Chế Ðộ Phát Xít
Tác giả: Tiến Sĩ Jeliu Jeliev
Dịch giả: Phạm Văn Viêm
(tiếp theo)
1. Nhà nước độc tài có thể bị lật đổ "từ
dưới" không?
Theo cấu trúc, nhà nước độc tài là
hệ thống toàn diện và hoàn thiện nhất để đàn áp các cá nhân và nhân dân. Nó
không chỉ đàn áp, khủng bố mà còn lôi kéo cả dân tộc tham gia vào những tội ác
chống lại chính dân tộc đó; không chỉ hành dộng trên danh nghĩa dân tộc - điều
đó thì nước nào cũng làm- mà là hành động thông qua dân tộc. Dân tộc trở thành
vũ khí của nhà nước chống lại chính dân tộc đó và những đại diện xứng đáng
nhất- những người bảo vệ quyền dân chủ, quyền tự do công dân và tự do chính trị
.
Thâu tóm tổng thể nhân dân vào các
tổ chức quốc gia, nhà nước độc tài dễ dàng khiến nhân dân bằng chính tay mình
hủy diệt những người chống lại nền chuyên chính trong hàng ngũ của mình. Còn sự
thống nhất nào sâu sắc hơn giữa nhân dân và nhà nước, khi nhân dân bảo vệ nhà
nước và tiêu diệt những kẻ thù của nó.
Thậm chí, khủng bố cũng không chỉ
giới hạn trong vấn đề thể chất (nhốt trong hầm ngục của Zetapo và lao động khổ
sai trong trại tập trung), mà còn có cả khủng bố tư tưởng một cách hệ thống
thông qua đài phát thanh, phim ảnh, báo chí, tổ chức quần chúng...
Nếu như SS và Zetapo tiêu diệt
những người mang tư tưởng dân chủ còn sót lại từ thời nền Cộng Hòa Vaimar, thì
tuyên truyền và các tổ chức quần chúng nhổ tận gốc cả những mầm mống tự do suy
nghĩ, đồng thời nhồi nhét giáo lý của hệ tư tưởng quốc gia.
Trong hoàn cảnh như thế không tồn
tại những điều kiện và con người cho một cuộc đấu tranh quần chúng chống lại
nền chuyên chính phát xít. Không thể thành lập được một tổ chức quần chúng với
ý đồ khởi nghĩa vũ trang nhằm lật đổ nhà nước phát xít, vì do thám tổng thể sẽ
nhanh chóng phát hiện ra mạng lưới bí mật và lực lượng khủng bố sẽ hủy diệt nó.
Do đó cho đến tận giờ phút cuối, tại nước Ðức - Hitler không hề có được một tổ
chức bí mật hoàn chỉnh để có thể khởi nghĩa vũ trang.
Ðiều lớn nhất mà những người Ðức
chống phát xít đã đạt được là thành lập những nhóm bí mật trong các nhà máy,
hoàn toàn cách ly lẫn nhau và hoạt động tuyệt đối bí mật. Cá biệt chỉ có một
vài nhóm liên kết được với nhau. Các nhóm này xuất hiện trong giai đoạn khủng
hoảng của phát xít Ðức, khi chiến tranh đã đẩy đất nước này đến gần thảm họa
không tránh khỏi (nhóm của Xefcov- Iacob- Bectlain, nhóm của Teo Noibauer, nhóm
của Georgi Suman- tất cả đều đã bị Zetapo phát hiện và hủy diệt trước khi kết
thúc năm 1944).
Nhìn chung, số lượng người tham
gia những tổ chức bí mật chống chế độ quốc xã không vượt quá "vài
nghìn" và với một nước như Ðức, con số này quả là khiêm tốn. Tất nhiên,
nói như thế không phải là có ý làm giảm uy tín của Ðảng cộng sản Ðức và chủ
nghĩa anh hùng của những con người dũng cảm đã tiến hành cuộc đấu tranh trong
chín tầng địa ngục. Nhưng điều đó chỉ ra rằng, không thể tổ chức một cuộc đấu
tranh vũ trang để lật đổ chế độ độc tài.
Thật ngây thơ nếu nghĩ rằng, tại
nước Ðức- Hitler không có nhiều người căm thù và sẵn sàng đấu tranh lật đổ chế
độ . Nhưng những người này đã không hành động, bởi vì họ nhận thức được sự thất
bại tất yếu trong cuộc đấu tranh này. Trong điều kiện không có tính công khai,
thậm chí cả chủ nghĩa anh hùng cũng trở nên vô nghĩa, vì không thể trở thành
tấm gương hy sinh hay một hình thức tuyên truyền cho những tư tưởng chống lại
nhà nước.
Những ai bị rơi vào nanh vuốt của
Zetapo sẽ mãi mãi là tù nhân của nó. Sẽ không còn ai thông báo hay nhắc nhở một
tí gì về những người này. Họ sẽ bị chết dần mòn sau những bức tường dày dưới
lòng đất. Iamar Saht, một trong những người sáng lập nhà nước quốc xã, vào năm
cuối cùng của chế độ này đã bị rơi vào trại tập trung cải huấn và sống sót một
cách ngẫu nhiên, tại tòa án Niurnberg đã nói như sau: "Những khổ đau mà
con người phải chịu đựng trong cuộc đấu tranh chống khủng bố sẽ có lợi ích gì,
nếu nhân dân không có khả năng biết tới và không thể trở thành tấm gương cho
những người khác noi theo." (84-590)
Ðây có lẽ là lý do tâm lý cơ bản
cho việc không tồn tại cuộc đấu tranh quần chúng chống nhà nước quốc xã. Ðiều
này có thể giải thích một hiện tượng, mà mới thoạt nhìn tưởng như khó hiểu:
quần chúng không hài lòng, có nhiều người căm ghét chế độ trong bối cảnh tan rã
của nó, thế nhưng vẫn không tồn tại lực lượng chống đối hay một cuộc đấu tranh
thực sự .
Tóm lại, nhà nước phát xít khó có
thể bị lật đổ từ dưới bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang do các lực lượng cánh tả tổ
chức và lãnh đạo. Trước hết vì chắc gì lực lượng này đã được tổ chức và vũ
trang đầy đủ . Với bộ máy khủng bố khổng lồ, do thám và tuyên truyền tổng thể,
cùng việc thâu tóm triệt để nhân dân vào các tổ chức quốc gia, nhà nước phát
xít có thể hủy diệt mọi ý đồ chống đối từ lúc còn trứng nước, trước khi các lực
lượng này đạt được tính quần chúng rộng rãi và đe dọa được nó. Nếu trong một
nhà nước phát xít có thể tổ chức lực lượng quần chúng chống đối, chẳng hạn như
phong trào du kích, thì điều này chỉ có nghĩa: nhà nước đó đã không còn là nhà
nước phát xít, mà chỉ có một vài cơ cấu nào đó được xây dựng như chế độ phát
xít.
