam chịu, vì cần số tiền nhuận bút vài chục triệu đồng. Đáng thương hay đáng trách đây ?
Ngồi trước trang giấy viết, nhà văn cần ý thức về sứ mệnh của mình. Mỗi thời kỳ có một nhiệm vụ lịch sử của nó. Thời chống Pháp, nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập non trẻ sau Cách mạng Tháng 8. Thời chống Mỹ, nhiệm vụ hàng đầu là giải phòng miền Nam thống nhất đất nước. Và nhiệm vụ bây giờ là xây dựng một đất nước dân chủ tự do, kinh tế phát triển, trong đó quyền con người phải được tôn trọng tối đa.
Nếu chúng ta chủ trương văn học vì nhân sinh, thì không thể rời bỏ những nhiệm vụ trên. Nếu rời bỏ nó, cũng giống như vị thần Ăngtê trong thần thoại Hy Lạp bị nhấc khỏi mặt đất, nền văn học sẽ mất hết sức sống
Xin được nhắc lại một lần nữa, lời trăn trối của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
“Làm một thằng nhà văn Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách kể cả việc anh núp sau lập luận rằng văn học là cái gì sâu xa để đời ...”
Kính chúc Đại hội nhà văn lần thứ VII thành công tốt đẹp.
Thăng Long. Sắp mùa hoa gạo.
Hoàng Tiến, nhà văn
Địa chỉ:
Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.
Điện thoại: Bị cắt từ lâu.
Nơi gửi:
+ Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII
+ Các bạn bè văn nghệ sĩ.
+ Các độc giả quen biết.
----- O -----
Nhân một bài báo phi pháp, nghĩ về đảng và báo chí Việt Nam.
Tuệ Minh
Tôi thực sự bất ngờ khi đọc được một bài viết xúc phạm Nhà nghiên cứu Trần Khuê, của tác giả Nguyễn Như Phong, đăng trên tờ An ninh thế giới ( ANTG) vào khoảng đầu tháng 4 năm 2005. Bất ngờ là vì Nguyễn Như Phong vẫn chứng nào tật ấy, mặc sức bôi nhọ, xúc phạm danh dự công dân trên mặt báo,coi thường pháp luật. Nguyễn Như Phong đã từng bị các cụ lão thành quấtcho mấy roi mà vẫn không chừa.Trước đây, Nguyễn Như Phong và một số tác giả khác ( có phải là bút danh khác của Nguyễn Như Phong hay không thì tôi không rõ !), đã nhiều lần xúc phạm danh dự cá nhân của nhiều người trên báo "An ninh thế giới" và "Công an nhân dân" (CAND). Điều đáng nói là đối tượng mà họ nhắm tới tấn công gồm toàn những người mà đảng không ưa, như các ông: GS Hoàng Minh Chính, TS Nguyễn Thanh Giang, TS Hà Sỹ Phu, Bác sỹ Nguyễn Đan Quế, Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Mục sư Nguyễn Hồng Quang, v.v...
Điều đó buộc người dân phải đặt ra những nghi vấn về vai trò và chức năng của báo chí; về chủ trương đường lối của đảng.
Lẽ ra, báo chí phải là nơi mà người dân được tự do diễn đạt quan điểm, diễn đạt sự thật. Báo chí không chỉ cung cấp thông tin bình thường mà còn là sức mạnh của nhân dân, là một thứ "vũ khí" có thể bảo vệ nhân dân. Có như thế, báo chí mới hy vọng là " quyền lực thứ tư " được. Nhưng ở nước ta, báo chí bị đảng kiểm soát gắt gao. Báo chí, thậm chí, trở thành công cụ tuyên truyền và trấn áp của đảng. Xin đưa ra một vài ví dụ để minh hoạ: Các vụ án quan trọng như vụ tham nhũng Lã Thị Kim Oanh; vụ băng đảng xã hội đen Năm Cam câu kết với quan chức nhà nước, hoành hành phá hoại xã hội; vụ phó Chủ nhiệm Uỷ ban thể dục thể thao Quốc gia Lương Quốc Dũng hiếp dâm trẻ em 13 tuổi; vụ tham nhũng và chạy Quota ở Bộ Thương mại, vụ bê bối trong việc xây dựng sân vận động quốc gia Mỹ Đình,v.v... Báo chí đã không đi đến cùng sự việc.
Phải chăng người ta sợ cứ để tự do thì báo chí sẽ phanh phui đến nhiều vị tai to mặt lớn ở Trung ương đảng, Bộ Chính trị ? Chắc hẳn khi đó, đảng sợ không còn mặt mũi nào để nhìn dân.Hay như vụ Hải quân Trung Quốc ngang nhiên giết hại ngư dân Việt Nam. Chỉ có hai tờ báo là tờ Thanh Niên, và tờ Tuổi Trẻ (TPHCM) là đưa tin, nhưng rất sơ sài, và chỉ đăng vài số rồi cũng im luôn. Tại sao một sự kiện quan trọng như vậy lại bưng bít thông tin? Tại sao ngoại bang ngang nhiên giết hại đồng bào mình mà cả mấy trăm tờ báo đều im lặng ?? Thật là nhục nhã làm sao ! Tính mạng của dân có phải cỏ rác không ? Đảng và nhà nước không có lấy nổi một Công hàm phản đối Trung Quốc một cách đích đáng. Chủ quyền đất nước ở đâu? Độc lập dân tộc ở đâu? Tinh thần dân tộc ở đâu ? Truyền thống yêu nước ở đâu?Cách ứng xử bạc nhược của những người cai trị đất nước cần phải thay đổi. Đừng để dân có cảm giác phải sống trong một quốc gia thấp hèn và phụ thuộc. Điều đáng phàn nàn là đảng không dám phản ứng, nhưng lại không cho dân có quyền phản ứng về việc này.Rồi vụ cả ban lãnh đạo Quân khu 4 bị thiệt mạng vì "tai nạn máy bay".
