Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính


SỢI XÍCH SẮT NĂM V̉NG

LM PHÊRÔ NGUYỄN HỮU GIẢI & LM PHÊRÔ PHAN VĂN LỢI

Huế ngày 10-9-2003

NHẬN ĐỊNH CHUNG

So với các văn kiện về tôn giáo trước đây, Pháp lệnh (dự thảo 19) của Đảng Cộng sản VN mở đầu rất là mị dân : "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc…" . Pháp lệnh đă phơi bày thói giả nhân giả nghĩa thường bị dân gian mai mỉa : "Giết không được th́ tha làm phúc" ! Nhưng ngay lập tức, ĐCS đă nối kết cái chân lư mà nó nay bắt buộc phải thừa nhận này với "quá tŕnh xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta" ! ? Một sự kết hôn gượng ép hay một sự kết nối phi lư giữa hai điều đối nghịch mâu thuẫn !

Sự đối nghịch tận căn giữa chủ nghĩa xă hội mà Đảng chủ trương và mọi tôn giáo chân chính đă là sự kiện quá hiển nhiên trong quá khứ khi mà cái chủ nghĩa ấy trong lư thuyết chỉ là những giáo điều duy vật vô thần, lên án tôn giáo là phản động, phản tiến bộ, tiếp tay duy tŕ và củng cố t́nh trạng bị đàn áp, bóc lột, và tha hóa của đại đa số dân nghèo ; c̣n trong thực hành áp dụng th́ đó là cả một lịch sử đàn áp sắt máu kiểu Staline nhằm xóa sạch tôn giáo ra khỏi đời sống của người dân. Nhưng sự mâu thuẫn trong căn bản giữa chủ nghĩa xă hội và tôn giáo vẫn không kém hiển nhiên hiện nay, dù nó đă được ĐCS cắt bỏ ở chỗ này, thêm thóc ở chỗ nọ, xào nấu lại ở chỗ kia, hay nói cho văn hoa là "hiện đại hóa", để mang một bộ mặt có vẻ dễ chịu và thức thời hơn. Chủ nghĩa xă hội kiểu mới của Đảng không nhằm lên án hay xoá sổ tôn giáo (vừa không thể thành công vừa phí sức vô ích) nhưng nhằm quản lư, tổ chức,lănh đạo tôn giáo, biến tôn giáo từ những lực lượng tinh thần có sức cải hóa và siêu thăng phẩm giá hiện thế của con người thành những tổ chức nếu không tích cực phục vụ cái thể chế độc tài, toàn trị, phi nhân và tha hóa của Đảng th́ ít ra cũng ngoan ngoăn để yên cho Đảng duy tŕ và bành trướng cái thể chế khốn nạn ấy. Nói cách khác cái chủ nghĩa xă hội kiểu mới của ĐCSVN trong lư thuyết và trong thực hành vẫn là vô thần, vẫn là duy vật bởi v́ chỉ có quyền lựctiền tài của Đảng mới là những thực tại duy nhất "hiện hữu" thực sự, mới là những giá trị đáng có nhất và phải có nhiều nhất. C̣n Thiên Chúa, Ơn Cứu Độ, Phật, Niết Bàn, con người h́nh ảnh Thiên Chúa, con người "linh ư vạn vật", vv… tất cả đều được Đảng t́m cách tổ chức, quản lư, và lănh đạo để hiện hữu được bao nhiêu là tuỳ vào giá trị hữu dụng cho quyền lực và tiền tài của Đảng. ĐCS để cho tôn giáo tồn tại bằng cách trói buộc và cưỡng ép tôn giáo vào việc cùng với Đảng xây dựng một thứ chủ nghĩa xă hội mà trong đó tín đồ các tôn giáo không phụng sự thần thánh và con người cho bằng phụng sự chính Đảng, quyền lực và tiền tài của Đảng, hay nói cách dễ mường tượng hơn, phụng sự cái trung ương gồm 150 uỷ viên, cái thân cụ thể và thường xuyên của Đảng, và cái bộ chính trị gồm 15 uỷ viên, đầu hay bộ óc của cái thân đó.

Trở lại với mấy lời mở đầu của dự thảo Pháp lệnh. Ngay sau câu nói xe dây tơ hồng đầy "phúc đức" trên, ĐCS ve vuốt thêm : "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc". Rồi Đảng khẳng định ngay mục tiêu của Pháp lệnh : "Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo… phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp….". Thông thường, người ta chỉ đặt vấn đề đoàn kết dân tộc khi có kẻ thù : ngoại thù xâm lấn từ ngoài biên cương hay nội thù chia rẽ từ trong nước. Đất nước dân tộc ta hiện nay chẳng gặp thế lực ngoại quốc xâm lược nào (ngoại trừ ĐCS đàn anh Trung Quốc vốn chiếm đoạt của Tổ quốc gần 800 km2 trên đất và 10.000 km2 trên biển nhờ sự đồng lơa của những tên lănh đạo bán nước trong ĐCSVN, và ngoại trừ những "thế lực thù địch" mà Đảng tự tạo ra v́ có dụng ư hoặc do trí tưởng tượng bệnh hoạn). Vậy chỉ c̣n những mầm mống chia rẽ thôi ! Nhưng chia rẽ giữa toàn dân với nhau hay chia rẽ giữa nhân dân với Đảng độc đoán, tham nhũng, bóc lột, bất tài, bất lương, chuyên gây hận thù và tạo chia rẽ ? Câu trả lời đă quá rơ.

ĐCSVN đang đứng trước một cơn khủng hoảng quyền lực trầm trọng, v́ đồng bào các sắc tộc và các tôn giáo một mặt dần dần thấy Đảng lộ nguyên h́nh là một thế lực toàn trị độc tài, cai trị nhân dân và đất nước bằng bạo hành và dối trá, mặt khác dần dần đứng lên gỡ bỏ cái ách nặng nề gây cản trở cho sự phát triển chính ḿnh và toàn thể đất nước dân tộc. Nhưng thay v́ mời gọi sự ủng hộ của nhân dân bằng cách trả lại cho nhân dân các quyền tự do cơ bản, Đảng, với năo trạng chuyên chế thâm căn, lại t́m cách dùng luật pháp để cưỡng bức và trói buộc các lực lượng trong nhân dân, đặc biệt các lực lượng tinh thần là tôn giáo.

