Tiền đồ phát triển
của đất nước
và trách nhiệm của giới trí thức Việt Nam
Lê Hồng Hà
Ngày 16-2-2001 công an vô
cớ bất thần vào nhà lục soát, lấy đi các tài
liệu của ông Lê Hồng Hà (Lê Văn Quư), một
cựu đảng viên cao cấp trong Ban bảo vệ
đảng bị khai trừ v́ hỗ trợ việc
đ̣i đảng CSVN phục hồi cho những
người bị trù dập oan ức trong vụ án được
gọi là " xét lại-chống
đảng " trong thập niên 60. Ông cũng đă
từng bị kêu án 2 năm tù v́ " tội "
đă " tiết lộ tài liệu mật của Nhà
nước " (lá thư của ông Vơ Văn Kiệt
gởi Bộ chính trị) cùng với ông Hà Sĩ Phu hồi
năm 1995. Năm 1997, chính quyền phải thả tự
do cho ông ra trước thời hạn.
Bài viết dưới đây của ông bắt đầu được lưu truyền từ năm 1995. Đến nay, gần tới ngày họp đại hội ix, nó vẫn tiếp tục được chuyền tay ở trong nước, một phần v́ chính sách bưng bít của đảng cầm quyền, phần khác v́ những vấn đề đặt ra trong bài vẫn giữ nguyên tính thời sự.
Đi t́m con đường phát triển và lư luận phát triển cho đất nước luôn luôn là nhiệm vụ đặt ra đối với nhân dân và giới trí thức nước ta. Việc tham khảo sách vở, kinh nghiệm của nước ngoài là rất quan trọng nhưng không được dựa vào việc sao chép, trích lục từ các sách vở, kinh nghiệm ở nước ngoài. Nó chỉ có thể là kết quả, là sản phẩm của việc phân tích tổng hợp những bài học thành công và thất bại đă diễn ra trong hàng chục, hàng trăm năm vừa qua của dân tộc ta.
Trong một thời gian dài trước đây, phần lớn các nhà khoa học mới chú trọng nghiên cứu lĩnh vực đấu tranh giải phóng dân tộc của lịch sử, nhưng chưa chú ư đi sâu nghiên cứu mặt phát triển của xă hội trong các giai đoạn lịch sử. Do đó, đă có nhiều nhận định sâu sắc về quy luật đấu tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc, nhưng c̣n về nội dung, phương hướng của cuộc đấu tranh phát triển xă hội trong các giai đoạn lịch sử của nước ta c̣n quá ít bài nghiên cứu, nhất là vào thời kỳ hiện đại, kể từ thế kỷ 19 cho tới nay.
I. Nh́n lại sự vận động của xă
hội Việt Nam trong thế kỷ 20
Muốn suy nghĩ về tiền đồ phát triển tới đây của nước ta, th́ phải đánh giá được, lư giải được quá tŕnh chuyển động của đất nước Việt Nam trong lịch sử nhất là trong thế kỷ 20, đặc biệt là nửa sau của thế kỷ, gắn liền với sự chuyển động vũ băo của thế giới.
1. Trong nửa đầu thế kỷ, sau khi thực dân Pháp đặt được ách đô hộ ở nước ta _ đây là một thảm hoạ đối với dân tộc ta, thực dân Pháp đă lần lượt thực hiện các kế hoạch khai thác Đông Dương, nhằm thực hiện mưu đồ bóc đoạt tài nguyên nước ta. Nhưng đây cũng là thời kỳ mà xă hội Việt Nam tiếp xúc với nền kinh tế - văn hoá của Tây Phương. Và dù đă bị bóc lột thậm tệ, các tầng lớp nhân dân ta đă tiếp thu phần có ích, vươn lên tiếp nhận văn hoá Pháp, xông vào kinh doanh sản xuất và xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường có mở cửa một phần với bên ngoài và qua đó h́nh thành bước đầu thành phần kinh tế công nghiệp và thương nghiệp hiện đại với các nhà tư sản dân tộc, h́nh thành nền văn thơ mới, giáo dục mới, với các nhà văn, nhà thơ mới, những lớp trí thức mới v.v... Điều đó chứng tỏ sức sống của dân tộc Việt Nam dù c̣n bị đô hộ, dù bị bóc lột, nhưng một khi đă tiếp xúc với nền văn minh công nghiệp (dù chỉ là ở tŕnh độ thấp) th́ xă hội Việt Nam vẫn có khả năng tiếp thu, thâu hoá và thúc đẩy xă hội Việt Nam thoát khỏi trạng thái một xă hội nông nghiệp, khép kín, tự cấp tự túc. Tuy có những sự phát triển, nhưng việc giành lại độc lập phải chờ đến khi có Đảng Cộng sản với một chính sách đoàn kết rộng răi và trên quan điểm vũ trang lâu dài mới từng bước giải quyết được trọn vẹn. Trong mấy chục năm chiến tranh, các vùng tạm bị chiếm (1945 - 1954), và cả miền Nam (1955 - 1975) do vẫn giữ mối quan hệ với bên ngoài, và mở rộng nền kinh tế thị trường nên vẫn có những sự phát triển nhất định về kinh tế, văn hoá, xă hội. Điều này lâu nay thường bị bỏ qua, ít được quan tâm nghiên cứu.