Đối với nhân dân, vụ này chứa đầy bí ẩn. Cả ban lãnh đạo của một Quân khu bị chết, không hề là một chuyện giản đơn ! Nhưng cũng không thấy báo chí đặt vấn đề ? Tại sao ?. Trên đây, tôi chỉ nêu một vài ví dụ, để thấy báo chí nước nhà là như thế nào. Việc cải thiện tình hình báo chí luôn là mong mỏi của dân. Nhưng tiếc thay, điều đó gần như là "không tưởng". Ở đâu có độc tài, chuyên chế thì ở đó không có tự do báo chí. Lênin, một lãnh tụ của giai cấp vô sản đã từng kêu gọi các đảng cộng sản sống chết phải nắm cho bằng được báo chí trong tay. Để báo chí tuột ra khỏi tay đảng thì chuyên chính vô sản sẽ sụp đổ. Vậy nên, báo chí có nằm trong tay nhân dân, có là quyền lực đích thực của nhân dân hay không, điều đó phụ thuộc vào việc nhân dân giải quyết những " điều kiện ràng buộc" như thế nào ?
Những tờ báo như ANTG, CAND,v.v... cần chấm dứt ngay việc xuyên tạc, xúc phạm đời tư của công dân trên mặt báo. Nên nhớ rằng, Điều 17, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) đã khẳng định:
"Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp
pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm bất hợp
pháp đến danh dự và uy tín.
Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo hộ chống lại những can thiệp hoặc
xúc phạm như vậy."
Luật pháp Việt Nam cũng không cho phép ai tuỳ tiện bôi nhọ , xúc phạm danh dự
của người khác. Lãnh đạo đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí của Bộ công an
phải tôn trọng pháp luật thì dân mới noi gương được. Những người cai trị đất
nước mà ngồi trên Luật pháp, Hiến pháp, coi thường các Công ước quốc tế thì
không thể đòi hỏi dân chúng phải "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật" !
Xã hội có nhiều cái loạn, nhiều cái nhiễu nhương như ngày nay, một phần quan trọng là vì kỷ cương phép nước bị phá hỏng, xem thường. Nhưng điều oái oăm là luật pháp đã bị chuyên chính vô sản bao trùm lên. Điều luật có thể bị thay thế một cách vô nguyên tắc bởi mệnh lệnh, uy quyền cá nhân. Cho nên, trong cái mô hình chuyên chính vô sản mà đòi hỏi những người cai trị tôn trọng luật pháp thì khó lắm, nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Chuyên chính vô sản và Pháp quyền -dân chủ là cặp mâu thuấn đối kháng. Cái này tồn tại thì cái kia phải diệt vong.Vẫn biết giải quyết rốt ráo những mâu thuẫn cơ bản của xã hội là điều rất khó khăn. Nhưng trước mắt, đảng cộng sản vẫn nên cải thiện tình hình trong khả năng có thể.
Cần chấm dứt ngay chủ trương công kích, xúc phạm công dân trên báo chí. Báo ANTG, CAND và các tác giả viết các bài xúc phạm cá nhân cần phải bị xử lý theo pháp luật. Không làm được điều cỏn con ấy thì đảng làm được điều gì đây?
Việt Nam, một ngày cuối tháng tư, 2005.
----- O -----
Phương Nam và khát khao trong lành của tuổi trẻ
Hà Sĩ Phu (Minh Viễn)
Phương Nam, tên thật là Đỗ Nam Hải, đã có 5 bài viết : Việt nam đất nước tôi- Việt nam và sự đổi mới- Suy nghĩ về Nhận thức lại- Viết về chủ tịch Hồ chí Minh- Viết tiếp về Nhận thức lại. Cũng như nhiều bạn đọc khác, sau khi đọc 5 bài viết ấy của Phương Nam tôi thấy được gợi lên một không khí trò chuyện.
Mà chuyện trò ở đây là chuyện lớn, chuyện đất nước, chuyện nhân dân, chuyện của những biến cố lở đất long trời trải dài suốt một thế kỷ. Chuyện hào quang với người này nhưng sầu tủi đăm chiêu với người khác, chuyện vui buồn, lợi quyền và sống chết của hàng triệu con người khác nhau.Chuyện rất nghiêm túc, và Phương Nam cũng đã viết rất thẳng thắn, không lựa lời.
Viết về một nội dung như thế mà gợi được cho nhiều người khác ý muốn trò chuyện với mình thì đấy cũng là một thành công rồi.
*
Kể ra thì nhận thức về những vấn đề trọng đại của đất nước như trên vừa nói cũng đã có cả một hệ thống nhận thức chính thống bao quát hết rồi, thống soái hết rồi. Nhưng là một người Việt nam hôm nay mà yên tâm chấp nhận hệ thống nhận thức chính thống đó, mà không thấy phải đặt ra những dấu hỏi, kể cả dấu hỏi nơi gốc rễ, thì ta phải đánh ngay một dấu hỏi lớn xem đầu óc và con tim của người ấy có bình thường không và đang ở cấp độ nào ?
Hệ thống nhận thức chính thống cũ mà Phương Nam cũng như hàng triệu người Việt nam được nhồi vào đầu đã tỏ ra hoàn toàn đáng ngờ trước thực tiễn của thế giới và của đất nước. Những người Việt nam có tri thức , còn giàu tâm huyết và trách nhiệm không thể không có nhu cầu về một cuộc “Nhận thức lại” !
Phương Nam là một đại diện tiêu biểu của khát khao rất trong lành đó.