Trước đây, những văn kiện pháp lư về tôn giáo không chi tiết, chặt chẽ bao nhiêu, bởi lẽ quyền lực ĐCS lúc ấy c̣n mạnh, đủ sức biện minh cho những chỗ mơ hồ hay mâu thuẫn trong chính sách ; vả lại kinh nghiệm đối xử với tôn giáo chưa có nhiều. Nay Đảng thấy quyền lực ḿnh đang bước vào giai đoạn rệu ră, cần bang giao với nhiều nước tự do dân chủ nên hành sự không thể mặc sức vi pháp, vi hiến, không thể chỉ biết dùng luật rừng của bạo lực ; đàng khác Đảng cũng đă thâm nhập hiểu rơ các tôn giáo mà t́m được những cách đối phó mới có hiệu quả hơn. V́ thế mà Đảng đang tiến hành làm Pháp lệnh (PL) và Nghị định (NĐ) Tôn Giáo (chi tiết hóa Pháp lệnh này) mà tính cách hệ thống, chặt chẽ, bao trùm của chúng thật đáng sợ. Theo chúng tôi, đó là sợi xích sắt năm ṿng nhằm siết chặt (kiểm soát, trấn áp, hạn chế) tôn giáo hơn bao giờ hết. Năm ṿng siết chặt này nhắm vào năm điểm căn bản của một tổ chức tôn giáo là cương vị, nhân sự, hoạt động, tài sản và các mối liên lạc bên trong và bên ngoài. Chúng tôi xin phân tích và nhận định từng điểm sau đây.

 

PHÂN TÍCH

 

I- Siết chặt cương vị của tôn giáo

Cương vị tôn giáo ở đây chính là vấn đề pháp nhân. Lần đầu tiên, các tôn giáo được pháp luật của ĐCS coi như một pháp nhân : "Tổ chức tôn giáo [=giáo hội, chúng tôi chú thích] là pháp nhân đại diện cho một cộng đồng người cùng chung một tôn giáo, có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức, hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận" (PL điều 3 khoản 1).

Ở các nước dân chủ văn minh, các tôn giáo đă tồn tại lâu đời trên lănh thổ được đương nhiên công nhận, c̣n các tôn giáo mới thành lập hay mới du nhập th́ cần phải được nhà nước công nhận sau một số thủ tục nào đó, thông thường là dễ dàng.

Trong thực tế, ở Việt Nam hiện thời, ngoài Giáo hội Công giáo có lẽ được đương nhiên coi như pháp nhân ( ?), mới chỉ có một số tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân sau nhiều thủ tục và điều kiện (Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1994 cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Quyết định số 51/QĐ-TGCP ngày 29/7/1995 công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao đài Tiên Thiên, Quyết định số 4039/QĐ-TGCP ngày 2/8/1996 công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao đài Minh Chân đạo Hậu Giang, Quyết định số 10/QĐ-TGCP ngày 9/5/1997 công nhận tư cách pháp nhân tổ chức Giáo hội Đại đạo Tam kỳ phổ độ Tây Ninh...) và gần đây nhất là Quyết định công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam). Đang khi đó th́ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vốn có hàng ngàn năm và Giáo hội Phật giáo Ḥa hảo thuần túy (của cụ Lê Quang Liêm) được thành lập từ 1945 cũng như một số hệ phái Tin lành bị CS đặt ra ngoài ṿng pháp luật và bách hại dữ dội.

Nay th́ PL điều 15 và NĐ điều 3 có đưa ra các quy định cho những giáo hội nào đó muốn thành lập và muốn được công nhận tư cách Pháp nhân, nhưng các quy định ấy vô cùng nhiêu khê và mang tính can thiệp và lũng đoạn trắng trợn. PL đ. 15 nói : "Điều kiện để xem xét công nhận tổ chức tôn giáo gồm :

 
a) Có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, hiến chương hoặc điều lệ phù hợp với pháp luật ;

b) Danh sách dự kiến nhân sự lănh đạo tổ chức tôn giáo đó được Trưởng ban Ban Tôn giáo của Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định".

NĐ đ. 3 trước hết đ̣i buộc thành lập Ban vận động. Ban này, Nhà nước ấn định số lượng và tư cách thành viên (k. 1), ra quyết định thành lập, thông qua quy chế hoạt động, ấn định các trách nhiệm (k. 2) và cho tổ chức Đại hội thành lập. Giáo hội dự định thành lập phải được Ban Tôn giáo chính phủ chấp thuận nhân sự lănh đạo, hiến chương hay điều lệ (k. 3). Rồi tổ chức cơ sở tôn giáo (tức các đơn vị trực thuộc giáo hội) hoạt động tại tỉnh nào th́ lại phải có phép của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.

Cũng tại các nước dân chủ văn minh, một khi giáo hội xét chung được công nhận (như pháp nhân lớn), th́ các tổ chức, đoàn thể thuộc cơ cấu của giáo hội này (vốn có hoạt động riêng, tài sản riêng, quan hệ riêng) liền được công nhận theo hay dễ dàng được công nhận tiếp (như những pháp nhân nhỏ).

Thế nhưng ở CHXHCN Việt Nam th́ chẳng giống vậy. Thí dụ trong Giáo hội Công giáo, các tổ chức điều hành như hội đồng giám mục, hội đồng linh mục, hội đồng giáo xứ... và các tổ chức sinh hoạt như các giáo phận, giáo xứ, các ḍng tu nam nữ, hội đoàn tông đồ... từ lâu không đương nhiên được có tư cách pháp nhân (giả như có xin công nhận cũng chẳng được, mặc dù theo điều kiện trở thành pháp nhân trong Bộ Luật dân sự th́ tôn giáo có rất nhiều tổ chức thành viên đủ khả năng). Mà tư cách ấy là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết nhiều vấn đề, đặc biệt vấn đề hành chánh và vấn đề tài sản Giáo hội lâu nay gặp nhiều trắc trở, v́ chỉ tổ chức được công nhận là pháp nhân mới có quyền quản lư, sở hữu tài sản dưới tên pháp nhân. Ví dụ : do giáo xứ không có tư cách pháp nhân, nhiều linh mục chánh xứ mua nhà đất cho giáo xứ hay đăng kư tài sản giáo xứ phải đứng tên ḿnh, nên khi vị này qua đời, th́ con cháu đ̣i quyền thừa kế. Ngoài rắc rối pháp lư này, c̣n nhiều rắc rối liên quan tới các thuộc tính của quyền sở hữu như quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt (xin xem dưới).

Đă không công nhận các "tổ chức cơ sở tôn giáo" này như những pháp nhân, PL vẫn bày ra nhiều quy định hết sức khắt khe, buộc các tổ chức cơ sở đó phải theo nếu muốn được phép hoạt động (như sẽ thấy sau). Ngoài việc đặt ra cái khung pháp lư, CS c̣n qui định luôn cá nhân phải làm ǵ, được làm ǵ trong cái khung này. Phải chăng đây là ư đồ gây cản trở, nô lệ hóa, công cụ hóa toàn thể tôn giáo, toàn thể giáo hội ?