Trong nền chuyên chính phát xít,
công tác chống đối bí mật mang một mâu thuẫn không thể vượt qua: càng giữ bí
mật bao nhiêu thì càng khó bị phát hiện bấy nhiêu. Nhưng như thế nó lại xa rời
với mục đích chính; chiếm được lòng tin của quần chúng để có thể lật đổ chế độ
. Mặt khác, càng mang tính quần chúng rộng rãi bao nhiêu càng dễ bị phát hiện
bấy nhiêu.
2. Ba lực lượng vũ trang của nhà nước phát xít.
Nhà nước độc tài có ba lực lượng vũ
trang, mà trong những điều kiện nhất định có thể tách rời và hoạt động độc lập:
đảng phát xít, cảnh sát và quân đội. Bình thường, các lực lượng này nằm trong
mối quan hệ phụ thuộc tương hỗ: cảnh sát (bí mật và công khai) và quân đội phải
phục tùng đảng phát xít. Mặt khác, cảnh sát và quân đội là hai chỗ dựa căn bản
của đảng phát xít trong nhà nước này. Cảnh sát bao gồm những phần tử trung
thành và ràng buộc với chế độ, là bộ phận được vũ trang của đảng phát xít và
được xem là chỗ dựa vững chắc nhất.
Nhưng quân đội thì không được tin
tưởng như thế, vì theo luật quân sự, mọi công dân đến tuổi đời nhất định đều
phải xung lính, không phụ thuộc vào quan điểm của họ . Hơn thế nữa, quân đội là
mối hiểm họa cho nhà nước trong những hoàn cảnh khó khăn ( chiến tranh, khủng
hoảng) vì quân đội có quân số khổng lồ lại được trang bị những vũ khí hiện đại
(xe tăng, xe bọc thép, máy bay), nếu xảy ra đảo chính, cảnh sát không bao giờ
có thể chống trả được trước sức tấn công của nó.
Ðiều này dã bắt buộc đảng phát xít
phải đặt quân đội dưới sự kiểm soát vô cùng nghiêm ngặt: huấn luyện quân đội
chính quy một cách có hệ thống theo tinh thần tư tưởng của đảng, đào tạo đội
ngũ cán bộ sĩ quan trung thành với đảng, bổ nhiệm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng - vô
bản sắc và trung thành tuyệt đối với giới lãnh đạo đảng, tổ chức mạng lưới do
thám để thăm dò tinh thần các sĩ quan.
Sự kiện ngày 30-6-1934, "Ðêm
Của Những Lưỡi Gươm Dài", là một minh chứng rằng quân đội là mối hiểm họa
đáng sợ nhất cho đảng phát xít. Cuộc đảo chính ngày 20-7-1944 càng khẳng định
thêm kết luận này. Cuộc đảo chính này không thành công chỉ vì cách tư duy hạn
chế của các tướng lĩnh Ðức: không muốn phản bội lời thề của mình trước Thống
Lĩnh, hoặc vẫn bị ràng buộc bởi những nguyên tắc tư tưởng mà chủ nghĩa quốc xã
đã nhồi nhét
cho họ .
Nhưng dù sao, điều này vẫn chỉ ra
một sự thật lịch sử là: chỉ có quân đội mới có thể chống lại và lật đổ đảng
phát xít.
Cuộc đảo chính quân sự ở Ytalia
vào tháng 7-1943 là dẫn chứng thuyết phục hơn.
"Một cuộc họp phát xít lớn
được triệu tập vào ngày 24-7-1943 và sau 10 giờ tranh luận liên tục, với kết
quả 19 phiếu thuận và 7 phiếu chống để đi đến kết luận: buộc Muxolini phải yêu
cầu nhà vua chấp thuận những quyết định của Bộ Chỉ Huy Quân Sự Tối Cao..."
(45-736)
Hai ngày sau, 26-7-1943, bị cách
ly khỏi những người ủng hộ mình, trong đó có con rễ là bá tước Trao, Muxolini
đã phải xin từ chức. Và trước đó, ngày 25-7, Muxolini đã bị bắt. Như vậy là
cuộc đảo chính đã được thực hiện được. Chính phủ quân sự mới, đứng đầu là
nguyên soái Badolio, giữ bí mật tuyệt đối việc bắt Muxolini và giam ông ta ở
đảo Ponxa. Chính phủ không tấn công cảnh sát và đảng phát xít, chỉ vì bối cảnh
đặc biệt của nước này: lúc bấy giờ tại Ytalia có mặt nhiều sư đoàn quân Ðức
(mùa hè năm 1943 có 7 sư đoàn quân Ðức đóng ở Ytalia) (113-195), các sư đoàn
Ðức có thể dễ dàng lật đổ chính phủ mới và phục hồi Muxolini để giữ Ytalia như
một nước đồng minh của mình. Mặt khác do sự tồn tại của các sư đoàn Ðức, một
cuộc tấn công như thế có thể gây ra cuộc khởi nghĩa phát xít, vì bộ máy đảng và
nhà nước vẫn trung thành với Muxolini.
Trong hoàn cảnh đó, chính phủ
Badolio chỉ có thể ra thông cáo, trong đó tuyên bố vẫn đứng về phía Ðức trong
cuộc chiến tranh; đồng thời giữ bí mật nơi giam giữ Muxolini để quân Ðức không
thể phát hiện ra, cho đến khi quân đồng minh tạo điều kiện cắt đứt quan hệ với
Ðức.
Ðảo chính quân sự trong những điều
kiện của nhà nước độc tài, là bước chuyển tiếp từ chuyên chính phát xít đến
chuyên chính quân sự, đặc trưng bằng việc kém ổn định và khủng bố tổng thể
(nhưng không dã man!) . Một cuộc đảo chính quân sự không thể là bước chuyển
tiếp thẳng từ chế độ phát xít đến nền dân chủ tự do vì những mâu thuẫn chính
trị khổng lồ mà nó giải phóng. Những mâu thuẫn này có thể biến thành một cuộc
khởi nghĩa chống phát xít hay phục hồi phát xít, và sẽ dễ dàng dẫn đến một cuộc
nội chiến. Trong mọi trường hợp, những người đảo chính sẽ đánh mất quyền kiểm
soát chính trị và sẽ trở thành nạn nhân cho những lực lượng mà họ vừa giải
phóng.
Do đó, một cuộc đảo chính quân sự
thông thường phải chuyển thành chuyên chính quân sự, để có thể giữ được chính
quyền mới và để khỏi xảy ra cuộc khởi nghĩa chống hay phục hồi phát xít.
Vì vậy, sau cuộc đảo chính, nguyên
soái Badolio tuyên bố giới nghiêm, cấm các đảng phái và những tổ chức dân chủ
chống phát xít hoạt động, vỗ về các tầng lớp công nhân.
Ðồng thời do sự có mặt của các sư
đoàn Ðức, chính phủ không thể giải tán đảng và công an phát xít, mà chỉ cố gắng
đặt chúng dưới quyền kiểm soát của mình, bằng cách sát nhập công an vào với
quân đội và phong cấp sĩ quan cho những cán bộ lãnh đạo đảng phát xít.
Mặc dù vậy, trong 45 ngày cầm
quyền, từ 29.7 đến 5.8.1943, Badolio đã thi hành hàng loạt chính sách nhằm phá
vỡ cấu trúc của chế độ phát xít: ban hành các sắc lệnh giải tán đảng phát xít,
giải tán Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao, xóa bỏ Tòa Án Ðặc Biệt, giải tán hệ thống
nghiệp đoàn... (118-327)
3. Sự khác nhau giữa nhà nước phát xít và nền chuyên
chính quân sự .
Ðể làm sáng tỏ bản chất nhà nước
phát xít như một chế độ độc tài, chúng ta cần so sánh nó với nền chuyên chính
quân sự .
Trên thực tế, hai khái niệm này
thường bị đồng nhất và do đó, các nền chuyên chính quân sự cổ đại đều bi xem là
chuyên chính phát xít hay chế độ phát xít. Người ta ngấm ngầm công nhận rằng,
dấu hiệu đặc biệt của nhà nước phát xít chỉ là những cuộc đàn áp, khủng bố
chính trị trắng trợn, cấm biểu tình, hội họp, hủy diệt quyền tự do công dân.
Thậm chí đôi khi người ta xem dấu
hiệu đặc biệt của nhà nước phát xít là bản chất chống cộng của nó.
Thực tế thì giữ nhà nước phát xít
và nền chuyên chính quân sự có nhiều điểm khác nhau về cơ bản:
1/ Chế độ phát xít thiết lập cơ
cấu một đảng quyền, đảm bảo sự thống trị chính trị toàn diện của đảng mình;
trong khi đó chuyên chính quân sự là chế độ không đảng phái, nó giải tán tất cả
mọi đảng phái không từ đảng nào, "đảng" duy nhất có quyền tồn tại là
quân đội.
2/ Chế độ phát xít không chỉ xử
dụng khủng bố thể chất trắng trợn, mà còn chú trọng đến việc củng cố quần chúng
nhân dân (đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản), thâu tóm nhân dân vào những tổ
chức quốc gia khác nhau. Còn nền chuyên chính quân sự chỉ dựa vào khủng bố
trắng, hoàn toàn không xây dựng được cơ sở chính trị và xã hội.
3/ Chế độ phát xít thành lập các
tổ chức quần chúng, thâu tóm tổng thể nhân dân, trong khi chuyên chính quân sự
cấm và theo dõi mọi tổ chức, hiệp hội trong ý nghĩa tổng quát, quân đội là tổ
chức quần chúng duy nhất được phép tồn tại.
4/ Chế độ phát xít đồng hóa thành
công đời sống tinh thần xã hội, bắt xã hội phục tùng hệ tư tưởng phát xít,
trong khi chuyên chính quân sự chỉ biết khủng bố.
5/ Chế độ phát xít xây dựng nhà
nước độc tài, thông qua đó mà kiểm soát toàn xã hội, trong khi nền chuyên chính
quân sự không phải bao giờ cũng xây dựng được nhà nước uy tín- điều mà các nền
chuyên chính quân sự thông thường đều mơ ước.
Tất cả những điểm khác nhau này
làm cho nền chuyên chính quân sự không ổn định. Chỉ dựa vào khủng bố, chuyên
chính quân sự dễ dàng bị phá vỡ, một khi điểm tựa duy nhất này bị mài mòn. Khác
với chuyên chính quân sự , chế độ phát xít cơ động hơn nhiều, tùy thuộc vào
từng trường hợp mà sử dụng khủng bố hay công tác tư tưởng, tuyên truyền.
Do đó chuyên chính quân sự đứng
trước hai con đường: hoặc quay lại với những nguyên tắc tư sản truyền thống,
hoặc chuyển sang chuyên chính phát xít với cơ cấu độc tài tương ứng. Nếu tồn
tại lâu hơn thời gian mà bản chất chính trị của nó cho phép, chuyên chính quân
sự thường bị lật đổ bằng một cuộc đảo chính quân sự mới.
Về mặt ổn định, chuyên chính phát
xít bền vững hơn nhiều. Với việc thiết lập chỗ dựa trong xã hội, nó loại bỏ
được mọi khả năng đảo chính quân sự trong những điều kiện bình thường. Chỉ khi
có khủng hoảng chính trị sâu sắc, do thất bại trong chiến tranh, quân đội mới
có thể làm đảo chính, cướp chính quyền từ tay đảng phát xít. Thí dụ, ai có thể
dám làm đảo chính quân sự ở Ðức vào những năm 1937 hay 1938? Bản thân nhân dân
sẽ đứng lên bảo vệ cho Hitler và chế độ quốc xã.
4. Sự khác nhau giữa nhà nước phát
xít và nhà nước uy tín.
Trong văn học, các khái niệm
"nhà nước uy tín" và "nhà nước phát xít" thường bị sử dụng
lẫn lộn hay thay thế nhau như những từ đồng nghĩa, đặc biệt là các năm 30 và 40.
Khi nghiên cứu phát xít Ytalia, thậm chí có tác giả đã sử dụng cùng một lúc cả
hai lhái niệm này.
Thực chất, việc sử dụng thuật ngữ
như vậy là không chính xác. Ðiều này xuất phát từ những phân tích bề mặt, nhầm
lẫn hình thức với nội dung, còn nội dung thì bị che khuất. Mặt khác, sai sót
này không phải ngẫu nhiên; nó có cơ sở khách quan trong sự tương ứng thực sự
giữa nhà nước độc tài và nhà nước uy tín.