Muốn nhận thức lại để có thể giải thích thỏa đáng một hiện tượng nào đó, có khi chỉ rất nhỏ, cũng đòi hỏi phải xem xét lại cả hệ thống, vì nếu cứ bám lấy các “nguyên lý”, các “tiên đề”, với “phương pháp luận” có sẵn từ trước thì loanh quanh vẫn ở cái vòng ngụy biện không có lối ra, chẳng thuyết phục được ai.. Vì thế mà cực chẳng đã, muốn có một nhận thức đúng không thể không cày xới lý luận từ gốc, rà soát lại một cách hệ thống.
Lý luận xã hội học tất nhiên phải đối chiếu với những bằng chứng thực tiễn. Cho nên song song với những nguỵ biện về lý luận bao giờ cũng là sự che giấu, xuyên tạc thực tiễn, bí mật hóa mọi điều và bưng bít thông tin. Muốn chống ngụy biện không thể không đối chiếu nhiều nguồn thông tin, nhiều nguồn tư liệu để xác nhận lại những sự thật lịch sử và nhân vật lịch sử.
Để “nhận thức lại” (trước hết là cho mình), Phương Nam đã phải đề cập đến những vấn đề không thể tránh được ấy.
*
Chính vì mục đích có tính khoa học và công chính như thế nên nhìn chung các bài viết của Phương Nam đã thể hiện được tinh thần nghiêm túc, công phu, giàu tư liệu. Thái độ chung là công bằng, xét bên này xét cả bên kia, điều chưa chắc chắn thì coi là giả định.
Tuy vậy, không phải lúc nào bài viết cũng đạt được ưu điểm đó. Song song với điểm mạnh của những suy luận sắc sảo và cách biểu hiện say sưa nhiều cảm xúc thì cái nhược điểm chủ quan, chưa phải đã già dặn, tất nhiên, cũng thường ẩn náu ngay bên cạnh.
Tôi rất muốn trích dẫn nhiều đoạn , nhiều ý của Phương Nam để minh họa cho những nhận xét của mình, nhưng tôi lại muốn giành việc ấy cho những bạn đọc đã đọc và sẽ đọc Phương Nam, xem các bạn có đồng ý với tôi không. (Tất cả chưa đến 100 trang A4 thiết tưởng không mất thì giờ nhiều lắm để đọc.)
Tôi muốn giành khuôn khổ ngắn gọn của bức thư này để bàn thêm về một vài ý mà các bài của Phương Nam đã gợi hứng cho tôi :
1/ Trước hết Phương Nam thấy cần phải “Nhận thức lại” vì cái vẫn được tôn vinh là “tiên tiến” lại không tiên tiến chút nào. Anh đã trích dẫn từ Hà Sĩ Phu một “quy trình 4 bước” mà Đảng Cộng sản bản chất lạc hậu đã “lếch thếch chạy theo thực tiễn” để diệt những nhân tố tiền tiến mà chiếm lấy công tiên tiến.
Từ đấy nảy sinh một câu hỏi: tại sao chủ nghĩa Cộng sản với mục tiêu “xây dựng một xã hội tiên tiến nhất trong lịch sử loài người” lại chuyên đánh vào những giá trị tiên tiến như thế ?
Phương Nam đã thôi thúc mọi người cùng đào sâu để lý giải hiện tượng “nghịch lý” rất căn bản này.
Thật vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin xuất hiện vào thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa Tư bản khi nó chưa trưởng thành, Chủ nghĩa Đế quốc cũng nằm trong cơn vật lộn để tích lũy tư bản ban đầu đầy khốc liệt ấy. Trong giai đoạn lịch sử ấy, đáng lẽ phải đẩy xã hội thoát lên bằng con đường dân chủ hóa và pháp trị (rồi sau này là tri thức hóa và toàn cầu hóa) mà những John Locke, những Montesquieu … đã gợi mở , để điều hòa và giải quyết quan hệ tự do cạnh tranh,quan hệ thống trị vớI bị trị, và đưa xã hội phát triển lành mạnh lên, thì Mác-Lênin lại tìm lối thoát ở sự tập trung quyền lực chính trị để độc quyền chỉ huy, độc quyền sắp xếp mọi việc trong xã hội, thì đó chính là con đường mà chế độ Nô lệ và Phong kiến vừa trải qua rồi. Tức là xét về hướng tiến hóa thì Mác-Lê đã rúc vào quá khứ để tìm lối ra, tưởng phía ấy là tương lai.Chuyển động ngược chiều với tiến hóa như thế thì đích thị là “phản động” theo nghĩa chính của thuật ngữ này.
Chủ nghĩa Mác-Lênin tuy có những mảng khoa học và thực tế, sự phê phán sắc sảo, nhưng lại được lý giải và xử lý bằng một nhãn quan rất phản khoa học và ảo tưởng, cho nên cuối cùng học thuyết này vẫn chỉ có chỗ đứng trong hàng ngũ những chủ nghĩa KHÔNG TƯỞNG (mà chính Mác đã kịch liệt phê phán), chứ không có tư cách gì trong khoa học. Mà Khoa học và Trí tuệ thì gắn làm một với Tiến hóa của nhân loại.
Dù cho mục đích là nhân bản và rất lớn lao nhưng Mác-Lê đã dùng ý chí chủ quan, suy luận chủ quan, dự đoán chủ quan để chống lại tất cả những cái khoa học, tiên tiến, thuận quy luật đó (và cũng là chống lại những nét tích cực chính mình). Cho nên trong những bước đi lên của xã hội, không phải ngẫu nhiên mà các đảng Cộng sản cầm quyền cứ thấy cái tiên tiến là họ đánh, cứ thấy người tiên tiến là họ đánh, họ đánh rồi họ lại phải đi theo.