II- Siết chặt nhân sự của tôn giáo

PL đ. 2 xác định nhân sự của tôn giáo có 4 hạng : tín đồ, chức việc, nhà tu hành, chức sắc. Chẳng một ai bị bỏ sót cả ! a- Trước hết, các tín đồ nói chung đều phải ghi rơ tôn giáo trong Chứng minh nhân dân (đại đa số các nước trên thế giới không có lệ này) và đôi khi trong nhiều giấy tờ khác nữa. Điều này đă và đang gây ra lắm sự kỳ thị không thể chối căi. Rơ rệt nhất là không một tín đồ của đạo nào giữ được những chức vụ lănh đạo cao cấp trong bộ máy Nhà nước, công an, quân đội, học đường, công ty xí nghiệp quốc doanh... Có nguồn tin cho rằng kể từ niên khóa 2003-2004, mọi hiệu trưởng của mọi trường thuộc mọi cấp đều phải là đảng viên ! Mọi tín đồ b́nh thường đúng là công dân hạng hai, bị hạn chế ngay cả trong việc đời của họ là xây dựng quốc gia đất nước, đang khi Hiến pháp nói rất ngon lành : "Mọi công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật" (đ. 52), "Công dân có quyền tham gia quản lư Nhà nước và xă hội" (đ. 53). Chính v́ thiếu những tín đồ trong guồng máy quốc gia nên dối trá, chèn ép, vô lương tâm, vô trách nhiệm tha hồ hoành hành trong mọi lănh vực, khiến vô số vấn đề xă hội nhức nhối chẳng bao giờ giải quyết nổi. Đúng như thư các GMVN gởi Quốc hội tháng 10-2002 : "Chân lư căn bản trong quan hệ giữa người với người là mọi người đều b́nh đẳng về nhân phẩm. Chân lư này đ̣i hỏi phải gạt bỏ mọi kỳ thị và phân biệt đối xử, phải xóa đi những h́nh thức chuyên chế, phải loại trừ mọi gian dối xảo trá ngày nay đang tràn lan trong mọi lănh vực của cuộc sống con người và xă hội"

b- Chức việc (tín đồ có tham gia công việc quản lư của tổ chức tôn giáo, PL đ. 3 k. 5) trong Công giáo là các thành viên hội đồng giáo xứ, hội đồng mục vụ, thành phần lănh đạo các hội đoàn đạo đức hay tông đồ... Họ là những giáo dân b́nh thường, có vai vế chút đỉnh, v́ tham gia cộng tác với hàng giáo sĩ, với linh mục quản xứ, nhưng ngay bản thân họ cũng đă phải được sự công nhận của chính quyền. Đúng là một sự xen ḿnh quá sâu của ĐCS.

Quả thế, NĐ đ. 21 nói :

"1- Người do tổ chức tôn giáo hoặc tín đồ bầu ra để hoạt động tôn giáo trong phạm vi địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban Tôn giáo Chính phủ công nhận... trong phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chủ tịch UBND cấp tỉnh công nhận... trong phạm vi địa bàn quận, huyện, thị xă, thành phố thuộc tỉnh do Chủ tịch UBND cấp huyện công nhận... trong phạm vi địa bàn xă, phường, thị trấn do Chủ tịch UBND cấp xă công nhận.

2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức cơ sở tôn giáo có hồ sơ gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ gồm có : a. Văn bản đề nghị công nhận trong đó có ghi rơ họ tên, phẩm trật, chức vụ tôn giáo của người được đề nghị công nhận ; b. Lư lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân xă, phường, thị trấn nơi người đó cư trú ; c. Văn bản tóm tắt quá tŕnh hoạt động tôn giáo của người đó ; d. Lư do, căn cứ (biên bản cuộc bầu...) của việc đề nghị công nhận".

c- Về nhà tu hành (giới tu sĩ), NĐ đ̣i buộc người muốn đi tu trước hết phải có văn bản gửi UBND cấp xă nơi thường trú để thông báo việc này, trong đó ghi rơ lư do vào tu, sự hiểu biết về tôn giáo ḿnh chọn. Rồi phải được UBND xă xác nhận là người gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân đă, mới được khăn gói lên đường (NĐ đ. 9, k. 1-2). Tại giáo phận Huế, các ứng sinh vào đại chủng viện, ngoài hai đơn xin nhập ĐCV gởi Đức TGM và ban giám đốc ĐCV, c̣n phải viết đơn xin phép gởi UB Nhân dân tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh, trong đó có câu : "Tôi cam kết sẽ nỗ lực... chấp hành luật pháp của Nhà nước, cũng như thực hiện mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân...". Rồi có tên trong danh sách nhà ḍng không đủ, tu sĩ c̣n "vinh dự" có tên trong danh sách đăng kư tại cơ quan Nhà nước kèm theo lư lịch tự thuật và ảnh (NĐ đ. 6 k. 2).

Trở thành tu sĩ, muốn hoạt động th́ "phải được cấp giấy chứng nhận nhà tu hành để thực hiện hoạt động chức vụ, chức trách tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm được phân bổ" (PL đ. 13 k. 1+2). Mà "tŕnh tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nhà tu hành... do Chính phủ quy định" (PL đ. 30). (Thủ tục này cũng liên hệ và đặc biệt liên hệ tới các chức sắc, nên chúng tôi sẽ nói rơ ở dưới).

Nếu vị tu sĩ này được bầu hay tái bầu làm bề trên ḍng th́ chỉ được nhận chức vụ này "sau khi danh sách dự kiến nhân sự hoặc văn bản đề nghị phục hồi chức vụ cho chức sắc tôn giáo của giáo hội được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận" (nếu ḍng có mặt nhiều tỉnh) hay "được Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận" (nếu ḍng chỉ có mặt trên một tỉnh). Vị bề trên này muốn hoạt động lại c̣n phải chờ "cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận bằng văn bản" đă (PL đ. 29 k. 1-2 và NĐ đ. 8). Vậy là các bề trên ḍng từ nay có vinh dự được nhà nước "quan tâm" chuẩn nhận chức vụ và theo dơi hoạt động ngang bằng với các giám mục giáo phận đó !

Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển tu sĩ "trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ... Bổ nhiệm, thuyên chuyển ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố nơi đến" (Điều 29, k. 3). Chẳng hề có chuyện đăng kư hộ khẩu đơn thuần !

d- Chức sắc, tức "nhà tu hành có chức vụ quản lư (chức) và phẩm sắc, tước hiệu (sắc) trong giáo hội" b(định nghĩa của PL đ. 3 k. 7), ở đây có thể hiểu là linh mục cai quản giáo xứ và giám mục cai quản giáo phận (trong Công giáo).

Trước hết, để lên được chức sắc, nghĩa là được phong chức linh mục hay giám mục, th́ điều đầu tiên là "danh sách dự kiến nhân sự" cần tấn phong phải "được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận" hay "được Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận" tùy phạm vi hoạt động của chức sắc. (PL đ. 29 k. 1-2). Hồ sơ xin phong chức này được NĐ đ. 19 chỉ vẽ rất chi tiết, rất tận t́nh, các Giáo hội mặc sức mà làm ! Việc CS giành lấy quyết định tối hậu này đă và đang có nguy cơ tạo ra một hàng lănh đạo "tốt đời đẹp đạo", theo nghĩa ngoan ngoăn và thỏa hiệp với nhà nước !