2. Ở miền Bắc (1955 - 1975) nhân dân đă đi vào xây dựng chủ nghĩa xă hội theo mô h́nh mác-xít : kinh tế kế hoạch hoá chỉ huy tập trung, chế độ công hữu, nguyên tắc phân phối theo lao động, chuyên chính vô sản v.v... Trong suốt 20 năm do chỗ phải phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ, nên mô h́nh chủ nghĩa xă hội đó đă phát huy tác dụng tích cực động viên mọi lực lượng để đạt một mục tiêu cao nhất là chiến thắng. Khối lượng ngoại viện to lớn, những tổn thất do chiến tranh gây ra đă làm cho chúng ta chậm phát hiện mặt ḱm hăm sự phát triển kinh tế của mô h́nh chủ nghĩa xă hội kiểu cũ.
3. Chỉ sau chiến thắng to lớn giải phóng cả nước (1975) khi ngoại viện (xét cả viện trợ của Mỹ và của Trung Quốc) bị giảm mạnh đột ngột, khi ta đưa kinh nghiệm cải tạo xă hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xă hội của miền Bắc vào miền Nam, và nhất là khi chính sách đối ngoại có phạm sai lầm đưa đất nước ở vào thế cô lập trên thế giới th́ toàn bộ những nhược điểm, những tác động tiêu cực của mô h́nh CNXH mác-xít đă bộc lộ ra một cách đầy đủ và toàn bộ đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xă hội trầm trọng kéo dài (1978 - 1988).
Sự đổi mới bắt đầu từ những sáng kiến của quần chúng đă nhanh chóng mở rộng từ một vài địa phương lan ra toàn quốc, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ nông nghiệp sang công nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ, từ cơ sở lên tới trung ương. Và qua đó đă h́nh thành một đường lối đổi mới tương đối hoàn chỉnh trong Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) với những đặc trưng chủ yếu : thừa nhận nền kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế, mở cửa với bên ngoài, phát triển quan hệ đối ngoại đa phương, mở rộng nền dân chủ nhân dân v.v...
4. Quan sát lịch sử phát triển của nước ta và nhiều nước khác, có thể rút ra kết luận: mỗi đất nước, mỗi dân tộc, để có thể tồn tại và phát triển, đều phải xử lư ba mối quan hệ :
* Quan hệ giữa nhân dân với đất đai, môi trường, thiên nhiên của nước ḿnh... Nghĩa là phải làm thế nào bảo vệ và bồi dưỡng được môi trường sống, chăm sóc và bồi dưỡng đất đai, sử dụng hợp lư các tài nguyên.
* Quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các tôn giáo, giữa các dân tộc, giữa nhân dân các vùng trong nội bộ đất nước. Nghĩa là chúng ta chủ trương một đường lối đoàn kết, hoà hợp, hiệp thương để cùng chung sức xây dựng, phát triển đất nước hay chủ trương phân biệt đối xử, đấu tranh quyết liệt giữa bộ phận này chống lại bộ phận kia.
* Quan hệ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Nghĩa là t́m ra cách xử lư tối ưu để đem lại lợi ích lớn nhất cho dân tộc ḿnh, cho nhân dân ḿnh, không để bị lệ thuộc bởi lợi ích hẹp ḥi của một tầng lớp nào, hoặc một hệ tư tưởng nào.
5. Cho tới nay, các học thuyết đang thịnh hành chưa đáp ứng được toàn diện các yêu cầu nói trên, và do nhiều nguyên nhân c̣n bị nhiều sự hạn chế về mặt lịch sử và hệ tư tưởng.