Tiện đây tôi xin phép được bổ sung vào “quy trình 4 bước” mà Phương Nam đã trích dẫn ấy một bước thứ 5 nữa cho hoàn chỉnh:
- Bước 5 : Thấy cái tiên tiến thật bị mình quật ngã và đoạt công lại cứ được mọi người ghi công và nể trọng, bèn vực nạn nhân hoặc vong hồn dậy, dúi cho tý “quà” hòng xúy xóa tất cả 4 bước nói trên. (Bước thứ 5 này thường tách ra, rất chậm trễ sau 4 bước kia như một sự vớt vát về sau, vì thế trước đây tôi đã không gộp vào) (1).
Có người sẽ hỏi : Sao Đảng Cộng sản lại có sức mạnh để thực hiện những điều ngang ngược đó ?
Điều rắc rối phát sinh từ chỗ chính cái chủ nghĩa ảo tưởng,phi khoa học ấy lúc đầu đã như một tà giáo, mê hoặc một số dân tộc còn kém phát triển, và đã từng là nguồn cổ vũ quần chúng, là nguồn sức mạnh nổi lên chống lại sự áp bức của ngoại bang, (và chủ nghĩa ấy nghiễm nhiên thành ân nhân của dân tộc), kết quả là Đảng Cộng sản nắm lấy ngôi thống trị xã hội và sử dụng toàn bộ sức mạnh của khối nhân dân bị mê hoặc và thuần dưỡng, sức mạnh của những nhân tài, sức mạnh của toàn bộ tài nguyên quốc gia và sức mạnh danh hiệu của cả một dân tộc chiến thắng để thi hành mọi thao tác đối nội và đối ngoại, trên nền định hướng của một chủ nghĩa phản khoa học đã bị thời đại đào thải. Đảng Cộng sản phải làm xiếc đi trên dây , thuận lợi là sức mạnh khổng lồ chiếm đoạt được, và khó khăn là xu thế tất yếu bị đào thải.
Một đảng Cộng sản vận động quần chúng vùng lên đòi Độc lập và một đảng Cộng sản cầm quyền độc tôn là hai chuyện khác hẳn nhau, một trời một vực. Một chủ nghĩa Mác-Lê kích động và liên kết được quần chúng lao khổ, với một chủ nghĩa Mác-Lê nống quyền lực lên và kéo xã hội xuống cũng là hai hiệu quả khác hẳn nhau và đều là sự thật. Cái Đảng mà ông Trần Độ đi theo và cái Đảng mà ông Trần Độ không chịu nổi dẫu vẫn những con người ấy nhưng thực chất là hai Đảng phẩm chất khác hẳn nhau, một trời một vực. Đã theo con đường ấy thì sẽ chuyển hóa như thế, không thể khác. Sự chuyển hóa ấy, thoái hóa ấy gói ghém toàn bộ những điều phức tạp cần nói của lịch sử Việt nam ngày nay.
Kẻ tỷ phú thống trị mới, giai cấp bóc lột mới lại quen miệng ngày xưa, tự xưng mình là giai cấp vô sản cần lao bị trị, làm cho quần chúng thực sự bị trị hôm nay mất chỗ đứng, bị “tước vũ khí” , đành cứ ngậm bồ hòn mà nhận lấy danh hiệu chủ nhân , để rồi quanh năm cứ phải làm đơn xin xỏ để tập đoàn “Đầy tớ” “cùng giai cấp” nới tay cho mình.
Trong cơn khát khao Độc lập, một vài dân tộc ít tiếp xúc với văn minh như dân tộc ta chẳng may đã uống nhầm phải thứ nước giải khát có chất độc, tức là giải khát bằng thuốc độc. Lúc đầu rất hả hê vì đỡ khát thật, nhưng rồi tim gan nhiễm độc không biết chữa cách nào. Dân mất quyền làm chủ thực sự đất nước thì cũng như mất nước. Mất nước vào tay người đồng bang thì gọi là nạn nội xâm.
Công và tội thế nào cũng là từ đó. Lối ra thế nào cũng là từ đó.
2/ Kẻ thù vào bằng đường nào thì lại cho nó ra bằng con đường ấy. Cái mầm quái thai đã bám sau lưng lòng yêu nước mà lẻn vào, đột nhập vào tổ quốc ta, không qua “vọng gác của Trí tuệ” thì nay lại phải dùng lòng yêu nước có Trí tuệ để đẩy nó ra. Đấy là lý do trước hết khiến ta cứ phải lý luận, cứ phải lý giải, cứ phải mổ xẻ nhận thức. Mặc dù đối với nhân loại hôm nay thì cái chủ nghĩa Mác-Lê ấy chẳng còn gì để mổ xẻ, nó tự phơi hết ra rồi. Thế nhưng ở đây ta vẫn phải làm. Nó vào ở đây, bằng cửa ngõ này thì lại phải đẩy nó ra ở đây, bằng cửa ngõ riêng này, không mượn cổng to nhà lớn của ai khác được. Chỉ những gì giành được do sự giác ngộ của chính quần chúng mới là thắng lợi thực sự của quần chúng, của dân tộc.
Một hệ thống nhận thức khi đã vào quần chúng sẽ thành sức mạnh. Chính Mác Lê đã dạy như thế. Các đệ tử (mà trước đây là tín đồ) của Mác Lê biết thế nên họ sợ, họ cấm sự giao lưu những nhận thức tiên tiến (tức là ngược với họ).
Người ta không sợ những kẻ thù đao to búa lớn đâu, chỉ sợ sự đồng lòng, tỉnh táo và lương thiện, trước hết là của chính đồng đội và nhân dân, từ đấy ngoại viện sẽ được quy tụ.
Những chính quyền quân phiệt muốn giữ ghế độc tôn xưa nay bao giờ cũng ẩn nấp vào những bóng tối lờ mờ gọi là “truyền thống riêng của dân tộc”. Bóng tối ấy hốt hoảng khi bị Trí tuệ là ngọn đèn pha chung của nhân loại chiếu vào. Có được cái sản phẩm chung tuyệt vời là Trí tuệ, loài người sẽ cứu vớt những con dân chậm chân và bất hạnh của mình chính bằng thứ vũ khí phổ quát chung kỳ diệu đó, mà hiện nay kết tinh trong những khái niệm Kinh tế tri thức, kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa.