Tất cả mọi nhà nước phát xít đều
là nhà nước uy tín, nhưng không phải mọi nhà nước uy tín đều độc tài. Uy tín là
nguyên tắc cơ bản cấp quan liêu: Bởi vậy, mọi nhà nước quan liêu đều ít nhiều
là nhà nước uy tín. Thí dụ, nền quân chủ hay chuyên chính quân sự là những nhà
nước uy tín, nhưng không phải là những nhà nước độc tài.
Sự khác nhau giữa nhà nước phát
xít và nhà nước uy tín là, nhà nước phát xít phân chuyển nguyên tắc của mình
trên toàn bộ đời sống xã hội: không chỉ trên bộ máy nhà nước mà còn cả trong
đảng, các tổ chức quần chúng, trong văn học, nghệ thuật, khoa học... Trong nhà
nước phát xít không còn tồn tại quyền tự chủ của xã hội. Tất cả các công dân
đều là những người lính của nhà nước, bắt buộc phải thi hành và phục tùng mọi
mệnh lệnh quốc gia. Những ai không tuân theo nghĩa vụ này sẽ bị xem là phản
bội, lừa dối và xứng đáng để nhà nước chà đạp và tiêu diệt.
Nhà nước phát xít là trại lính,
trong đó không có các thường dân, không có những quyền lợi cá nhân độc lập
trước nhà nước. Ðối với nhà nước này, xã hội là hình thái tiếp diễn và là bộ
mặt của nhà nước, phục tùng toàn bộ vào nền chuyên chính.
Từ đây dẫn đến những tham vọng của
nhà nước độc tài nhằm đồng nhất bản thân mình với dân tộc (không đơn giản là
với "quyền lợi dân tộc" - điều đó thì nhà nước nào cũng làm như thế -
mà là với chính bản thân của dân tộc đó!), với xã hội, quê hương... Và trên
thực tế nhà nước này đã lợi dụng danh nghĩa dân tộc, quê hương, xã hội... để
hủy diệt mọi biểu hiện chống đối nhà nước như "chống lại nhân dân",
"chống lại xã hội"...
Và cũng vì lý do này, những kẻ mị
dân thường gắn cái mác "nhân dân" cho các công sở hành chính. Thí dụ,
ở Ðức có Tự Vệ Nhân Dân, Những Công Dân Trẻ, Tòa Án Nhân Dân...
Như vậy, nhà nước phát xít có thể
xem như hình thái cao nhất của nhà nước uy tín, như nhà nước uy tín hoàn thiện,
thi hành một cách tổng thể nguyên tắc của mình trên mọi lĩnh vực xã hội và đời
sống cá nhân. Khác với nhà nước phát xít, nhà nước uy tín thông thường chỉ phân
chuyển nguyên tắc của mình trong bộ máy nhà nước (viên chức, quân đội, cảnh
sát). Ngoài những lĩnh vực này, nguyên tắc đó không còn giá trị . Vì lý do này,
trong nhà nước uy tín vẫn còn tồn tại sự chống đối công khai của xã hội đối với
nhà nước. Ðiều này không có nghĩa rằng, nhà nước uy tín không muốn kiểm soát xã
hội công dân và phân chuyển trên đó những nguyên tắc của mình. Ngược lại, nhà
nước uy tín cũng có tham vọng về một nền chuyên chính tổng thể, nhưng vì những
lý do khách quan, nó không bao giờ đạt được điều đó. Bởi vì nhà nước này không
có những tổ chức quần chúng đặc thù như nhà nước phát xít, để thông qua đó mà
nắm giữ xã hội và mọi cá nhân trong tay mình.
Thí dụ điển hình về nhà nước uy
tín là nền quân chủ Pruxia trong nửa đầu thế kỷ XIX. Pruxia kiểm soát xã hội
công dân và tư tưởng của họ, đồng thời tự xem mình là người thể hiện và chịu
trách nhiệm cho hệ tư tưởng của nhân dân _ Ðạo Thiên Chúa. Nhưng trên thực tế
nó không có những tổ chức quần chúng để thực hiện việc kiểm soát này, mà chỉ sử
dụng cảnh sát như một cơ quan khủng bố. Và vì không có khả năng kiểm soát tổng
thể, nên ngay cả một nhà nước uy tín như Pruxia vẫn tồn tại những hiện tượng
chống đối, đi ngược lại những lợi ích của nhà nước.
Trong thời gian này Ðavid Straux
đã xuất bản cuốn sách Cuộc Ðời Jiêsu lật đổ mọi huyền thoại về Ðức Chúa. Việc
này đã gây nên những giông tố công phẫn của nhà thờ trong nước, cũng như thế
giới "học vấn" bên ngoài, và mặc dù vậy vẫn không có gì nguy hiểm xảy
ra cho chính tác giả . Tác phẩm vẫn được xuất bản và phát hành.
Vào năm 1841, L.Foierbah còn viết
một cuốn sách còn tà giáo hơn nữa Sự Thật Về Ðạo Thiên Chúa. Tác phẩm này đã
tẩy chay không những riêng đạo Thiên Chúa mà còn cả mọi thứ tôn giáo khác, và
trên cơ sở tư liệu lịch sử khổng lồ, nó chứng minh rằng thế giới siêu hình
không có gì khác hơn là ảo ảnh tưởng tượng hay hình chiếu của thực thể con
người lên bầu trời. Tác phẩm này có thể xem như một cuộc đảo chính tư duy của
thế hệ trẻ ở Ðức; vì nó mà Foierbah không được nhận vị trí giảng dạy trong
trường tổng hợp Berlin và theo lời Angel, đành phải mài mòn cuộc đời mình nơi
tỉnh lẻ . Nhưng nhà nước cũng chỉ có thể trừng phạt đến thế. Tác phẩm của
Foierbah vẫn được phát hành và manh lại vinh quang cho tác giả tại nước Ðức
cũng như trên toàn thế giới.
Trong thời gian này ở Ðức còn xuất
hiện nhiều biểu hiện của tự do tư tưởng và tà giáo khác trong các lĩnh vực
triết học, văn học... và nền quân chủ Pruxia đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt.
Như một nhà nước uy tín, nó không có những công cụ cần thiết để chống lại hoặc
ngăn chận triệt để những biểu hiện này.
Những sự việc tương tự liệu có thể
xảy ra ở Ðức một thế kỷ sau, khi nó đã là nhà nước độc tài phát xít? Liệu có
thể xuất bản những tác phẩm chống lại tư tưởng quốc gia hiện hành, mà các tác
giả vẫn được tự do và vinh quang của họ như những chiến sĩ tự do vẫn được tỏa
sáng trong nước và trên thế giới?
Câu trả lời hiển nhiên là không thể
. Trước hết vì trong nước Ðức - Hitler không có người trí thức nào lại viết và
xuất bản những tác phẩm như thế. Họ biết trước là sẽ phải trả giá của cuộc đời
mình cho hành động đó và đây là sự hy sinh vô nghĩa.
Nhưng thậm chí giả sử vẫn tồn tại
những tác giả như vậy, thì cũng không có nhà xuất bản nào dám đánh đố cuộc đời
mình vì một quyển sách. Là thành viên của hội các nhà xuất bản quốc gia, họ sẽ
bảo với Zetapo để cứu mạng mình, hơn là đưa lưng chịu hậu quả việc xuất bản tác
phẩm như thế, điều mà rõ ràng sẽ dẫn họ đến ngục tù hay trại tập trung cải
huấn.
5. Nhà nước phát xít bắt buộc thế giới cũng phải độc
tài hóa.
So với nền dân chủ tư sản, nhà
nước độc tài có rất nhiều ưu thế quân sự . Do bản chất phản động, nó luôn luôn
là mối đe dọa cho các nước láng giềng. Trong vài giờ, nhà nước độc tài có thể
tập trung mọi lực lượng quân sự và tiến hành tấn công. Với cơ cấu một đảng
quyền, với những hạn chế tổng thể đối với xã hội công dân và tuyên truyền tư
tưởng độc đoán nó là nhà nước quân sự hay bán quân sự, luôn luôn sẵn sàng cho
chiến tranh.
Nhà nước độc tài có thể lợi dụng
những mặt yếu của nền dân chủ, trong khi nền dân chủ không thể có khả năng đó:
1/ Nền dân chủ tự do cho phép mọi
đảng phái chính trị tồn tại, kể cả đảng phát xít - đảng đối lập với cơ chế đa
đảng. Nhưng sự có mặt một đảng phát xít trong nhà nước dân chủ tự do luôn luôn
là bè lũ gián điệp của nhà nước phát xít ("Ðội Quân Thứ Năm"). Ðối
với Ðức, "Ðội Quân Thứ Năm" ở Áo là bọn quốc xã Áo, ở Tiệp - đảng
thân Ðức của Heinlain, ở Bỉ - bọn quốc xã Bỉ, ở Anh - đảng phát xít Moxli...
Ngày nay chúng ta đã biết vai trò của đảng này trước khi chuẩn bị chiến tranh
thế giới thứ hai và trong cuộc chiến này. Chúng đã mở đường cho quân đội Ðức,
cộng tác với chính quyền đô hộ ...
2/ Việc tồn tại các quyền tự do
công dân và tự do chính trị tại nền dân chủ tư sản, dù có thể chỉ là hình thức,
vẫn tạo điều kiện cho nhà nước độc tài mở rộng tuyên truyền có lợi cho nó:
thông qua đảng phát xít tương ứng trong nước này, mua chuộc một bộ phận diễn
đàn của nước láng giềng... Theo nhân chứng của Curt Rix, đến năm 1937 Gobelx
chịu trách nhiệm kiểm soát khoảng 330 tờ báo phát ra nước ngoài bằng tiếng Ðức.
(102-161)
Ngược lại, nền dân chủ tự do hoàn
toàn không có khả năng thực hiện tuyên truyền tại nhà nước phát xít. Kiểm duyệt
phát xít tổng thể không cho phép nhập những ấn phẩm văn hóa mang tư tưởng ngoại
lai, không cho phép các đảng dân chủ tồn tại, không cho phép tiếp xúc tự do
giữa các công dân. Nó gây nhiễu sóng các đài phát thanh của những nước dân chủ
và trong thời gian chiến tranh còn cố định các sóng radio để chỉ nghe được đài
dân tộc.
3/ Trong lĩnh vực kinh tế, nhà
nước phát xít có nhiều công cụ hữu hiệu. Trên thực tế, nó có thể liên tục giảm
mức sống bằng cách tăng thuế, bổ sung nhiều loại thuế mới, tăng giá hàng và
giảm giá trị thực của đồng lương. Nói cách khác, nhà nước phát xít có thể dễ
dàng thi hành những chính sách mà không một chính phủ dân chủ nào dám mong ước.
Ðồng thời nhà nước phát xít chi
những khoản kinh phí khổng lồ cho vũ trang quân sự, xây dựng những công trình
quân sự lớn, mở rộng tuyên truyền và do thám.
Nếu một chính phủ trong nhà nước
đa đảng tăng giá hàng vì yêu cầu bức thiết, nó sẽ bị phản đối và bị bắt buộc từ
chức. Ðối với nhà nước phát xít, điều đó hoàn toàn không bao giờ xảy ra: chính
phủ có thể cùng một lúc giảm mức sống của nhân dân về nhiều mặt hàng mà không
sợ phải chịu những hậu quả xấu. Nhân dân luôn luôn "ủng hộ" các chính
sách của chính phủ, vì không có cách nào để thể hiện sự bất bình của mình.
4/ Sau cùng, trên quan điểm quân
sự tuần túy, nhà nước phát xít cũng có rất nhiều ưu thế lợi hại. Nó có thể giữ
bí mật triệt để những ý đồ chuẩn bị chiến tranh. Ðiều này có thể thực hiện dễ
đàng, do không có diễn đàn đối lập và quyền tự do ngôn luận.
Với những "ưu thế" này,
nhà nước phát xít luôn luôn là mối đe dọa cho các nước láng giềng - mối đe dọa
rất dễ chuyển thành những hành động ăn cướp. Ðiều này đặc biệt nguy hiểm cho
các nước dân chủ, nhất là trong những giai đoạn khủng hoảng hay rối loạn nội
bộ, những việc mà bọn phát xít không chỉ lợi dụng mà thường còn khơi mào.
Bởi vậy, để có thể hạn chế được
mối đe dọa thường xuyên của tên kẻ cướp phát xít độc tài, các nước dân chủ láng
giềng bắt buộc phải tự độc tài hóa, giảm bớt quyền tự do chính trị và tự do
công dân. Việc có mặt của nhà nước độc tài biến những ưu điểm của nền dân chủ
thành những yếu điểm và đe dọa an ninh của nó. Như vậy, nhà nước độc tài bắt
các nước láng giềng cũng phải tự độc tài hóa, từ bỏ những chính sách dân chủ .
Thí dụ, nước Anh - đại diện tiêu
biểu của nền dân chủ tư sản quê hương của nghị trường - trước khi chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ, đã bắt buộc phải hạn chế hoạt động của đảng phát xít
Moxli. mặc dù điều này mâu thuẫn với những truyền thống của cơ cấu đa đảng.
Trong thời gian này, đảng phát xít Moxli định cải tổ theo kiểu mẫu của đảng
quốc xã (có thủ lĩnh đứng đầu, có đảng phục, thành lập các đội vũ trang), nhưng
chính phủ đã không cho phép những thay đổi này.
6. Những cơ sở kinh tế của nhà
nước phát xít.
Thật sai lầm nếu nghĩ rằng, việc
tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay nhà nước phát xít không liên quan gì
đến vấn đề kinh tế. Một thượng tầng kiến trúc tập trung tuyệt đối không thể dựa
trên hạ tầng cơ sở phân rã; thượng tầng kiến trúc độc tài đòi hỏi một nền kinh
tế độc tài do nhà nước kiểm soát triệt để .
Không cần xóa bỏ sở hữu cá thể
hình thức đối với công cụ sản xuất, nhà nước phát xít là người điều hành nền
kinh tế quốc dân. Nhà nước xác định những vấn đề như sau trong nền kinh tế:
a/ Phương hướng của nền kinh tế -
sản xuất để phục vụ cuộc chiến tranh tương lai hay cho nhu cầu tiêu dùng; nền
kinh tế quốc dân có liên kết với các nước khác hay không, hay sẽ xây dựng trên
nguyên tắc tự cung tự cấp.
b/ Cấu trúc sản xuất - sẽ sản xuất
cái gì, số lượng bao nhiêu. Người sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào nhu cầu của
nhà nước.
Chúng ta hãy lấy thí dụ về những
luật lệ nông nghiệp trong nhà nước quốc xã. Tất cả điền chủ nhận kế hoạch sản
xuất từ nhà nước, nhà nước xác định cho những người này phải sản xuất bao nhiêu
khoai tây, sữa, trứng, thịt... đồng thời định giá sản phẩm mà họ phải bán cho
nhà nước. Họ không được bán sản phẩm của mình cho ai khác ngoài nhà nước. Như
vậy trên thực tế, nhà nước là người điều hành thực sự nền kinh tế, còn những người
sản xuất chỉ là những ông chủ hình thức.
c/ Nhà nước can thiệp vào quyền
thừa kế gia sản - ở Ðức với sắc luật về "quyền thừa kế ruộng đất" ban
hành ngày 29-9-1933, gần 5 triệu rưỡi điền chủ, mỗi người có ít nhất là 10
hecta ruộng đất, được tuyên bố là có toàn quyền sở hữu. Những ruộng đất này
không chỉ con trưởng được thừa kế, mà trước hết phải là người được nhà nước
phát xít công nhận là xứng đáng (tất nhiên là về mặt chính trị) .
Valter Ðare viết, "Theo hướng
dẫn của Bộ Nông Nghiệp, nếu không có người thừa kế xứng đáng, quyền sở hữu gia
sản của điền chủ có thể bị tước bỏ và chuyển giao cho một cán bộ phụ trách nông
nghiệp nào đó. Ðiều luật ngặt nghèo này đã bắt buộc những người nông dân phải
giữ gìn phẩm giá của mình." (13 -223)
Nhà nước quốc xã cũng đặt toàn bộ
nền kinh tế công nghiệp dưới sự kiểm soát của mình. Nó nhà nước hóa Ban lãnh
đạo và điều hành công nghiệp, không chỉ thể hiện bằng việc thành lập các ban
quản lý chịu sự chỉ đạo của bọn quốc xã sừng sỏ, mà còn trong việc sử dụng phần
lớn lợi nhuận cho vũ trang quân sự và những mục đích có lợi cho nhà nước khác.
Trong lời phát biểu trước công
nhân các nhà máy công nghiệp quân sự ngày 10-12-1944, Hitler đã nói về vấn đề
này như sau:
"Tôi lấy một thí dụ, các nhà
tư sản Anh có thể đóng góp 76, 80, 85, 100, 160 phần trăm lợi tức công nghiệp
cho vũ trang quân sự .
... Tôi nghĩ rằng, đối với chúng
ta chỉ cần 6 phần trăm, thậm chí từ 6 phần trăm này chúng ta có thể thu được
một nửa, và nửa còn lại người ta cần phải đưa cho chúng ta những bằng chứng là
đã được sử dụng vì lợi ích của cộng đồng dân tộc. Ðiều này có nghĩa là, cá nhân
không có quyền dùng những cái mà đáng lẽ phải giành cho nhà nước. Nếu cá nhân
sử dụng phần đó một cách có suy nghĩ thì điều đó đáng hoan nghênh, còn ngược
lại cần phải có sự can thiệp của nhà nước quốc xã." (128- 379)
Hệ thống hợp tác xã nông nghiệp là
đòn bẫy quan trọng nhà nước quốc xã sử dụng để kiểm soát nền kinh tế nông
nghiệp. Các hợp tác xã này được hình thành ngay từ năm 1933. Vào năm 1939, số
lượng các hợp tác xã đã đạt tới 45545 đơn vị. 73 phần trăm sản phẩm sữa, 61
phần trăm sản lượng trứng và phần lớn sản phẩm nông nghiệp là do các hợp tác xã
này sản xuất.
Việc can thiệp thô bạo của nhà nước
vào quyền sở hữu được thể hiện bằng sắc luật tịch thu tài sản của những công
dân sống tỵ nạn ở nước ngoài và có quan điểm chống đối chế độ . Ðiều luật này
tồn tại trong tất cả các nhà nước phát xít. Thí dụ, biệt thự mùa hè của
Ainstain tại Capute cùng với phần đất quanh đó bị chính quyền Pruxia tịch thu
theo "Sắc Lệnh Quốc Xã về thu hồi sở hữu của những người cộng sản và kẻ
thù của nhà nước" ban hành vào năm 1933.
d/ Ðiều hành độc đoán sức lao động
quốc dân - tại nước Ytalia phát xít, chính sách này được thực hiện hóa thông
qua hệ thống nghiệp đoàn. Và sau đó, chính sách này cũng được áp dụng ở Tây Ban
Nha (thông qua "Các Công Ðoàn Thăng Tiến"). Ở Ðức, vai trò tương tự
cũng được Mặt Trận Lao Ðộng Ðức đảm nhận. Thông qua hệ thống nghiệp đoàn, nhà
nước thiết lập sự kiểm soát toàn diện của mình đối với giai cấp công nhân, đồng
thời cấm họ không được bãi công. Bằng cách đó, nhà nước bắt buộc giai cấp công
nhân phải phục vụ cho những lợi ích của nó. Nhà nước không chỉ cấm công nhân
không được bãi công, mà còn bắt họ phải làm việc cho nó, phục vụ cho những tham
vọng của nó. Vấn đề này cần phải hiểu thật cặn kẽ. Ðây không chỉ đơn giản tiêu
diệt khả năng phản kháng của công nhân, làm cho họ không còn có khả năng bãi
công - điều đó nền chuyên chính quân sự thông thường vẫn làm, mà là thâu tóm
giai cấp công nhân vào các tổ chức quần chúng quốc gia, và thông qua những tổ
chức này, "thu hút" họ về phía nhà nước để kiểm soát họ chặt chẽ hơn.
Nói cách khác, không cần thể hiện những quyền lợi thực sự cho giai cấp công nhân,
nhà nước phát xít vẫn đứng ra đại diện cho họ và trở thành ông chủ độc đoán của
sức lao động.
Nói gọn hơn, trong lĩnh vực kinh
tế nhà nước phát xít thiết lập hệ thống lao động gần giống như của chế độ phong
kiến. Hệ thống này được đặc trưng bằng những dấu hiệu: trên thực tế, nhà nước
cai quản phương tiện sản xuất và sức lao động của xã hội; bãi bỏ quyền tự do
lao động và thay thế bằng chính sách lao động cưỡng ép kinh tế ngoại lệ . Hay
là, từ cưỡng ép kinh tế thuần túy của xã hội tư sản tự do, chế độ phát xít quay
trở lại với hệ thống cưỡng bức chính trị và kinh tế ngoại lệ của chế độ phong
kiến.
Nhờ đó, chế độ phát xít ép buộc
được những người lao động làm việc trong mọi điều kiện, không đếm xỉa gì đến
quyền lợi của họ . Họ trở nên gần như một đội quân lao động của nhà nước. Mọi
biểu hiện không phục tùng sẽ bị trừng phạt nặng nề, bị xem là đào ngũ hay phản
bội.
Do sự thống trị của nhà nước đối
với sức lao động, công nhân không có quyền lựa chọn công việc theo bậc thợ và
nghề nghiệp của mình, nếu điều đó không có lợi cho nhà nước. Thí dụ, bọn phát
xít Ðức tước bằng của các tất cả các họa sĩ hiện đại, cấp cho họ sổ lao động,
bắt họ làm việc như những người đào đất thông thường; đồng thời buôn bán những
tác phẩm của họ trên thị trường thế giới.
Với việc bãi bỏ quyền tự do lao
động và thiết lập hệ thống cưỡng bức kinh tế ngoại lệ, nhà nước phát xít đã
loại bỏ được nạn thất nghiệp, giống như không có những người thất nghiệp trong
chế độ phong kiến hay trong các trại tập trung.
Thông thường, người ta giải thích
tiềm năng kinh tế "thần kỳ" của chế độ quốc xã bằng sự phát triển
điên rồ của nền công nghiệp, quốc phòng. Ðiều này hoàn toàn đúng, nhưng vẫn
chưa phải là nguyên nhân thực sự của vấn đề. Bởi vì trên cơ sở giải thích như
thế có thể đặt một câu hỏi ngược lại: bằng cách nào để chế độ phát xít có thể
chi những khoản ngân sách khổng lồ cho quân sự ? Tại sao nền dân chủ tư sản
thông thường không thể hoặc không cho phép những hành động tương tự ? Trả lời
những câu hỏi này sẽ không tránh khỏi dẫn chúng ta đến với những nguyên tắc
kinh tế chung của nhà nước phát xít, mà nguyên tắc cơ bản là bắt xã hội quay
trở lại với hệ thống cưỡng ép ngoại lệ: nhà nước cưỡng ép người công nhân làm
việc bằng cách dùng tòa án đe dọa; ấn định thời gian lao động; ấn định mức
lương thu nhập; cấm người công nhân không được tự do bỏ việc; cấm không được
bãi công: bắt làm việc theo ca kíp; cấm không được bỏ đi tìm việc làm ở các
nước khác,v.v... Nói gọn hơn, nhà nước đơn phương khống chế mọi điều kiện lao
động của người công nhân, đặt họ vào vị trí như của một người tù.
Ðể có thể hiểu rõ cơ cấu bãi bỏ
nạn thất nghiệp (ở Ðức vào năm 1933, con số này kên tới 5,5 triệu người), ta
cần nhớ lại là nhà nước phát xít có thể luôn luôn giữ mức sống rất thấp và vẫn
liên tục tăng cường sản xuất. Thông qua bộ máy khủng bố và hệ thống tổ chức
quần chúng quốc gia, nhà nước làm tiêu tan mọi ý đồ chống đối ngay từ khi còn
trứng nước; còn thông qua tuyên truyền toàn diện và độc đoán, nó "thuyết
phục" được cho chính sách kinh tế đúng đắn của mình.
Một khi lao động đã là bắt buộc,
giá trị sức lao động đối với nhà nước phát xít không còn là vấn đề lưu tâm. Nhờ
đó, nhà nước này luôn có trong tay sức lao động vô hạn và rẻ mạt. Do đó, khác
với chế độ tư sản tự do, nó có thể dùng những sức lao động khổng lồ cho những
nhà máy không có lợi ích kinh tế, nhưng có giá trị quân sự quan trọng; nó có
thể xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp dù tốn kém hơn nhiều so với khi sử dụng
các nguyên liệu nhập ngoại. Kết quả là, trong nhà nước phát xít, một nền kinh
tế quân sự hiện đại nhất được phát triển, điều mà các nhà nước tư sản truyền
thống thậm chí không dám mơ ước.
Tại hội nghị các nhà kinh tế nói
tiếng Pháp năm 1938, Rapard đã có những suy nghĩ rất sâu sắc về nền kinh tế
quốc xã: "Nếu chúng ta công nhận rằng, tiêu chuẩn để đánh giá thành công
sức là sức lao động lớn nhất cho một thu nhập nhỏ nhất, thì thí nghiệm của
người Ðức là một lễ khải hoàn; nhưng nếu chúng ta xem giá trị của một hệ thống
kinh tế được đo bằng mức thu nhập lớn nhất từ một sức lao động nhỏ nhất, thì
điều đó sẽ bị đổ vỡ hoàn toàn... Người ta nói rằng, nền kinh tế tự cung tự cấp
của Ðức đã tiêu diệt được nạn thất nghiệp; và cả điều này cũng không làm chúng
ta ngạc nhiên vì trong nhà tù thì làm gì có người thất nghiệp." (155-57)
7. Nhà nước phát xít - con đẻ của
xã hội công nghiệp.
Sự thâu tóm và phục tùng tổng thể
của toàn xã hội đối với nhà nước- dấu hiệu đặc thù của chế độ phát xít- hoàn
toàn không thể được thiết lập trước thế kỷ XX. Ðiều này có nghĩa là cả nhà nước
phát xít cũng không thể xuất hiện trước khi thời đại của chúng ta phát minh ra
những cơ sở kỹ thuật cần thiết và trước hết, đó là những phương tiện giao tiếp
và tuyên truyền hiện đại: đài phát thanh, phim ảnh, điện thoại, loa phóng
thanh.
Albert Speer viết trong lời khai
tại phiên tòa Niurnberg, "Chuyên chính Hitler khác hẳn với những nền
chuyên chính trước đó trong lịch sử . Ðây là nền chuyên chính đầu tiên của nhà
nước công nghiệp, trong thời đại kỹ thuật hiện đại, nó thống trị triệt để và
toàn diện trên dân tộc mình và kỹ thuật. Nhờ đó những phương tiện kỹ thuật như
đài phát thanh, loa phóng thanh, quyền độc lập suy nghĩ của 80 triệu người bị
tước đoạt và phải phục tùng nguyện vọng của một người duy nhất. Ðiện tín, điện
thoại,radio cho phép những tổ chức cao cấp có thể truyền mệnh lệnh trực tiếp
xuống các cơ sở, và tại đây nhờ uy tín của chúng, các mệnh,lệnh này được thi
hành vô điều kiện..." (89 - 299, 300)
Các phương tiện giao tiếp hiện đại
gây nên những biến đổi quan trọng trong cấu trúc truyền thống của chuyên chính
và trước hết là trong cơ cấu hoạt động của nó. ở dạng chuyên chính cũ, mọi mệnh
lệnh hay sắc luật phát ra từ trung tâm được thi hành theo từng bậc từ trên
xuống dưới. Mọi mắt xích trung gian đều có vai trò xác định như một cơ cấu
thành phần, và nếu không có sự tác động tương hỗ của nó, nguyện vọng của trung
tâm không đạt được yêu cầu như đã định. Trong những thời điểm cấp thiết, nếu
mắc xích trung gian này từ chối không hoạt động, sắc lệnh của trung tâm sẽ
không được thực hiện, vì lúc này đường dây liên lạc đã bị đứt.
Như vậy đối với cơ cấu chuyên
chính cổ truyền, các mắc xích trung gian có vai trò quan trọng đến mức trong
mọi trường hợp, trung tâm đều trở nên phải phụ thuộc vào chúng, không thể bỏ
qua chúng, khi thực hiện những kế hoạch của mình. Trung tâm có thể thay đổi cơ
cấu trung gian, phê phán hoặc cải tổ, nhưng không thể từ chối sự
cộng tác của nó.
Cái mới mà nhà nước phát xít thu
nhận được nhờ các phương tiện giao tiếp hiện đại là, khả năng có thể bỏ qua các
mắc xích trung gian nói trên, hoặc nếu không bỏ qua thì trong mọi trường hợp,
đều có thể sử dụng cả đường đây trực tiếp giữa trung tâm và các cơ sở. và nếu
một mắc xích nào đó từ chối không hoạt động, thì điều đó không có nghĩa là sắc
lệnh của trung tâm không được thi hành. Radio đã loại bỏ được mọi hiểm họa này.
Tính chất đặc biệt này của nhà nước phát xít không chỉ giúp nó thông tin một
cách nhanh chóng, tuyên truyền mang tính quần chúng sâu rộng, mà còn tác động
đến cả bản thân bộ máy nhà nước và cơ cấu hoạt động của nó.
Thông qua radio, trung tâm có thể
kiểm tra chính bộ máy này và mức độ khẩn trương trong khi thi hành các mệnh
lệnh của cấp trên. Như vậy mỗi một trạm trung gian của cấu trúc đẳng cấp, nằm
giữa trung tâm và cơ sở, bị đặt dưới hai tầng kiểm soát, từ trên xuống và từ
dưới lên, vì trung tâm có thể thông tin trực tiếp đến cơ sở nhờ hệ thống radio.
Trong trường hợp này, các mắc xích trung gian đánh mất vai trò tự chủ khi thừa
hành mệnh lệnh, cũng như quyền độc lập tương đối của mình. Radio đã thay đổi
bản chất của mắt xích trung gian, biến nó thành cơ cấu vô bản sắc của hệ thống,
chỉ biết truyền đúng toàn bộ mệnh lệnh.
Như vậy, nhờ có các phương tiện
giao tiếp hiện đại, bộ máy nhà nước đã được cơ giới hóa và tạo nên những kết
quả quan trọng khác: thứ nhất, bãi bỏ được tính chậm chạp và quan liêu trong
hoạt động và trở nên linh hoạt hơn; thứ hai, bộ máy trở nên dễ điều khiển và
làm việc tốt hơn.
Chúng ta hãy lấy ví dụ về vụ ám
sát hụt trong ngôi biệt thự lớn của Hitler ở miền đông Pruxia. Staufenbert quay
trở lại Berlin bằng máy bay và thông báo với những người âm mưu đảo chính là
Hitler đã chết. Một số người nghi ngờ muốn xác định lại sự thật về cái chết của
Thống lĩnh để quyết định hành động. Nhờ có radio, chỉ hai giờ sau vụ ám sát
hụt, Hitler đã phát biểu trên đài phát thanh và những người đảo chính hết nghi
ngờ. Nếu không có radio như phương tiện thông tin nhanh chóng, thì dù Hitler
còn sống, binh lính ở Berlin đã có thể khởi nghĩa. Tất nhiên, đây không phải là
nguyên nhân thất bại căn bản của cuộc đảo chính, nhưng nó đã tạo nên khả năng
có thể xử sự kịp thời, mà trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, điều đó có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
Tóm lại, hoàn toàn không phải
phóng đại khi khẳng định, chuyên chính phát xít là con đẻ của xã hội công
nghiệp. Kỹ thuật hiện đại của thế kỷ XX không chỉ là hoàn thiện nền chuyên
chính, mang lại cho nó những công cụ tinh vi, mà còn tạo nên những cơ sở mà
thiếu chúng, nhà nước phát xít không thể được hình thành trên phương diện kỹ
thuật. Không có radio, điện thoại, điện tín và phim ảnh, thì những đặc thù quan
trọng sau đây của nhà nước độc tài trở nên không tưởng: tuyên truyền mang tính
quần chúng và tổng thể; do thám tổng thể; cơ giới hóa bộ máy nhà nước; xây dựng
và chỉ huy quân đội chính quy, cơ động.
(còn tiếp)