V́ vậy nhân dân ta, qua giới trí thức của ḿnh, phải đi t́m con đường phát triển của ḿnh, phải vượt lên các học thuyết hiện có để xây dựng một lư luận phát triển mới đáp ứng toàn diện các nội dung yêu cầu nói trên cho đất nước.
Đây là một công việc cực kỳ trọng đại, mà mỗi người tham gia - dù có thông minh đến đâu - cũng chỉ có thể đóng góp khoảng một phần triệu của lư luận phát triển mới đó mà thôi.
Công việc trọng đại đó đ̣i hỏi phải có sự chung sức chung ḷng thật sự chân thành, khiêm tốn, của giới trí thức Việt Nam, tránh thái độ kiêu ngạo, bè phái, học phiệt, trong sinh hoạt lư luận, học thuật. Ở đây phải tôn trọng quyền được phạm sai lầm của các nhà khoa học khi đi vào một con đường mới, chưa khai phá.
6. Điều đáng buồn, cho đất nước là cho tới nay, một số nhà lư luận " giáo điều " vẫn giữ nguyên sự " cuồng tín " đối với các học thuyết ngoại nhập và tệ hại hơn nữa, họ dùng mọi thủ đoạn để trù dập, đàn áp, mọi ư kiến khác với họ. Họ lợi dụng các báo chí của Đảng để tuỳ tiện phê phán, lên án các quan điểm khác ḿnh, " bịt miệng đối phương ", nhưng họ không c̣n nhân cách để tự thấy sự trơ tráo, đáng sỉ nhục của họ. V́ tŕnh độ học vấn của họ quá thấp, họ lo sợ sự bùng nổ trí thức chân chính của dân tộc đóng góp cho đất nước, và kết cục là, đi ngược lại lợi ích của đất nước, bóp nghẹt trí tuệ của dân tộc.
II. Đặc trưng con đường phát
triển tiến lên của xă hội Việt Nam
Từ sự phát triển của xă hội nước ta trong thế kỷ 20 qua hàng loạt những bài học thành công và thất bại, đặc biệt qua những thành tựu của công cuộc đổi mới có thể nêu lên những nét đặc trưng nhất của con đường phát triển của đất nước ta :
1. Phải xác định đúng đắn mục tiêu phản ánh được khát vọng sâu xa của toàn dân, và có khả năng động viên đoàn kết được toàn dân đi vào xây dựng và phát triển đất nước : "Dân giàu, nước mạnh, xă hội dân chủ, công bằng, văn minh".
Đặt mục tiêu sai lầm có thể gây nên sự chia rẽ trong cộng đồng dân tộc và làm yếu sức tiến lên của cả dân tộc.
2. Phải từ bỏ con đường kế hoạch hoá tập trung phủ nhận kinh tế thị trường, phải thừa nhận kinh tế thị trường, phải nhận thức kinh tế thị trường là con đường duy nhất bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xă hội.
3. Không nên vội vă công hữu hoá, mà phải chấp nhận một chế độ sở hữu đa dạng, một nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo chế độ tư hữu thực sự, nhằm phục vụ đắc lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
4. Phải thực hiện đường lối đoàn kết, hoà hợp các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo để thúc đẩy xă hội phát triển, đồng thời bảo vệ tổ quốc.
5. Phải thực hiện một chính sách mở cửa, phát triển quan hệ đối ngoại đa phương, lấy lợi ích của dân tộc, của đất nước làm căn cứ, tránh lấy hệ tư tưởng chi phối chính sách đối ngoại.
6. Phải xây dựng một nhà nước pháp quyền do dân, v́ dân, của dân, mở rộng dân chủ, tôn trọng quyền con người, kết hợp một cách tối ưu giữa cá nhân với cộng đồng, phê phán các khuynh hướng cực đoan của chủ nghĩa cá nhân, cũng như của chủ nghĩa tập thể.
7. Phải thừa kế và phát huy truyền thống hoà hợp, khoan dung về tư tưởng của dân tộc, tránh thái độ cực đoan, hẹp ḥi, bài tha. Nền tảng tư tưởng của chúng ta sẽ là chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, các học thuyết của bên ngoài kể cả đạo Nho, Kinh Dịch, đạo Phật, đạo Lăo, và chủ nghĩa Mác, các lư thuyết kinh tế, xă hội của phương Tây, là rất quan trọng, nhưng việc tham khảo đó chỉ nhằm giúp chúng ta về mặt phương pháp luận để ta t́m hiểu ta, và tự ta đi t́m con đường phát triển của đất nước. Con đường đó sẽ không thể bắt chước bất cứ mô h́nh của nước nào khác (hoặc Trung Quốc, Liên Xô như đă có lúc đặt ra trước đây, v.v...).
Và chúng ta sẽ không tự hạn chế bởi một học thuyết ngoại lai nào, chúng ta sẽ phải sáng tạo ra những khái niệm của ḿnh, không tự hạn chế trong các khái niệm đă có (như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyên chính vô sản, v.v...), không cứ loay hoay trong những công thức đấu tranh hai con đường tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa, " định hướng xă hội chủ nghĩa ", " thời kỳ quá độ ", v.v...
III. Trạng thái đặc thù hiện nay của xă
hội Việt Nam
1. Hiện nay, xă hội Việt Nam đang tiến lên trong một trạng thái đặc thù : các tầng lớp nhân dân cố gắng hoà nhập vào thế giới, t́m mọi cách làm giàu để phát triển đất nước, thực hiện khẩu hiệu " dân giàu, nước mạnh ". Trong khi đó, các cấp lănh đạo th́ do dự vừa muốn thúc đẩy đổi mới, lại vừa e sợ rụt rè không dám tiến lên... Xét chung lại, dân muốn tiến lên, xă hội đ̣i tiến lên, nhưng lănh đạo th́ lại vừa tiến vừa e ngại.
Xu thế chung là dân từng bước đẩy lên, lănh đạo từng bước lùi dần, phải tiếp nhận sáng kiến của dân, nhưng đồng thời lại muốn hăm lại.
2. Đặc trưng của tầng lớp lănh đạo là ǵ ? Vừa thực dụng trong đời sống thực tế, lại vừa giáo điều, bảo thủ trong lời nói, văn bản. Trong đời sống thực, một số khá đông cán bộ cốt cán, đương chức ở tất cả các cấp (từ trung ương tới cơ sở) ra sức lợi dụng cương vị công tác của ḿnh để xoay xở cho cá nhân, cho vợ con, cho gia đ́nh ḿnh, chuẩn bị vốn liếng, để khi rời bỏ vị trí, th́ đă có cơ sở vững chắc. Chính v́ vậy mà t́nh trạng hối lộ, tham nhũng, làm ăn bằng cách đánh cắp tài sản của Nhà nước, lợi dụng chức vụ ngày càng phát triển một cách tràn lan, phổ biến, không tài nào ngăn chặn nổi. Đó là xu thế vận động thực của nhiều quan chức trong các cơ quan Đảng, Nhà nước hiện nay.
Nhưng để che đậy các hành động xấu xa đó, vừa để ổn định tâm lư, vừa để lừa mị dân chúng, để giữ được chức vị (đồng nghĩa với giữ được các đặc quyền đặc lợi hiện nay), th́ họ lại càng phải nói to, nhấn mạnh những từ ngữ " cách mạng ": nào là " phải kiên tŕ định hướng xă hội chủ nghĩa ", " phải kiên tŕ chủ nghĩa Mác - Lênin ", " phải kiên quyết chống mọi kẻ thù đang xuyên tạc và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin ", " phải nêu cao đạo đức Hồ Chí Minh, chống chủ nghĩa cá nhân " v.v... Những khẩu hiệu đó thực ra đă không c̣n nội dung và sức sống nữa.
3. Chúng ta không phủ nhận là trong Đảng c̣n có nhiều người vẫn một ḷng thực tâm v́ dân v́ nước. Nhưng đại bộ phận những người này đă về nghỉ, và cũng chẳng có quyền thế ǵ và do đó chẳng có tác dụng ǵ nữa. Trong số đương chức, cũng có không ít người thực tâm v́ dân v́ nước, nhưng v́ họ chỉ là số ít, họ bị " vô hiệu hoá ", họ cảm thấy " bất lực " và họ đang đi vào con đường tự lừa dối ḿnh.
Trong đời sống xă hội, " lời nói không đi đôi với việc làm ", " học không đi đôi với hành ", thói " đạo đức giả " đă trở thành lối sống phổ biến.