Tất cả những góc tối riêng , dù đang cố sức che chắn, chẳng chóng thì chầy rồi sẽ được nguồn sáng chung ấy chiếu vào, không chạy trốn được!
3/ Đề xuất về biện pháp, về lối ra, Phương Nam coi “Một cuộc Trưng cầu dân ý thực sự dân chủ” là giải pháp có ý nghĩa quyết định để giải quyết tình hình.
Đọc các bài của Phương Nam tôi tán thưởng rất nhiều, nhưng đọc đến giải pháp sau đây thì tôi cười :
“Giữ nguyên bộ máy hiện có ở Việt Nam hiện nay, bao gồm tất cả các cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương xuống địa phương và cơ sở, để tổ chức một cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất.
Câu hỏi cần trả lời là: Việt Nam nên hay không nên theo chế độ đa đảng ? Nếu ai cho rằng nên thì ghi CÓ - không nên thì ghi KHÔNG”
Giải pháp này nếu thực hiện được thì quá hay, nhưng vấn đề là làm sao để thực hiện ? Còn như nêu ra chỉ để thêm một lần chứng tỏ nhà cầm quyền thiếu thiện ý, không chịu thực thi dân chủ, như điều đã được chứng minh nhiều lần, thì ý nghĩa của giải pháp lại không có gì lớn lao cả.
*
Cũng như các nhà dân chủ cao tuổi đã đi trước, thế hệ trẻ Việt nam ngày càng chia sẻ nỗi ưu tư về thực trạng đất nước, càng thấy trách nhiệm của người dân một nước không thể là một kẻ ăn gửi nằm nhờ, thản nhiên vui chơi, hoặc xấu hổ hơn- là một kẻ thừa cơ kiếm chác. Đã có những Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn…, nay lại biết thêm những Phương Nam, Nguyễn H., Tuệ Minh…vân vân… Mỗi người một vẻ, một cách đóng góp. Tất cả vì sự thôi thúc của chính lương tâm, chỉ có lương tâm thúc giục, thúc giục cái đầu phải động não.
Trong cái dòng chảy mất phương hướng (càng nêu cao định hướng càng mất phương hướng), trong cái mê lộ của sự giả dối , thực dụng, ru ngủ và cuồng loạn, họ muốn sống có lý tưởng, tìm một cách sống có lý tưởng. Điểm nổi bật chung của họ là sự dũng cảm, là chấp nhận hy sinh, đặt cuộc sống tinh thần vượt lên trên cuộc sống vật chất thường tình, chấp nhận đánh đổi cuộc sống yên thân và sung túc, lấy một cuộc sống có lý tưởng mà tự mình nhận thức ra, mình được là chính mình, có thế thôi.
Hơn lúc nào hết và hơn tất cả mọi xứ sở, tuổi trẻ Việt nam đang sống hôm nay thấm thía cái ý nghĩa đời người “Tôi tư duy là tôi tồn tại” (Descartes). Không biết tư duy về những điều công ích cho nhân dân mình, cho dân tộc mình thì có lúc cái phần trong sáng tinh túy nhất trong thiên chức làm người của mình sẽ nổi lên chất vấn.
Mong thay, mừng thay đã có nhiều bạn trẻ trong và ngoài nước tìm đến trò chuyện với những Phương Nam, Nguyễn H., Tuệ Minh, … Mong cho hồn thiêng sông núi hãy nhập vào thế hệ trẻ các bạn.
Hà Sĩ Phu (tức Minh Viễn)
Cuối năm 2004
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Hà Sĩ Phu- Chia tay Ý thức hệ, phần 1 : Triết học Mác-Lê, khủng hoảng phương
pháp luận.
----- O -----
Hội nghị Diên Hồng thời đổi mới
Hội nghị lấy ý kiến của các vị nguyên là Uỷ viên Bộ chính
trị, TBT Đảng, Bí thư trung ương Đảng, Phó chủ tịch nước, Phó chủ tịch Quốc
hội. Như vậy, là có khoảng trên 40 vị tham dự (có ông ốm như Hoàng Anh, ông
Lê Đức Anh không đến dự ?.....); ông Đỗ Mười dự một lúc rồi ra về ?
Hội nghị tiến hành trong ngày 6-8/04/2005 do 3 đồng chí chủ trì (Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh); Phan Diễn (Thường trực BBT về văn kiện ĐH X), Trần Đình Hoan
(TB tổ chức, về nhân sự Đại hội).
Nội dung cuộc họp: Yêu cầu các cụ góp ý kiến vào đề cương báo cáo chính trị
để chuẩn bị cho Đại hội X, chủ yếu là phân tích thành tích của 20 năm đổi mới.
Hội nghị sẽ tập hợp ý kến của các cụ để trình lên Hội nghị TW12 (sẽ họp 6/2005).
Nhìn chung hội nghị ít phát biểu ý kiến về đề cương báo cáo chính trị, mà tập
trung góp ý, phân tích, phê phán, chất vấn BCT về một số vấn đề có tính nguyên
tắc, về SH Đảng, về điều hành bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.
Đặc biệt có 17 cụ phát biểu rất thẳng thắn về những bê bối nghiêm trọng mà dư
luận rất xôn xao trong thời gian qua.
Sau đây là lược ghi lại các ý kiến đó, người đọc có đủ cơ sở để suy luận nội
tình Đảng hôm nay mục nát, yếu kém đến nhường nào !???