Thành chức sắc rồi, c̣n "phải được cấp giấy chứng nhận chức sắc để thực hiện hoạt động chức vụ, chức trách tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm được phân bổ" (PL đ. 13 khoản 1 và 2). Mà "tŕnh tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận chức sắc... do Chính phủ quy định" (PL đ. 30). NĐ đ. 22 k. 2 cho biết thêm nội dung giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo phải có đủ "họ tên, địa chỉ thường trú, chức vụ tôn giáo, phạm vi hoạt động tôn giáo của người được cấp giấy chứng nhận ; ngày, tháng, năm cấp giấy chứng nhận ; có chữ kư, đóng dấu của tổ chức tôn giáo có thẩm quyền ; chữ kư chứng thực của cơ quan quản lư nhà nước về tôn giáo cấp tương đương". Đây là một sáng kiến hết sức quái đản của ĐCS (vốn cũng liên hệ tới các tu sĩ hoạt động, xin xem trên), khiến Đức TGM Sài G̣n phải kêu trời : "Chúng tôi đồng ư với nhiều người cho rằng Điều 24 dự thảo Pháp lệnh (lần thứ 20) biểu hiện ư muốn can thiệp quá sâu vào nội bộ tôn giáo, khi buộc các chức sắc tôn giáo, tùy theo cấp bậc, phải được Chính quyền trung ương hay địa phương chấp thuận và công nhận bằng văn bản mới được hoạt động. Điều này vừa không thực tế, vừa làm cho các chức sắc tôn giáo quá lệ thuộc vào chính quyền, dễ sinh ra phiền toái và tiêu cực". Đảng thẳng thừng tuyên bố lư do của ư đồ vô tiền khoáng hậu này : "Thông qua việc ban hành giấy chứng nhận chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, chúng ta c̣n có thể xử lư các trường hợp mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, các trường hợp "phong chui", "tu chui", những trường hợp chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận nhưng vẫn thực hiện hoạt động truyền đạo" (Báo cáo tổng thuật của Ban Tôn giáo, mục II số 4). Mục tôn giáo trên CMND đă là kiểu kỳ thị man rợ so với thế giới dân chủ văn minh, không thể chấp nhận, nay lại thêm cái "chứng minh chức sắc, chứng minh tu sĩ" quái gở này. Đảng chỉ thiếu điều ngồi vào ṭa cáo giải để nghe tâm tư bí mật của con người mà "quản lư" cho trọn vẹn ! Thương Ưởng, kẻ đẻ ra chế độ hộ khẩu tàn độc bên Tàu mà cuối đời bị dân chúng phanh thây, phen này hẳn phải bái ĐCSVN làm sư phụ !

Ở Việt Nam, năm 2002, các nghệ sĩ đă mạnh mẽ phản đối dự luật cấp giấy hành nghề biểu diễn đầy tính "cửa quyền" và họ đă thành công. Rơ ràng việc cấp giấy hành nghề truyền đạo là một âm mưu nham hiểm. Nó muốn củng cố đến tột cùng cơ chế xin-cho và can thiệp trắng trợn chưa từng thấy vào nội bộ các giáo hội (như thư HĐGMVN gởi QH). ĐCS quả muốn biến mọi chức sắc tôn giáo trở thành cán bộ của ḿnh.

Ngoài những nghĩa vụ tôn giáo, chức sắc c̣n phải "động viên, hướng dẫn tín đồ chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước" (PL đ. 13 k. 2c) dù chính sách, pháp luật này có những điểm nghịch với đức tin tôn giáo đến đâu chăng nữa. Vậy là ngoài vai tṛ ngôn sứ cho Thiên Chúa hay cho lẽ phải, các chức sắc nay được thêm vai tṛ người phát ngôn, loa tuyên truyền cho Đảng. Đúng hơn, các chức sắc được kêu mời từ bỏ vai tṛ đại diện Thiên Chúa để đóng vai tṛ đại diện của đảng. Gương mẫu điển h́nh trong chuyện này là các thành viên UBĐKCG.

Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc "trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trường hợp bổ nhiệm, thuyên chuyển ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố nơi đến" (PL đ. 29, k. 3).

Tóm lại, nhất cử nhất động của mọi chức việc, tu sĩ, chức sắc tôn giáo đều phải xin phép, đều được theo dơi và hạn chế đến mức tối đa.

III- Siết chặt hoạt động của tôn giáo

 

Về hoạt động của tôn giáo, PL phân ra các loại : 1- Thành lập tôn giáo, giáo hội (đ. 15).

 
2- Hoạt động hội đoàn nhằm phục vụ lễ nghi, học tập giáo lư, đạo đức và các mục tiêu khác (đ. 16).
4- Tu hành (đ. 17).
5- Phong chức hoặc phục chức cho chức việc, tu sĩ, chức sắc lớn nhỏ (đ. 29).
6- Bổ nhiệm, thuyên chuyển chức việc, tu sĩ, chức sắc lớn nhỏ (đ. 29).
7- Đào tạo, bồi dưỡng tu sĩ, chức sắc (đ. 19).
8- Hội nghị thường kỳ và hội nghị bất thường (đ. 28).
9- Tĩnh tâm của linh mục, tu sĩ (đ. 28).
10- Hoạt động tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo (đ. 28).
11- Lễ hội quy mô lớn toàn quốc (đ. 28). 12- Xuất bản, phát hành kinh sách và xuất bản văn hóa phẩm tôn giáo (đ. 20).
13- Kinh doanh xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo (đ. 20).
14- Sản xuất đồ dùng việc đạo (đ. 20).
15- Mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, nuôi dạy trẻ em (đ. 21).
16- Hoạt động từ thiện nhân đạo, y tế, thể dục thể thao, văn hóa xă hội (đ. 22).
17- Tu bổ, sửa chữa, xây dựng cơ sở tôn giáo (đ. 23). 18- Tổ chức quyên góp, tiếp nhận viện trợ nước ngoài.

Đúng là sau bao năm dài, ĐCS đă nắm vững hết mọi h́nh thức hoạt động của tôn giáo. Đó cũng là nhờ ban tôn giáo, viện nghiên cứu tôn giáo, hội đồng tư vấn tôn giáo và đặc biệt đám bồi bút nội thù trong Ủy ban Đoàn kết. Các tổ chức này chẳng bao giờ nhắm mục đích tạo sự cảm thông hiểu biết giữa giáo hội với nhà nước mà chỉ để ḍ xét tôn giáo thôi.

1- Về chuyện thành lập tôn giáo, giáo hội rồi được công nhận để hoạt động, chúng ta đă nói đến trên kia, phần cương vị của tôn giáo. NĐ đ. 3 + 4 quy định rất chi tiết việc này.

2- Về hoạt động hội đoàn nhằm phục vụ lễ nghi, học tập giáo lư, đạo đức tôn giáo trong các hội đoàn như hội dâng hoa, hội giúp lễ, hội kèn trống... th́ trước khi các hội đoàn này hoạt động, Giáo hội phải đăng kư với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tên hội đoàn, người đứng đầu hội đoàn, nội dung hoạt động, phạm vi hoạt động. Chưa đăng kư th́ cứ nằm chờ đó đă (NĐ đ. 5 k. 1+2).

Những "loại hội đoàn phức tạp, có cơ cấu tổ chức, có quy mô mang tính tranh thủ quần chúng" "loại hội đoàn tôn giáo lập ra nhằm thực hiện ngoài các mục đích tôn giáo đơn thuần c̣n có những mục đích khác có liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và các vấn đề khác của xă hội như tương trợ, giúp đỡ các tín đồ trong việc học văn hóa, xây dựng, cải thiện đời sống kinh tế, trợ giúp về các kiến thức xă hội, nghề nghiệp, trợ giúp về y tế... như : sinh viên công giáo, hiệp hội giáo chức công giáo, thanh lao công... của Công giáo và các tổ chức tương tự của các tôn giáo khác" -th́ theo quy định của pháp luật về lập hội (NĐ đ. 5 k. 3)

Trong thực tế, chưa có một hội đoàn nào kiểu này được chính thức hoạt động kể từ 1975 tới nay. Gia đ́nh Phan Sinh, Đạo binh Đức Mẹ thường phải sinh hoạt chui... Các đoàn thể nhằm giáo dục giới trẻ Công giáo đừng mong được công nhận, v́ nhà nước chỉ muốn cho thanh thiếu niên vào đoàn Thanh niên CS thôi, để được giáo dục về "lư tưởng xă hội chủ nghĩa" (Hiến pháp đ. 36 và 66). Mới đây, tại Đà Nẵng, một huynh trưởng hội Hướng đạo Công giáo (hiện đang bành trướng chui) đă được gợi ư rằng : "Nhà nước sẽ cho hội hoạt động công khai nếu chịu xóa bỏ yếu tố tôn giáo và khai tử một phần điều luật thứ hai của hội". Tương lai các hội đoàn khác cho người lớn cũng chẳng sáng sủa ǵ. ĐCS sợ gặp lại những hoạt động mang tính khuynh đảo chính trị của Thanh Lao Công Pháp và Thanh Lao Công Việt tại miền Nam Việt Nam trước 1975 đă hỗ trợ chính Đảng ?

3- Đă từ lâu, các chủng viện, nơi đào tạo những nhà lănh đạo tinh thần mà ĐCS buộc phải cho lập ; tiếp đến các ḍng tu, với những lối chiêu sinh khôn khéo, huấn luyện linh động, hoạt động đa dạng và ảnh hưởng rộng sâu ; rồi các tu hội đời không cơ sở, không tu phục, lỏng lẻo tổ chức, tất cả đă và đang là mối nhức đầu cho Đảng. Thành thử Đảng phen này quyết kiểm soát và lèo lái cho bằng được ba tổ chức huấn luyện đó với rất nhiều điều khoản trong NĐ : bốn điều về đăng kư, tuyển sinh, bầu bề trên (đ. 6-9) ; bốn điều về trường lớp đào tạo, bồi dưỡng (đ. 10-13).

Quá tŕnh kiểm soát bắt đầu từ việc đăng kư, việc tổ chức đến việc sinh hoạt ḍng tu chủng viện (đ. 6-9) ; từ tài chính, tài sản, đến nhân sự, quan hệ của chủng viện ḍng tu (đ. 10) ; từ việc huấn luyện ngắn hạn đến huấn luyện dài hạn (đ. 10+11) ; từ tư cách bề dưới đến tư cách bề trên, từ hàng thụ huấn đến hàng giảng huấn (đ. 13) ; từ việc báo cáo kết quả học tập mỗi khóa, mỗi năm (đ. 13) đến việc ấp chứng chỉ, văn bằng (đ. 10+11)... Tất cả những điều này, bề trên ḍng, giám mục giáo phận, thậm chí Ṭa thánh cũng chẳng đ̣i quản lư cặn kẽ như vậy. ĐCS lấy quyền ǵ để tra hỏi lục vấn tất cả những điều nội bộ đó ? Ấy là chưa kể nhà nước phải trực tiếp giáo dục tu sĩ thành công dân đích thực qua "môn Giáo dục (giáo dục chính trị, pháp luật, lịch sử dân tộc)", một môn "phải được coi là chính khóa và do giáo viên ngành Giáo dục và Đào tạo, trực tiếp giúp đỡ giảng dạy" (NĐ đ. 13 k. 4). Quả là một sự thọc sâu cách trắng trợn, ngang nhiên. ĐCS làm như đó là những nơi đào tạo người của ḿnh, trường huấn luyện cán bộ cho ḿnh, chính ḿnh làm bề trên nên có quyền kiểm soát tất cả mọi sự. Đó là chưa nói đến việc Đảng t́m cách gài nhiều mật báo viên ở những nơi đào tạo này. Con mắt của Đảng quả là muốn tinh tường hơn cả con mắt của bề trên trong Giáo hội ; mối "quan tâm" của đảng quả là muốn bảo bọc hơn cả sự quan pḥng của Thiên Chúa trên trời. Đang khi đó, xét như quyền lực thế tục thuộc loại xấu xa nhất, Đảng hoàn toàn bất biết kinh nghiệm tâm linh ; với chủ trương vô thần tranh đấu, Đảng trước sau coi tôn giáo là kẻ thù cần phải tận diệt, không tận diệt được nhân sự cơ cấu th́ phải tận diệt vai tṛ bản chất !

4- Các hoạt động tôn giáo quy tụ nhiều người được phân thành loại phải đăng kư và loại phải xin phép. Loại trước là hội nghị thường kỳ và tĩnh tâm thường kỳ của linh mục, tu sĩ từ nhiều cơ sở (PL đ. 28 và NĐ đ. 16). Nhưng phải đăng kư vào ngày nhất định (15-10) cho cả năm sau với đầy đủ mọi chi tiết và có được tổ chức hay không các hoạt động đă đăng kư là chuyện khác nữa (NĐ đ. 16). Thực chất vẫn là việâc xin phép như loại sau mà thôi ! Loại này là các hội nghị bất thường, các hoạt động tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo, các cuộc lễ quy mô lớn toàn quốc hay liên tỉnh (Pl đ. 28 & NĐ đ. 17+18) và phải xin phép từ UBND cấp xă đến Ban tôn giáo trung ương. Trong hai cuộc tọa đàm tại giáo phận Huế (10-1999 và 10-2000) về đạo hiếu và văn hóa công giáo Việt Nam, ngoài chuyện xin phép, nhân sự và nội dung thuyết tŕnh đều đă phải được sở văn hóa (thực chất là công an văn hóa) duyệt trước. Trong các buổi tọa đàm, luôn có công an tôn giáo ngồi theo dơi diễn giả lẫn cử tọa. Đang khi đó các hoạt động bài tôn giáo tha hồ thực hiện khắp nơi : giáo khoa, học đường, cơ quan nhà nước, đội thiếu nhi, đoàn thanh niên, đảng cộng sản, công an quân đội, các phương tiện truyền thông....

5- Về kinh sách, báo chí, văn hóa phẩm tôn giáo, NĐ đ. 14 tuyên bố rất ngon lành : "Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo, tổ chức cơ sở tông giáo được in, xuất bản, phát hành các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, kinh doanh xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, sản xuất đồ dùng việc đạo". Nhưng ngay lập tức, tḥng lọng đă tṛng vào : phải xin phép ban tôn giáo trung ương hay địa phương, và được hoặc không là tùy "ḷng tốt" (đúng hơn là tuỳ cảm tính) của viên chức nhà nước và "sự biết điều" của Giáo hội.

Trước đây, mỗi giáo phận có thể xin phép in, xuất bản, phát hành kinh sách với thẩm quyền địa phương và nhờ thế đôi khi gặp được chút lơi lỏng. Nay th́ tất cả phải đăng kư với một nơi duy nhất : nhà xuất bản Tôn giáo trực thuộc ban Tôn giáo Chính phủ. Và chúng ta đều biết các ấn phẩm Công giáo chỉ đếm được trên đầu ngón tay trong 28 năm qua, "thời kỳ các tôn giáo tại Việt Nam phát triển chưa từng thấy" (lời ông trưởng ban Tôn giáo chính phủ). Một kinh nghiệm chua cay khác là bản tin Hiệp Thông của HĐGMVN : mỗi năm được ra 6 số, mỗi số 100 bản dày 50 trang A4 cho toàn thể Giáo hội Công giáo Việt Nam với gần 8 triệu người và chỉ phát hành sau khi được nhà nước kiểm soát nội dung chặt chẽ. Cuốn Giáo lư GH Công giáo bị ngang nhiên đục bỏ gần trăm chỗ. Cuốn "Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2001" dự định xuất bản tháng 3-2002, đến nay vẫn phải sửa đi sửa lại cho hợp ư nhà nước. Thành thử nó có trung thực hay không là một vấn đề. C̣n việc nhập khẩu các sách nghiên cứu Thánh Kinh, thần học để dùng trong các chủng viện và ḍng tu th́ chắc chắn các vị bề trên đều có câu trả lời hùng hồn.

6- Hiến pháp điều 36 xác định : "Nhà nước phát triển các h́nh thức trường quốc lập, dân lập và các h́nh thức giáo dục khác". Nghị quyết về công tác tôn giáo của trung ương Đảng khóa IX hứa hẹn "giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xă hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xă hội, giáo dục... của Nhà nước" (mục IV số 3). Pháp lệnh cũng tuyên bố dơng dạc : "Tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo được mở trường" (đ. 21) nhưng (chữ "nhưng" khốn nạn) quyền giáo dục của tôn giáo ở đây chỉ là "mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn..." Một gáo nước lạnh tạt vào mặt các giáo hội !

Đứng trước hiện t́nh giáo dục ngày càng tồi tệ về lượng và chất, trước nạn thiếu hụt giáo viên trường sở, nạn gian lận bài vở thi cử, nạn dạy thêm học thêm, nạn học tủ học vẹt học đối phó, nạn thu học phí, trường phí bừa băi, nạn trường giả, lớp giả, điểm giả, bằng giả, tṛ quái gở "thi học sinh đẹp", nay lại thêm nạn học thế thi thế thi kèm... khiến giới trẻ hụt kiến thức, mất chí hướng, thiếu lư tưởng, mờ mịt tương lai, suy đồi đạo đức, cá nhân và xă hội lâm cảnh tổng khủng hoảng nhân cách.... khiến báo chí phê b́nh dậy đất, nhân dân kêu trời không thấu... người ta những tưởng ĐCS sẽ ưu tư đến tiền đồ dân tộc, từ bỏ thành kiến mặc cảm đối với các giáo hội vốn đă chứng tỏ sở trường "thụ nhân" qua bao thời đại, mà để cho tôn giáo góp phần giáo dục giới trẻ cách tích cực hơn, sâu rộng hơn.... Thế nhưng vẫn là một đường lối giáo dục độc đoán và sai lầm, một chính sách ngu dân độc hại và tàn nhẫn, không nhằm mục đích nào khác hơn là tiêu diệt ở nơi giới trẻ, sinh viên, học sinh, sự thức tỉnh của lương tri, khả năng phản kháng v́ lẽ phải. Các nhà lănh đạo tôn giáo nh́n bao thế hệ trẻ hư hỏng mà đành bó tay bất lực, gồng ḿnh chữa chạy giải độc cũng chẳng tới đâu !

7- Việc tu bổ, sửa chữa, xây dựng cơ sở tôn giáo (PL đ. 23 ; NĐ đ. 15), nói cho ngay là từ khoảng 10 năm trở lại đây có phần dễ dàng. Nhiều thánh đường, chùa chiền khang trang, mỹ thuật, đồ sộ mọc lên. Nhiều vị chức sắc được cho đi nước ngoài quyên tiền về xây dựng nơi thờ phượng. Bộ mặt xă hội, nhưng nhất là bộ mặt chế độ đẹp thêm. Tôn giáo có vẻ được tự do. Nhà nước cũng thu về đô la không ít. Tuy nhiên, không phải mọi tôn giáo đều được phép xây nhà thờ. Nhiều Hội thánh Tin lành vẫn phải cử hành việc thờ phượng tại tư gia (có khi thuê pḥng khách sạn), dĩ nhiên với không ít mối nguy bị giải tán, bắt bớ, phạt tiền. Điển h́nh gần đây là vụ nhà thờ Tin lành ở phường B́nh An quận 2 Sài g̣n. Phía Công giáo, việc xây nhà nguyện ở những vùng sâu vùng xa,cho đồngbào sắc tộc thiểu số từ 28 năm nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn trắc trở. ĐCS đôi khi c̣n chơi tṛ ma giáo : xin xây nhà thờ th́ bảo đợi có linh mục đă ; xin phái linh mục đến th́ bảo đợi có nhà thờ đă ! Nhiều công tŕnh tôn giáo như ṭa giám mục, học viện, trung tâm mục vụ được phép xây với điều kiện, với trao đổi, thỏa hiệp chứ chẳng phải cho không ! Ngoài ra, Đảng vẫn cấm các tôn giáo nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc cấm chuyển giao nhà đất của cá nhân thành cơ sở thờ tự của tôn giáo, thành thử tôn giáo khó mà xây dựng được những nơi thờ tự mới hoặc mở rộng những nơi thờ tự cũ (PL đ. 25, k.2).

 

IV- Kiểm soát tài sản của tôn giáo

 

Với PL và NĐ lần này, ĐCS quyết đi sâu vào nội t́nh sổ sách của các tôn giáo để ḍm ngó, kiểm tra tài chính, tài sản. PL đ. 26 nói : "Kinh phí hoạt động của các giáo hội phải được sử dụng công khai đúng mục đích...". Công khai là ǵ nếu không phải là khai báo với công quyền ? Rồi điều 27 khẳng định : "Việc tổ chức quyên góp, tiếp nhận viện trợ nước ngoài của tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo do Chính phủ quy định". Đang khi đó, Nghị định 26/CP đ. 8 chỉ nói "Tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép".