4. V́ sao lại nảy sinh h́nh thái đặc thù của sự phát triển xă hội Việt Nam như trên ? V́ sao trong lănh đạo lại xuất hiện một trạng thái vừa muốn tiến lên, lại vừa muốn ḱm hăm ?
* " Dân muốn tiến lên, muốn làm giàu, muốn đất nước giàu mạnh " là khát vọng cháy bỏng của mọi người. Nhưng trước đây do chiến tranh, do cơ chế bao cấp quan liêu ḱm hăm, dân chưa có điều kiện thực hiện khát vọng của ḿnh. Nay chiến tranh đă kết thúc, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng, chế độ xă hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước XHCN cũng bị khủng hoảng và bị sụp đổ, th́ người dân phải và có thể đi t́m con đường tiến lên. Đó là một xu thế mạnh mẽ không thể đảo ngược được.
* Lănh đạo có trạng thái do dự, ngoài nguyên nhân lợi ích của tầng lớp, c̣n là v́ không đi kịp với thời thế, không kịp thời xây dựng lư luận phát triển cho đất nước trong một t́nh h́nh mới của thế giới và của nước ta.
Do tŕnh độ hạn chế, do bị cầm tù bởi những nguyên lư kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin mà bản thân họ cũng chưa hề nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống, họ không đủ sức phân tích t́nh h́nh xă hội, họ đâm ra hoang mang, hốt hoảng cố ra vẻ " kiên định cách mạng ", " kiên định lập trường vô sản ", " kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin ". Họ nói lấy được, họ tuỳ tiện in sách, in báo, thẳng tay đàn áp những người có ư kiến khác ḿnh (mà họ gắn cho đủ loại nhăn hiệu nào là xét lại, cơ hội, nào là chống đối, nào là phụ hoạ với đế quốc Mỹ, v.v...) và thu hẹp sinh hoạt trí tuệ trong Đảng, và trong xă hội.
Họ bóp nghẹt quyền dân chủ, quyền tự do tư tưởng của các công dân với nhăn hiệu phải kiên tŕ chuyên chính vô sản (?). Họ không tiếp nhận nổi và không khái quát nổi trí tuệ của dân tộc v́ họ tự giam ḿnh trong những giáo lư lỗi thời, họ ngày càng thoát ly quần chúng, thoát ly thực tiễn, thoát ly dân tộc. Họ không thấy rằng chính họ đang làm nghèo sinh hoạt tinh thần, làm thui chột trí tuệ của dân tộc, của tầng lớp trí thức.
5. Do đó, việc khái quát những kinh nghiệm thực tế, việc tổng hợp những ư kiến trong giới trí thức (đang thực tâm trăn trở cho lợi ích của dân tộc) với một thái độ khiêm tốn, khoan dung, hoà hợp, dân chủ, để đi t́m cho đất nước con đường phát triển tối ưu, xây dựng một lư luận phát triển để đẩy nhanh bước tiến lên của xă hội, khắc phục bệnh sùng ngoại, bảo thủ, cố chấp, hẹp ḥi, xơ cứng đang chi phối giới lănh đạo trận địa lư luận, trở thành nhiệm vụ then chốt của giới trí thức Việt Nam trong việc thúc đẩy xă hội tiến lên trong giai đoạn hiện nay. Trách nhiệm đó của giới trí thức là do nhu cầu phát triển khách quan của bản thân xă hội đặt ra, chứ không phải do ai đó tự dặt ra một cách chủ quan.
IV. Đi t́m con đường phát triển của xă
hội Việt Nam, xây dựng một lư luận phát
triển cho đất nước
1. Vậy mục tiêu của nhân dân ta là ǵ ? Mục tiêu đó, về tổng quát đă được Bác Hồ nêu lên một cách rơ ràng trong di chúc : " Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới ".
Điều kỳ lạ nhất cần phải nêu lên là khi thấy có những kiến nghị " cần phải giương cao mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xă hội dân chủ, công bằng, văn minh " nhưng cần phải tạm hoăn nhăn hiệu " chủ nghĩa xă hội ", th́ giới lư luận " giáo điều " dẫy nẩy lên như " đỉa phải vôi ", họ lên án kiến nghị đó nào là " sự phản bội lại những lư tưởng cao đẹp của những người cộng sản " (?), là " chống lại quy luật phát triển tất yếu của lịch sử đă được chủ nghĩa Mác phát hiện " (?), nào là " đi ngược lại khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam " (?), nào là " chống lại điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam " (?), v.v... Họ lợi dụng các báo, đài, các hội nghị để phê phán, đả kích các kiến nghị đó, nhưng họ đều lờ tít đi không dám nói ǵ đến Di chúc của Bác Hồ. Họ vẫn tự xưng là tuân theo lời dạy của Bác Hồ, nhưng chính trên vấn đề tạm hoăn khẩu hiệu chủ nghĩa xă hội chính những nhà lư luận chính thống hiện nay đang chống lại tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đang lên án Hồ Chí Minh. Họ ở vào trạng thái " gà mắc tóc ", " tiến thoái lưỡng nan ".
2. Cái mà nhân dân ta mong muốn xây dựng sẽ là một chế độ xă hội ngày càng tiến bộ hơn so với xă hội hiện nay, và sẽ ngày càng tiến lên. Nội dung của chế độ xă hội đó có thể được biểu hiện trên các lĩnh vực cơ bản sau đây :
* Có sự tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định.
* Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện tính theo đầu người : dinh dưỡng, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, tuổi thọ.
* Chính sách xă hội với phụ nữ, người già, người tàn tật, mồ côi, cô đơn, v.v... được cải thiện từng bước.
* Quan hệ xă hội văn minh
* Môi trường được bảo vệ
* Nền dân chủ ngày càng tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng.
3. Nếu như trước đây, trong lịch sử xă hội Việt Nam chưa hề có các chế độ nô lệ, chế độ phong kiến phương Tây (lănh chúa, lănh địa, nông nô), chế độ tư bản chủ nghĩa như đă được các sách kinh điển nêu lên, th́ tới đây chế độ xă hội ở Việt Nam cũng sẽ không phải là cái mô h́nh chủ nghĩa xă hội như đă được phác hoạ trong các sách kinh điển, hoặc như đă được xây dựng ở Liên Xô và các nước Đông Âu mấy chục năm trước đây (mà nay đă sụp đổ tan tành). Nó cũng sẽ không phải là cái mô h́nh chủ nghĩa tư bản của các nước Âu Mỹ mà một số người đang la lối khi nêu lên nguy cơ của diễn biến hoà b́nh đối với nước ta.
Nó sẽ phản ánh đúng những khát vọng của nhân dân, phù hợp với những truyền thống của dân tộc, thích hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước.
4. Ở đây nhân dân ta đang t́m ṭi ṃ mẫm con đường phát triển của ḿnh, t́m ṭi xây dựng một chế độ xă hội mới ở Việt Nam chưa từng được nói trong bất cứ sách vở nào. Chúng ta không tự hạn chế trong những khái niệm về " chủ nghĩa xă hội ", " chủ nghĩa tư bản ", về " thời kỳ quá độ " đă nêu trong các sách kinh điển. Cái ǵ có ích trong học thuyết Mác hoặc trong các học thuyết khác trên thế giới, chúng ta đều cố gắng lựa chọn, phân tích và sử dụng... Do đó chúng ta phải chủ động sáng tạo, phải vươn lên, phải vượt qua chứ không làm nô lệ hoặc sùng tín bất cứ một học thuyết ngoại nhập nào.
Cái hướng dẫn chúng ta là : Mục tiêu thiết thực trước mắt của nhân dân ta trong từng thời gian ngắn là nhằm giành được những tiến bộ thực tế so với trước đó nhưng lại có khả năng thực hiện được và cứ như vậy liên tục tiến lên không ngừng.
V́ vậy con đường tư duy Việt Nam sẽ là con đường độc lập mà không lệ thuộc, dũng cảm nhưng khiêm tốn, thận trọng và tự tin, cởi mở mà không khép kín, khoan dung mà không biệt phái.
Vấn đề đặt ra, đối với nhân dân ta, không phải là việc vận dụng một học thuyết ngoại nhập nào mà là xây dựng một lư luận phát triển cho đất nước Việt Nam, trong đó ta có thừa hưởng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những nhân tố đúng đắn thích hợp trong học thuyết Mác và các học thuyết khác. Cái cần chống không phải là bệnh giáo điều và các bệnh cơ hội chủ nghĩa, mà là chống bệnh sùng tín các học thuyết ngoại nhập, lấy nó làm chuẩn để phê phán công kích mọi tư duy khác ḿnh.
Đó chính là truyền thống, cách tư duy vốn có của dân tộc, và cũng chính là cốt lơi của phong cách tư duy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Lê Hồng Hà