1. Đồng chí Đỗ Quang Thắng: Báo cáo bao quát 5 năm qua có những thành tích lớn, nhưng từ Đại hội IX đến nay có những vấn đề nghiêm trọng; cái gì cũng Đảng quyết định, độc đoán, quan liêu, BCT, BBT không tập thể xử lý nên không được cán bộ, đảng viên các cấp đồng tình, thái độ nhập nhằng. Xử lý tham nhũng và các vụ việc không nghiêm túc (vụ Năm Cam chẳng hạn, không chỉ là xã hội đen, vụ Lã Thị Kim Oanh, không làm sáng tỏ trách nhiệm, sai lầm của các ông Luân, Hà, Ngọ (Ông Ngọ từng nói: “vướng trên, vướng dưới khó giải quyết”; vụ dầu khí, bê bối quá lớn, tan nát tất cả, Bộ chính trị, Bộ Ngoại thuơng kết luận rồi nhưng không xử trí, Bộ thuỷ sản bê bối, thối nát, thất thoát ghê gớm nhưng không ai chịu trách nhiệm. BCT và BBT phải chịu trách nhiệm về vụ T4. Vụ này rất nghiệm trọng kéo dài trong nhiều năm, qua nhiều Đại hội, để mãi không giải quyết. Rõ ràng việc ra pháp lệnh quốc phòng là sai Điều lệ, trái pháp luật, bất chấp pháp luật, làm mất uy tín của Đảng. Tại sao coi việc bảo vệ Đảng uỷ quân sự TW cao hơn, quan trọng hơn bảo vệ uy tín của BCT. Việc thành lập tổng cục tình báo bộ quốc phòng BCT có biết không? Việc thành lập tổng cục II là một vụ án chính trị rất nghiêm trọng, trái pháp luật. Tại sao tình báo quốc phòng lại lấn át tình báo quốc gia. Đó là một sai lầm rất nghiêm trọng. Bộ chính trị lập ra Ban kiểm tra liên ngành, sao không kết luận. Các vụ, sao không xử lý. Theo như Ban điều tra liên ngành đã báo cáo, tại sao không xử lý mà lại chuyển sang Đảng uỷ quân sự giải quyết. Cuối cùng lại dừng lại, không giải quyết vi phạm nguyên tắc, vượt trên điều lệ, trên pháp luật, gây mất lòng tin. Tôi xin hỏi các đồng chí ủy viên BCT, mỗi đồng chí có ý kiến như thế nào ? ý kiến của cấp dưới cũng một kiểu vi phạm nguyên tắc như vậy, một sự chuyên quyền gây mất đoàn kết từ TW đến cơ sở. Các đồng chí phải giải quyết lại và báo cáo TW về vụ T4, phải xử lý nghiêm túc, phải giải trình ai là người vô tội và phải thông báo cho những người có liên quan.
Về xây dựng Đảng, cần tập trung hơn, thực hiện dân chủ trong Đảng. Có những Nghị quyết đúng, hay mà không làm. Phải làm như thế nào để thực hiện dân chủ trong Đảng.
Hiện nay đối với khá đông động cơ vào Đảng không phải do lý tưởng cách mạng mà vì tiền, vì danh. Nghị quyết TW6 (lần 2) không được thực hiện thật sự. Uỷ ban kiểm tra TW không phát hiện được vụ nào lớn, mà còn có ý lấp liếm, thật là vô tích sự.
2. Đồng chí Mai Chí Thọ: Tôi xin nói mấy điều ta yếu hơn trước. Chiến tranh Irắc, người ta không đồng tình với Mỹ, nhưng ở ta có số sợ Mỹ, ngả theo Mỹ; ta đối xử với ông A-ra-phat chưa đúng. Ông có công đối với Việt Nam, ông coi Việt Nam là quê hương thứ 2, thế mà khi ông chết ta cử đại diện không đúng tầm cỡ tham dự lẽ tang. Trong Đảng chưa thống nhất nhận định địch ta. Phân tích các nước xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc, Triều Tiên) ra làm sao? Đúng là có tình trạng loạn về lý tưởng. ở miền Nam Việt Nam chưa có chủ nghĩa xã hội. Ta không thể tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách giáo điều. Chủ nghĩa xã hội đang bị khủng hoảng, thi nhau tan rã, ảnh huởng đến ta. Vấn đề là phải chống đói nghèo đi đôi với thực hiện công bằng xã hội. Hiện nay tình trạng chênh lệch xã hội rất lớn. Xã hội phát triển nhanh dẫn đến nhiều mâu thuẫn . BCT phải có tinh thần chiến đấu rất cao, phải đấu tranh làm rõ đúng, sai. Đảng ta chưa bao giờ có quyền thế như bây giờ, nhưng cũng chưa bao giờ Đảng suy thoái như bây giờ.. Chưa bao giờ nhân dân ta có đời sống cao như bây giờ nhưng cũng chưa bao giờ đạo đức, văn hoá suy đồi như bây giờ. Dân chủ trong Đảng phải có quy chế, phải giảm bộ máy quá cồng kềnh, kém hiệu lực. Thành lập Tổng cục tình báo quốc phòng là sai. Từ khoá VII Nhà nước đã giao cho Vịnh Bộ Quốc phòng nhiệm vụ quá lớn. Lê Đức Anh, Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh phải chịu trách nhiệm lớn. Như vậy là pháp lệnh về lập Tổng cục II Bộ Quốc phòng là sai. Người ta nói tôi làm việc cho CIA là một điều rất bậy. Đây là một sự vu khống.