Đi vào áp dụng chi tiết, điều 3 NĐ bắt khai báo tài sản, tài chính của tổ chức tôn giáo muốn được nhà nước cho phép thành lập và công nhận. Điều 6 th́ bắt các ḍng tu khai báo về cơ sở vật chất bao gồm tài sản tài chính khi muốn đăng kư hoạt động. Cuối cùng điều 10 buộc các giáo hội phải khai báo các nguồn thu, các khoản chi, khả năng tài chính, điều kiện cơ sở vật chất khi tiến hành thủ tục thành lập trường đào tạo chức sắc và tu sĩ (tức là chủng viện và học viện ḍng tu bên Công giáo). Phải chăng ĐCS muốn t́m biết thấu đáo nồi cơm, tủ áo, két sắt, mảnh vườn của các giáo hội lớn bé đến đâu để giúp đỡ các pháp nhân này với danh nghĩa "cha mẹ của dân", theo chức năng "quản lư nhà nước trên toàn xă hội" ? Đảng nhân danh cái ǵ để đ̣i quyền nắm trọn sổ sách thu chi của các tập thể đó ?

Dĩ nhiên có thể chấp nhận việc khai báo bất động sản (đất đai, nhà cửa) để có "thẻ đỏ" chứng nhận quyền sở hữu. Nhưng trên thực tế, khi đan viện Thiên An, thánh địa La Vang, giáo xứ Loan Lư (ví dụ vậy) khai báo đầy đủ số đất đai sở hữu cách hợp pháp từ lâu th́ đă được ĐCS công nhận như thế nào, phải chăng trọn vẹn ? Người ta nhớ lại khoảng trước 1980, nhà nước đột nhiên ra luật buộc các tư nhân đăng kư số vàng ḿnh đang có, gọi là "để bảo vệ quyền lợi sở hữu chủ". Nhiều cá nhân và tập thể ngay t́nh khai báo và đă thấm thía cái biện pháp "bảo vệ quyền lợi" này. Ṭa tổng giám mục Huế, do nghi ngờ ư đồ của Đảng, đă chỉ đăng kư một ít số vàng của ḿnh, phần c̣n lại đem chôn giấu, khiến Đảng đâm nghi. Và lấy lư do không chấp hành pháp luật, công an đă đến lục soát Nhà Chung giáo phận, tịch thu hơn sáu chục lượng vàng. Người ta cũng không quên việc vô số tài sản của các tôn giáo đă bị Đảng trưng thu, tịch thu, buộc trao nhượng bất thỏa đáng sau 1954 và 1975, khiến cha Nguyễn Văn Lư, trong Lời Kêu gọi số 3 đă mạnh mẽ lên án : "Không một quyền lực nào trên trần gian hôm nay có quyền tước đoạt tài sản chính đáng của người khác, của tổ chức chính đáng khác, rồi t́m cách hoán chuyển một cách tinh vi các quyền lợi vào tay một thiểu số có chức có quyền cả...". Thế nhưng ḷng tham vô đáy của Đảng vẫn không dừng lại. Ở cái thời buổi kinh tế thị trường, đầu tư xây dựng ồ ạt này, Đảng lại ngang nhiên vặn vẹo pháp luật để cướp đất linh địa La vang, đan viện Thiên An, ḍng Chúa Cứu Thế Huế, ḍng Giuse Nha trang... đất đai của nhiều Hội thánh Tin lành tại Tây nguyên, Cần thơ, Sài g̣n v.v...

Ngoài ra, ĐCS c̣n cố t́nh làm khó tôn giáo khi để cho tài sản của các giáo hội ở vào t́nh trạng pháp luật không rơ ràng (các tổ chức trong giáo hội chẳng được công nhận như pháp nhân như đă nói trên, hay những quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt sở hữu chung trong Luật Dân sự điều 235-237 chẳng hề phù hợp với những đặc tính các tài sản thuộc tôn giáo), khiến các giáo hội không thể sử dụng quyền sở hữu của ḿnh.

 

V- Kiểm soát liên lạc của tôn giáo

 

Đức TGM Nguyễn Kim Điền, trong Thư chung gởi TGP Huế ngày 17-10-1984 (nói đến đợt "làm việc" 120 ngày của ngài từ 5-4-1984), có kể rằng : "Trong buổi thẩm vấn cuối cùng ngày 15-10-1984... đáp lại câu hỏi có nội dung : "Căn cứ vào đâu mà chống đối tổ chức Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước", tôi nói : "Tôi căn cứ vào Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ ngày 8 tháng 3 năm 1982" (dựa theo Giáo Luật cũ và mới của Ṭa Thánh : cấm các Giáo sĩ, Linh mục không được thành lập và tham gia các Hiệp hội có tính cách nghiệp đoàn chính trị), người phỏng vấn tôi lại căn cứ vào Nghị quyết 297/CP, phần II, số 6c : "Những tài liệu tôn giáo từ các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài gửi cho các tổ chức tôn giáo nếu có điều ǵ trái pháp luật, chính sách của nhà nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, th́ các tổ chức tôn giáo không được phổ biến và thực hiện ! !" và nói đại để rằng : "Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ, và kể cả Giáo luật mới cũng chưa được nhà nước kiểm duyệt, huống chi là đi ngược với chính sách nhà nước, nên đem thi hành là vi phạm...".

Chính trong tinh thần câu nói của tay cán bộ này cũng như trong tinh thần câu nói của Nghị quyết Trung ương Đảng khóa 9, mục III : "Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà Nước" mà người ta phải hiểu PL đ. 32 "Quan hệ quốc tế và hoạt động đối ngoại tôn giáo của tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp luật Việt Nam". Pháp luật Việt Nam không ǵ khác là ư muốn độc tôn của đảng. Thành ra khi Đảng tuyên bố tại Việt Nam có tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, không có tù nhân chính trị, không có tù nhân lương tâm th́ các Giám mục, Thượng tọa cũng phải hùa theo Đảng mà nói dối trắng trợn như thế ; khi nhà nước mở chiến dịch toàn quốc để bênh vực chế độ bạo tàn Saddam Hussein, phản đối dự luật Nhân quyền cho VN (đưa ra tại Hoa Kỳ) hay khi nhà nước cử phái đoàn ra ngoại quốc "giải độc dư luận" về vấn đề tôn giáo, th́ không ít vị chức sắc tôn giáo đă được "yêu cầu" tham gia hay thậm chí tự nguyện tham gia. Cái gọi là "Tâm thư linh mục Nguyễn Văn Lư gởi Hội đồng GMVN" hôm 17-4 và "Tâm thư linh mục NVL gởi Lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ" hôm 27-6 vừa rồi là hai màn dàn dựng mới nhất theo chiều hướng đó. Thường xuyên hơn, hai tuần báo công cụ "Người Công giáo Việt Nam" và "Công giáo & Dân tộc" cũng như đám thành viên Ủy ban Đoàn kết đều đă luôn cung cúc tận tụy thực hiện điều này.

Điều 34 : "Tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài, mời tổ chức, cá nhân tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam phải được phép của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ" và đ. 35 : "Tổ chức tôn giáo, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo trong nước khi tham gia, gia nhập các tổ chức tôn giáo nước ngoài hoặc triển khai chủ trương của tổ chức tôn giáo nước ngoài về hoạt động tôn giáo phải được sự chấp thuận trước của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ" cho thấy "tư tưởng Hồ Chí Minh" trong Sắc lệnh 234, điều 13 đă bị hậu duệ dày xéo không thương tiếc : "Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Riêng về Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo hội Việt Nam với Ṭa Thánh La mă là vấn đề nội bộ của Công giáo". Và với hai điều 34-35 nói trên, th́ việc triển khai những hoạt động hoàn toàn thuộc nội bộ tôn giáo (như việc phổ biến thư ĐHY Angelo Sodano gởi ĐGM Nguyễn Minh Nhật cấm linh mục tu sĩ tham gia UBĐKCG ngày 20-5-1992, việc phổ biến Huấn dụ của Đức Thánh Cha đầu năm 2002 cho HĐGMVN, thậm chí việc triển khai đọc kinh Mân Côi có thêm năm Mầu nhiệm sáng, theo chủ trương của Ṭa thánh...) đều phải được sự chấp thuận trước của Trưởng ban Tôn giáo ! C̣n việc ĐCS luôn áp đặt ư muốn lên giáo triều Vatican về vấn đề bổ nhiệm giám mục, việc nhiều chức sắc được phép ra nước ngoài phải gặp công an tôn giáo trước khi đi để nghe bảo ban mọi chuyện "nên làm" và "không nên làm" ở hải ngoại là điều ai cũng quá rơ và ngán ngẩm. Có dư luận cho rằng số lần xuất ngoại của các chức sắc tôn giáo là thước đo sự ngoan ngoăn của các vị này đối với Đảng.

 

KẾT LUẬN

 

Qua 20 lần dự thảo Pháp lệnh thật ra không nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của công dân tôn giáo nhưng là để hợp pháp hóa cách hệ thống, chặt chẽ, và đầy đủ hơn mọi hành động của ĐCSVN đă đang và tiếp tục chà đạp và bóp chết nguyện vọng đó. Điều đó chỉ cho thấy rơ thêm những tính chất không thể thay đổi của cái Đảng độc tài toàn trị ấy đó là khinh rẻ, chà đạp ư kiến nhân dân và quyết tâm dùng bạo lực pháp lư (đặc biệt trong thời buổi "kinh tế thị trường") lẫn bạo lực vũ khí (có nơi, có lúc) để gông cổ các giáo hội.

Nhưng thế giới hiện nay là một mái nhà chung, được điều hành bởi công pháp quốc tế (đề tài Sứ điệp ḥa b́nh 2004 của Đức Gioan-Phaolô II). Nhân loại văn minh đă h́nh thành nên những quan niệm phổ quát về tự do tôn giáo, được diễn tả đầy đủ rơ ràng trong các Công ước về nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo cũng đă có những nhận định rất đúng đắn về tự do đó trong Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II. Thành thử trước nguy cơ sợi xích sắt sắp tṛng quanh cổ, thiết nghĩ các tổ chức tôn giáo tại VN chẳng cần góp ư xây dựng Pháp lệnh Tôn giáo hay mè nheo xung quanh Sắc lệnh 234 (mà ông Hồ kư năm 1955) v́ chỉ hoàn toàn vô ích thôi. Thật vậy trừ khi các tôn giáo có thể tạo ra được vào lúc này những phản kháng tập thể, rộng khắp, và công khai, bằng không Pháp lệnh thế nào cũng được thông qua, Nghị định thế nào cũng được ban hành với những nội dung đúng theo kế hoạch mới đối phó với tôn giáo mà Đảng đă hoạch định. Trái lại một điều mà cộng đồng tín hữu Công giáo Việt Nam qua hàng ngũ lănh đạo của ḿnh (và cộng đồng các tôn giáo khác cũng có thể làm tương tự) có thể làm được lúc này và nên làm đó là thẳng thắn và công khai tuyên bố với ĐCS : "Nói chung chúng tôi phản đối mọi văn bản pháp quy dành riêng cho các công dân có tôn giáo v́ sự hiện hữu của một văn bản như thế tự nó đă là sự đối xử không b́nh đẳng mà có phân biệt đối với những công dân đó. C̣n nói riêng đối với Pháp lệnh và Nghị định về tôn giáo mà Nhà nước đang làm, th́ chúng tôi hoàn toàn phủ nhận và do đó không thể tuân giữ, trừ khi bị cưỡng ép, bất cứ điều ǵ trong hai văn bản đó mà đối nghịch với các Công ước nhân quyền của thế giới mà chính Nhà nước cũng đă kư vào hay đối nghịch với Tuyên ngôn về tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II đă quy định một trong những nguyên tắc sống của người Công giáo". Có thế th́ khi ĐCS phê chuẩn Pháp lệnh tôn giáo và ban hành Nghị định tôn giáo th́ trong nước và ngoài nước vẫn thấy rơ ràng là các cộng đồng tôn giáo ở VN không hề cam chịu trói buộc mà cùng lắm chỉ bị Đảng cưỡng bức, ép buộc. Nhược bằng cộng đồng các tôn giáo im lặng theo nghĩa nhẫn nhục, cam chịu (hay thậm chí có những tín đồ c̣n thỏa hiệp đồng t́nh), th́ Đảng sẽ lấy cớ luật pháp mà đàn áp hiệu quả hơn quyền tự do tôn giáo của họ, nghĩa là dựa vào pháp luật bất công mà họ đă không công khai, thẳng thắn phản đối. Nhưng bao lâu mà cộng đồng các tôn giáo tại VN c̣n cam chịu để quyền tự do tôn giáo của ḿnh bị trói buộc, th́ chắc chắn bấy lâu xă hội VN vẫn tiếp tục lún sâu vào những tệ đoan thảm trạng mà thư của các GMVN gửi Quốc hội cũng như bao vị lănh đạo tinh thần khác đă và đang đau đớn tố cáo.

Chớ ǵ nhờ lời cầu bàu của các thánh Tử đạo Việt Nam, những chứng nhân vô địch của quyền tự do tôn giáo, và qua việc kiên tŕ tranh đấu bất bạo động cho tự do của những ai c̣n yêu mến quê hương, đồng bào, và các Giáo hội, nguyện xin Thiên Chúa ban cho mọi tôn giáo tại Việt Nam sớm tự do thực sự và hoàn toàn.

Viết xong tại Huế ngày 10-9-2003
Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải & Lm Phêrô Phan Văn Lợi

 

Trở về trang chính