3. Đồng chí Võ Nguyên Giáp: Tài liệu chuẩn bị tốt cho Đại hội X, tôi đã suy nghĩ từ lâu: Nổi bật là thiếu dân dân chủ trong Đảng. Tham nhũng đe doạ sự tồn vong của Đảng. Hiện nay lòng dân đối với Đảng kém hơn trước. Phải tập trung vào vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh, lấy lại lòng tin yêu của dân. Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương đúng nhưng không thực hiện nghiêm túc như giáo dục, chống tham nhũng. Điều lệ Đảng phải giữ được tư tưởng Bác Hồ như Đại hội II. Vừa qua việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đạt kết quả thấp. Những anh trình bày là những anh tồi tệ nhất. Phải giải quyết vấn đề dân chủ trong Đảng một cách nghiêm túc. Nhiều thư từ gửi đến BCT, nhưng cứ giữ lại đấy mà không giải quyết. Kể cả tôi cũng có thư gửi tới TW, BCT. Tôi được một số đồng chí TW cho biết là không được biết thư của tôi và cũng không được thông báo giải quyết như thế nào. Vụ T4 là một vụ nghiêm trọng. Anh Võ Văn Kiệt cũng đã nói “Phải 6 tháng suy nghĩ cân nhắc rồi tôi mới ký Nghị định chính phủ, do bị thúc ép tôi thấy đó là khuyết điểm và tôi sẵn sàng chịu kỷ luật”. Biết vấn đề là sai phải giải quyết triệt để, chứ không phải để mặc, không giải quyết. Rõ ràng việc ra pháp lệnh quốc phòng là sai Điều lệ, sai Hiến pháp, bất chấp pháp luật. Nhiều kiến nghị gửi TW không được giải quyết. Việc Nguyễn Chí Vinh tôi đã nói với cả anh Nông Đức Mạnh, nhưng rồi cứ bổ nhiệm, đề bạt. Việc làm như vậy thật là nguy hiểm. Như vậy là phá quân đội, làm mất uy tín của Đảng.
Vụ án của Tổng cục tình báo quốc phòng là vụ án chính trị rất nghiêm trọng, nhưng kỷ luật rất nhẹ. Như vậy là ta hiện nay phá quân đôi. Vừa qua có thư của ba đồng chí lão thành miền Nam gửi thư cho TW, Bộ chính trị và cho tôi. Những ý kiến đó vì ai? Vì cá nhân hay vì tập thể. Phải giải quyết đúng đắn và triệt để vụ T4. Phải giải quyết vấn đề Tổng cục II đưa Bộ Tổng tham mưu. Về xây dựng Đảng, quân đội và việc liên quan đến tôi, tôi đã gửi TW, nhưng cũng không được thông báo. Trong Đảng không có dân chủ. Thời anh Trường Chinh, các vấn đề đều được đưa ra trao đổi và không có vấn đề gì là không được giải quyết. Tình hình lãnh đạo hiện nay là nói mà không làm, phải xoá bỏ ngay tác phong ấy đi. Có người nước ngoài nói người Việt Nam không được giáo dục. Trong Đảng thì thiếu dân chủ, là nguy cơ rồi. Đảng phải có công tác kiểm tra, giám sát.
4. Đồng chí Lê Phước Thọ: Phải làm rõ nguyên nhân của Đảng cầm quyền, thành tích và khuyết điểm, có bóc lột hay không bóc lột. Nông nghiệp phát triển chậm. Tây Nguyên là căn cứ cách mạng mà để nổi loạn là một vụ nghiêm trọng. Trong xây dựng Đảng không làm đúng di chúc của Bác Hồ. Từ Đại hội VII đến nay ta nặng về kinh tế. Đảng không có đổi mới mà cứ theo lối mòn cũ. Tổ chức Đảng không có thay đổi cứ như thời kháng chiến trong khi ta đã có hàng ngàn doanh nghiệp, như thế là tình hình đã khác lắm rồi.
Nhiều tổ chức Đảng hiện nay đã tê liệt sức chiến đấu: Không phát hiện những tiêu cực, tham nhũng, sinh hoạt Đảng rất mờ nhạt. Trong Đảng thiếu dân chủ trong BCT có vấn đề nhà cửa, vợ con. Uy tín Đảng không lúc nào giảm sút như bây giờ (2 uỷ viên TW vào tù). Tham nhũng tràn lan cả ở cấp trên lẫn cấp dưới. Hiện nay đảng viên có người là tỷ phú. Đảng viên về hưu là vốn quý của Đảng. Nhiều lần anh Mạnh nói thế nhưng sao để xảy ra vụ T4 mà không giải quyết.
5. Đồng chí Nguyễn Đức Tâm: động cơ vào Đảng không phải vì lý tưởng mà vì danh lợi, chức quyền. Mua chức, mua quyền, tha hoá Đảng viên là người đương chức. Vào Đảng vì tiền.... vì sao vụ T4 lại dừng lại, không nói nữa. Vụ việc này nay cứ để thế thì sẽ ra sao không biết có tiến hành xây dựng Đảng được không vì những người nắm quyền hiện nay nhìn sự việc không rõ, đánh giá không trúng. Kỷ luật không nghiêm. Bao nhiêu thư từ, cả băng ghi âm gửi tới TW cũng không được xem xét.
6. Đồng chí Hoàng Tùng: Ta không có đổi mới về chính trị. Những ý kiến xây dựng cũng bị cấm kỵ. Sự việc sai không kết luận. Ta đã có bài học Liên Xô; suy thoái từ cán bộ cấp cao, từ người cầm đầu. Sụp đổ là do nội bộ, do bên trong chứ không phải do từ bên ngoài. Trên khi sử dụng người phải tìm người thật trung thực. Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời từ thế kỷ XIX, nay ta bê vào hết tất cả. Trung Quốc làm được nhiều việc vừa xuất phát từ thực tiễn Trung Quốc. Ta làm theo chủ nghĩa Mác-Lênin theo luật lệ kinh thánh.
7. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình: “khóc” vì quá xúc động. Tôi đồng tình với đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng ý một phần với đồng chí Nguyễn Đức Tâm, đồng ý một số ý kiến với anh Mai Chi Thọ và anh Hoàng Tùng. Tôi chưa thoả mãn với ý kiến anh Nguyên Đức Bình. Theo tôi uy tín của Đảng ngày nay thật đáng buồn. Tôi sẽ có bản gửi sau. Phương pháp đổi mới tư duy của ta chưa phù hợp. Báo cáo dài trùng lặp. Tổng kết 20 năm đổi mới phải rút ra kết luận gì và phải giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Phải đổi mới về chính trị. Hệ thống chính trị quá nặng nề mà kém hiệu quả, gây nhiều chuyện bất công như bài đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nêu. Các vấn đề bức xúc phải giải quyết tại Đại hội X.
8. Đồng chí Chu Huy Mân: Ta nói chống tham nhũng "quyết liệt" nhưng có làm gì đâu. Trước nay Đảng nói chúng tôi đồng tình, nghe ngay và đồng lòng. Bây giờ thì đồng tình ít lắm. Vụ T4, tôi và anh Văn, anh Nam Khánh đã có thư gửi BCT, nhưng BCT bảo đã giải quyết rồi. Nhưng đã giải quyết thoả đáng đâu. Cần giải quyết vấn đề này trước Đại hội X. Về Tổng cục Tình báo Quốc phòng, chúng tôi góp ý kiến xây dựng thì lại bảo chúng tôi là phần tử cấp tiến! Đồng chí Chu Huy Mãn chỉ vào đồng chí Trần Đinh Hoan và nói: anh làm tổ chức mà đề bạt Nguyễn Chí Vịnh trong khi có biết bao đơn tố cáo thế mà anh cứ làm. Nếu anh thấy không làm được theo di chúc Bác Hồ thì thưa với Bác cháu xin thôi để các đồng chí khác làm.
9. Đồng chí Võ Văn Kiệt: Việc xây dựng Đảng thì dàn trải, không tập trung, không nêu được rõ vấn đề quyết định nhất. Vừa qua làm "quyết liệt" vấn đề luân chuyển cán bộ, làm ào ào nên có nhiều sai sót rất nghiêm trọng. Có những vấn đề quy định không đúng. Đảng viên làm những việc như đứng ngoài Đảng. Đảng viên làm nhiều chuyện đứng trên Đảng.
Theo tôi, nên bỏ 19 điều quy định Đảng viên không được làm, vì nó không đúng Điều lệ Đảng. Đã có những trường hợp thực hiện sai các nguyên tắc Đảng như việc gì Thường vụ BCT, BBT cũng giải quyết không dựa vào tập thể, không dựa vào cấp uỷ để giải quyết. Các đồng chí nói thống nhất đoàn kết, nhưng có thế đâu! Mà nể nhau như vụ Năm Cam, xử chưa nghiêm, không triệt để; vụ Lã Thị Kim Oanh cũng không đúng người, đúng tội (Lê Lai liều mình cứu Chúa). Sân Mỹ Đình kiểm tra nửa vời không kết luận, không xử trí nghiêm. Việc ăn cắp sắt thép trong ngành xây dựng không làm triệt để tai nạn giao thông nghiêm trọng, nhưng các quan chức có liên quan, không ai làm sao cả.
10. Đồng chí Đông Sĩ Nguyên: Vụ T4 là nghiêm trọng cần giải quyết. phải giải quyết trước Đại hội X
11. Đồng chí Nguyễn Văn Trân: Tất cả sự thật về các vụ việc vừa qua không được báo cáo trung thực trước TW. Cần giải quyết vụ T4, vụ Sáu Sứ trước Đại hội X. Có một số nội dung thuộc văn kiện Đại hội X có thể đưa ra hội thảo (ví dụ ở câu lạc bộ Thăng Long, để các cụ hiến kế, bàn bạc).
12. Đồng chí Lê Khả Phiêu: Vụ T4 là sai lầm, trong đó vu cả tôi. Tôi đã bàn giao vụ này rồi. Nhưng vừa qua giải quyết các vụ việc về T4 các đồng chí không hỏi ý kiến tôi. Đề nghị giải quyết triệt để vụ này.
13. Đồng chí Đoàn Duy Thành (chưa ghi được)
Ngoài 13 đồng chí kể trên, còn có 4 vị (Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Đức Bình, Đặng Quân Thuỵ và Lê Xuân Tùng) đã phát biểu, những nội dung chẳng có gì đáng quan tâm, có thể nói là vô tích sự !.)
Sau khi nghe lời các cụ phát biểu, ông Mạnh không kết luận mà lại đem Nghị quyết của TW về vụ T4 đã giải quyết ra đọc Hội nghị nhao nhao nhưng vì hội nghị kết thúc rồi nên không ai được phát biểu gì thêm !???
Đại tá - Vi Hùng - Bộ Quốc phòng
--------------------------------------------------------------------------------
Sau cuộc họp này, nghe nói bà Nguyễn Thị Bình (không biết ai xui) đã đến gặp
anh Chu Huy Mân và nói: vừa qua anh Mân phát biểu ý kiến đứng sau Nam Khánh.
Anh Mân trả lời tôi đồng tình với đồng chí Nam Khánh, chứ không phải sau hay
trước gì cả. Bà Bình đề nghị anh Mân nói với anh Văn đừng nhắc đến vụ Sáu Sứ
nữa, vì có “dính” đến người tôi “quen” ở Hội nghị Paris nhưng nay đã chết rồi,
thôi đứng bới lại nữa làm gì !???.
----- O -----
Trừ Đi
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu ? Một nửa.
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết đi rồi !
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười.
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết,
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể.
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi ?
Không phải !
Nhưng cũng chính là tôi - Người có lỗi !
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình !
Chế Lan Viên
(Rút từ Di cảo)
Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam