Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

 

Trở về trang chính

Chiến tranh Việt Nam: Chủ quyền Quốc gia, Xung đột Ý thức hệ

và Hòa giải Dân tộc

Lữ Phương

Lời Tác giả: Bài viết này vốn là những ý chính của một đề cương dự định triển khai thành một cuốn sách nhưng còn dang dở và chưa chắc được tiếp tục. Nhân ngày 30 tháng 4 năm nay, thấy trong và ngoài nước xuất hiện nhiều phát biểu rất mới mẻ, sôi nổi, đặc biệt những ý kiến xoay quanh cuộc bàn cãi của một người Việt ngoài nước với một người Việt trong nước về “tên gọi” của cuộc chiến tranh đã qua ở Việt Nam, tôi đã lục lại đề cương nói trên, sửa chữa thêm thắt (nhất là đoạn cuối), xin được gửi đến các vị đã tham gia tranh luận như một đóng góp để tham khảo[1].

Thực dân Pháp và cuộc đấu tranh giành chủ quyền và thống nhất của Việt Nam

Kết quả của một dòng chảy liên tục, cuộc chiến tranh 1954-1975 không thể tách rời khỏi quá trình đấu tranh giành lại chủ quyền và thống nhất dân tộc mà đất nước đã có được trước khi người Pháp xâm lược Việt Nam.

1. Cuộc đấu tranh này diễn ra dưới nhiều hình thức nhưng do truyền thống chống ngoại xâm của Việt Nam, do chính sách thực dân khắc nghiệt của Pháp nên bạo lực đã được hầu hết những tổ chức chống thực dân chọn lựa. Từ Cần Vương, Phan Bội Châu đến Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh … [2] Về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, hãy bắt chước nhiều người giả định điều sau đây: nếu sau cách mạng 1945, thực dân Pháp không trở lại Việt Nam thì điều gì sẽ xảy ra? Không phải ngưởi Việt Nam mà chính là những lực lượng ngoại xâm đã quy định hình thức bạo lực này. Rất tiếc, nhưng lịch sử 2000 năm của Việt Nam đã không thể sản sinh ra được một Gandhi.

2. Vấn đề ý thức hệ không hề được đặt ra trong suốt thời kỳ chống sự xâm lăng của Trung Hoa phương Bắc. Mục tiêu của cuộc chiến đấu này chỉ thuần là giữ gìn chủ quyền về mặt lãnh thổ, hoàn toàn không có khía cạnh ý thức hệ (chống Tàu về mặt xâm lược nhưng vẫn thần phục Tàu về “thi thư, văn hiến”). Nhưng đối với cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân thì vấn đề ý thức hệ lại đặt ra như một tất yếu: nếu không muốn phục hồi xã hội cổ truyền đặt cơ sở trên Nho giáo thì phải tìm một ý thức hệ mới để hiện đại hoá đất nước. Sự chọn lựa đầy cạm bẫy, nhưng không thể tránh khỏi vì bước vào thời hiện đại là bước vào “kỷ nguyên của những ý thức hệ” [3].

3. Do tính chất đặc biệt của thời kỳ bị ngoại bang thống trị, vấn đề ý thức hệ ở Việt Nam không giống với những quốc gia đã có độc lập và cũng không giống với thời kỳ Việt Nam đã giành được độc lập. Nó luôn gắn liền với nhưng muu tính chống lại sự đô hộ của nước ngoài để vừa phục hồi chủ quyền vừa tìm cách đi ra khỏi xã hội cổ truyền. Sự khác nhau về đường lối biểu hiện trong các cương lĩnh của những đảng chính trị là sự biểu hiện khác nhau về phương pháp đấu tranh để đạt mục tiêu hai mặt ấy. Trong tình thế đó, sự khác nhau về đường lối không hề dẫn đến những cái mà chúng ta gọi là “nội chiến ý thức hệ”.

4. Sự khác nhau ấy chỉ trở nên gay gắt khi một đường lối nào đó có dính dáng trực tiếp đến một thế lực ngoại lai đang trực tiếp thống trị Việt Nam. Không phải vô lý khi chủ trương “Pháp Việt đề huề” của Phạm Quỳnh đã bị các nhà nho theo đường lối duy tân kết án. Cũng không phải là vô lý khi tính chính đáng trong chủ trương của nhiều lực lượng chính trị ra đời từ chính sách “khai hoá” của thực dân đã bị nghi ngờ. Thực tế là khi những lực lượng này phát triển thì khát vọng muốn thay đổi nguyên trạng cũng nẩy nở. Nhưng do bị điều kiện hoá bởi nền văn hoá thống trị của thực dân, các ý thức hệ mà các lực lượng này đề xướng vẫn không vượt khỏi con đường thoả hiệp.

5. Tuy vậy, trong những tình thế cực đoan, các ý thức hệ đã bộc lộ tính chất biệt phái của chúng khi được sử dụng để phục vụ cho cuộc tranh giành quyền lực phát sinh trong lòng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Là những công cụ huyễn hoặc, các ý thức hệ đã tạo ra lý luận cho những mưu toan độc quyền chính nghĩa dân tộc: bất cứ những ai không theo “ta” đều có thể bị xem là “địch” hoặc “tay sai địch”. Các loại “địch” này là vô số: thực dân, đế quốc, bành trướng, Pháp, Mỹ, Nhật, Nga, Hoa … Thái độ này không phải là thuộc tính của một thứ ý thức hệ riêng rẽ nào. Nó càng trở nên nguy hiểm khi một thế lực chính trị nào đó giành được chính quyền và nhân danh ý thức hệ ấy để thống trị.

Ý thức hệ cộng sản và không cộng sản ở Việt Nam

Trong tất cả những lý luận chính trị hiện đại đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, có hai hệ thống đã đi song hành với nhau cho đến ngày nay, được nhiều người tổng kết và gọi đó là ý thức hệ không cộng sản và ý thức hệ cộng sản.

1. Khái niệm “ý thức hệ không cộng sản” rất rộng rãi và mơ hồ, tuy vậy xét về thực chất, thì đây chính là ý thức hệ tư sản dân quyền, bắt nguồn từ Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp và Tuyên ngôn Dân quyền của Mỹ. Ý thức hệ này đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, nhưng nguồn cảm hứng tạo ra hành động lại xuất phát từ cuộc Cách mạng Tân hợi do Tôn Dật Tiên lãnh đạo và được Quốc Dân Đảng Trung quốc tiêp nối. Khi từ Nhật giạt sang Trung quốc, sau chủ trương Đông du thất bại, chính Phan Bội Châu là người đầu tiên đã ngả sang đường lối này bằng cách lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau này được Nguyễn Thái Học thừa kế và truyền lại cho nhiều đảng phái khác có cùng mục đích chống Pháp xây dựng xã hội mới.

2. Ý thức hệ cộng sản thường được xem là bắt nguồn từ học thuyết Marx. Nhưng thứ “chủ nghĩa Marx” du nhập vào Việt Nam đó chỉ là chủ nghĩa Lenin của Quốc tế Ba, một hình thức vận dụng Marx vào những nước thuộc địa cũng với mục đích chống chủ nghĩa thực dân để hiện đại hoá xã hội. Khi phổ biến sang những nước chống đế quốc, nội dung của nó chính là chủ nghĩa dân tộc toàn trị Stalinít. Có một điều đặc biệt cần được quan tâm là trong hoàn cảnh Việt Nam, phải dựa vào Trung Hoa để xây dựng căn cứ địa bên ngoài và để tìm sự hỗ trợ trong hoạt động, đồng thời lại có truyền thống xem Trung Hoa như một hình mẫu văn hoá để noi theo, thứ chủ nghĩa Stalin đó khi đi vào Việt Nam đã mang màu sắc Mao Trạch Đông khá rõ rệt. Một thứ chủ nghĩa Stalin đã “Trung quốc hoá”.

3. Cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản Việt Nam” này như vậy thật sự chỉ là người anh em song sinh với cái gọi là “chủ nghĩa không cộng sản Việt Nam”: cả hai đều ra đời từ cái nôi cách mạng của nước Trung Hoa hiện đại. Không phải lúc nào chúng cũng đối lập nhau, trái lại đã có thể cùng nhau hợp tác trong việc hình thành các tổ chức cách mạng chống thực dân, nhất là trong những năm 1925-1927 ở Quảng Châu (Nguyễn Hải Thần đã hoạt động khá thân thiết với Hồ Chí Minh). Sự bất hoà đưa đến xung đột giữa hai bên chỉ xảy ra trong thời gian giành giật chính quyền quyết liệt (1945, 1946), đặc biệt khi Việt Nam được chọn như địa bàn tranh chấp giữa Mỹ và phe cộng sản quốc tế sau khi Chiến tranh Thế giới II chấm dứt.

4. Tuy là một thực tế, nhưng nhìn chung, sự khác nhau giữa các ý thức hệ trong thời kỳ chống thực dân không phải là những mâu thuẫn sinh ra từ bản thân xã hội Việt Nam. Nó là kết quả của những mâu thuẫn của thế giới tác động vào khi Việt Nam giao tiếp với phương Tây nhưng cũng là phản ứng của Việt Nam trước tình trạng bị phương Tây thống trị. Sự chuyển động của Việt Nam không phải là cuộc chuyển động được “uỷ nhiệm” từ bên ngoài mà đã đi theo cái lôgích nội tại của bản thân: giành lại chủ quyền từ bên ngoài để thống nhất và hiện đại hoá dân tộc. Tính chất hai mặt đó trong cuộc tranh đấu của Việt Nam là đặc điểm quan trọng nhất trong thời kỳ lịch sử mới của Việt Nam trong thế kỷ 20.

5. Tính chất hai mặt đó không lúc nào cũng đồng nhất. Trong thời kỳ đất nước còn bị ngoại bang thống trị, nội dung khác nhau của các ý thức hệ luôn luôn phụ thuộc vào mục đích giành chủ quyền dân tộc nhưng sẽ trở thành sự thách thức quyết liệt trong điều kiện đất nước đã độc lập, hoà bình. Theo viễn cảnh này, sự chiến thắng hay thất bại của những lực lượng chống thực dân Pháp chủ yếu chưa phải là sự đúng hay sai của các ý thức hệ khác nhau mà là vấn đề biện pháp huy động được sức mạnh truyền thống của dân tộc để đạt mục đích của mình. Và cũng trong viễn cảnh đó, có thể nói sự chiến thắng của Đảng cộng sản Việt Nam đối với chủ nghĩa thực dân Pháp chính là sự chiến thắng của một biện pháp đấu tranh có khả năng huy động được truyền thống để thực hiện mục đích riêng đó, trong khi đó các xu hướng chống thực dân khác vì không làm được nên đã thất bại [4].

Siêu cường Mỹ và Cuộc Chiến Trang Đông Dương Lần thứ Hai

Vấn đề đặt ra trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai này là Đảng cộng sản Việt Nam có còn giữ được ngọn cờ dân tộc đó hay không ? Câu trả lời không đơn giản vì sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam lần này không giống với người Pháp trước đây.

1. Sự can thiệp đó đã diễn ra dưới một hình thực hoàn toàn khác. Thay vì xâm chiếm đất đai, tạo ra thuộc địa để trực tiếp cai trị và khai thác như Pháp đã làm thì Mỹ lại sử dụng những thủ đoạn gián tiếp để dựng nên một chính quyền bên ngoài độc lập nhưng bên trong phụ thuộc qua đó thực hiện chính sách của mình, cụ thể vào lúc bấy giờ là đường lối đối ngoại thời Chiến Tranh Lạnh: chia cắt lâu dải Việt Nam, qua đó “be bờ”, không cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á [5]. Tất cả đều không bắt nguồn từ đâu ngoài cái mà người Mỹ gọi là “lợi ích” của Mỹ với tư cách là một siêu cường, chứ không phải là một cái gì khác. Chắc chắn, không ai hiểu rõ điều này cho bằng những “đồng minh” Việt Nam của Mỹ từ 1954 đến 1975, khi họ nhớ lại những biện pháp mà Mỹ đã sử dụng để khống chế, áp lực từ đe doạ cắt giảm viện trợ đến đảo chính, bỏ rơi v.v… đối với họ như thế nào.

2. Quả thật vấn đề ý thức hệ ở đây đã được đưa lên hàng đầu nhưng đó lại là thứ ý thức hệ của Mỹ chứ không phải của ai khác: dương cao ngọn cờ “dân chủ” của “thế giới tự do” để chống lại chủ nghĩa cộng sản quốc tế độc tài, đảng trị. Thật sự khi gọi cộng sản là “độc tài, đảng trị” thì chẳng có gì là oan, nhưng khi nhân danh lý tưởng “tự do” và “dân chủ” để bảo vệ cho những chính quyền như chính quyền Ngô Đình Diệm (thí dụ) do Mỹ tạo ra thì đó là một thứ huyễn hoặc quá sần sùi, thô lậu. Một chính quyền độc tài, sắt máu chẳng khác gì với chính quyền cộng sản bao nhiêu: cũng dựa vào một ý thức hệ ngoại lai để tạo ra một chế độ độc đảng, duy trì quyền lực độc tôn bằng những cuộc thanh trừng, trấn áp vô cùng tàn khốc những lực lượng khác (không chỉ với cộng sản mà cả với cả những người cùng chia sẻ ý thức hệ “không cộng sản” với mình). Với một sự khởi đầu như vậy, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp.

3. Tuy vậy, khi nhìn vấn đề từ một khía cạnh khác, người ta phải nhận rằng sự can thiệp ấy không hoàn toàn chỉ là tiêu cực, như chính sách “be bờ” chủ nghĩa cộng sản. Đây không chỉ là một chiêu bài mà chính là ý chí muốn ngăn bước tiến của một ý thức hệ thật sự đang mang tai hoạ cho thế giới. Ý thức hệ này nhân danh cách mạng, tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”, là một “học thuyết khoa học giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức lầm than” nhưng thực chất chỉ là một thứ ý chí luận về sự nhất thể hoá đời sống, thực hiện bằng huyễn hoặc và áp chế, thanh trừng kiểu Stalin và Mao Trạch Đông Với một thứ chủ nghĩa cộng sản tàn tệ như vậy thì không phải chỉ có Mỹ mới muốn ngăn lại.

4. Cũng không thể không quan tâm đến một số mặt chính đáng trong cái mô hình “không cộng sản” mà Mỹ dự định xây dựng cho những nước nằm trong quỹ đạo của nó. Nhất là với những nước thuộc Thế giới Thứ ba được coi như chiến trường thử thách việc “ai thắng ai” giữa “hai con đường”. Với chủ đích đó, mô hình do Mỹ đề xuất cho những nước chậm tiến rất khác với mô hình thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cổ điển. Đó là một mô hình về phát triển đặc biệt dành cho những nước chậm phát triển, với mô hình ấy, những nước này có thể có được cơ hội để cất cánh nhanh chóng trong tự lực. Cái giả định cho rằng nếu Mỹ không vấp phải những sai lầm ở Việt Nam thì tương lai của cái thực thể chính trị mang danh là “Việt Nam Cộng Hoà” sẽ hoàn toàn có khả năng đứng ngang hàng với những thực thể khác cùng nằm dưới cái dù bảo trợ của Mỹ (như Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, v.v…), cái giả định ấy không phải là không mang tính hiện thực [6].

Việc Đảng Cộng sản đáng bại Mỹ ở Việt Nam

Dưới những hình thức can thiệp như trên, với sức mạnh của một siêu cường, thống soái phe tư bản chủ nghĩa trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, Mỹ đã tạo ra được một cơ hội bằng vàng là dựng nên được một “quốc gia” Việt Nam Cộng Hoà để thực hiện mục tiêu của mình, nhưng tại sao đã thất bại hoàn toàn?

1. Câu hỏi trên đây cho đến ngày nay, sau 30 năm, người Mỹ vẫn chưa tìm được sự trả lời thống nhất. Hàng loạt nguyên nhân đã được đưa ra: không phát huy được hết sức mạnh vì bị trói chân trói tay (về chính trị, phương tiện lẫn thời gian); lao vào một chiến trường xa lạ để đánh nhau với một đối thủ mà mình không hiểu rõ; sai lầm về đối sách với đồng minh bản địa (ủng hộ nhà độc tài Ngô Đình Diệm rồi sau đó lại lật đổ ông ta làm cho tình hình rối ren thêm); đánh giá không hết ý chí và tiềm lực của kẻ thù; không đưa ra được một cuộc cải cách xã hội có hiệu quả để đối phó với cuộc cách mạng cộng sản; sai lầm về học thuyết domino, v.v… Do xuất hiện từ tình thế thất bại cho nên hầu hết các ý kiến trên đây đều mang nội dung của những “bản tự kiểm” cay đắng.

2. Còn đối với những người cộng sản chiến thắng thì câu trả lời trước sau vẫn là duy nhất. Mỹ thất bại ở Việt Nam là vì Mỹ xâm lược, Việt Nam thắng Mỹ là vì Việt Nam chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình, Việt Nam được nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ, bầu bạn (phe ta) giúp đỡ và trên hết Việt Nam thắng Mỹ vì Việt Nam có Đảng Cộng sản lãnh đạo tài ba với đường lối khoa học, đúng đắn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa xã hội... Không phải những câu trả lời trên đây không chứa đựng ít nhiều sự thật, nhưng do xuất phát từ ý định lợi dụng lịch sử để củng cố quyền lực hiện tại cho Đảng, nên không tránh khỏi phiến diện, một chiều, huênh hoang, đắc chí. Tất cả mọi luận điểm nói trên đều dựa vào ý thức hệ chính thống gọi là “Mác-Lênin”, lấy ý thức hệ ấy để giải thích mọi thắng lợi, nhưng trong khi lập luận thì lại cố tình không nói gì đến những sai lầm cực kỳ tệ hại mà chính cái ý thức hệ ấy đã mang đến cho đất nước, trong thời chiến tranh lẫn thời hoà bình.

3. Nhìn lại mọi việc từ một khoảng lùi về thời gian, chúng ta thấy về phía Mỹ, ý định xây dựng ý thức hệ cho sự can thiệp của mình vào Việt Nam đã hội đủ nguyên nhân để thất bại. Sự thất bại ấy biểu hiện trước nhất ở chỗ Mỹ không tạo nên được một chính quyền không cộng sản ở miển Nam có đủ năng lực và chính nghĩa để đương đầu với phong trào nổi dậy tại chỗ do trung ương Đảng cộng sản từ miền Bắc chỉ đạo [7]. Chính sự thất bại đó (chính phủ Ngô Đình Diệm là sự khởi đầu) đã khiến Mỹ phải từ bỏ vai trò giấu mặt để trực tiếp nhảy vào giải quyết bằng chiến tranh. Một cuộc chiến tranh mà tác dụng đầu tiên của nó là càng làm cho những chính quyền sau Ngô Đình Diệm trở thành những hình nộm của Mỹ. Và cũng là một cuộc chiến tranh mục đích không phải chỉ để giết hại những người cộng sản cầm súng mà là để tiêu diệt tất cả những gì nằm dưới tầm rơi của bom Mỹ, dù đó là con bò, cành cây hay một đứa bé. Chính hành động can thiệp khủng khiếp này đã đập vỡ toàn bộ những dự định xây dựng, những hứa hẹn của Mỹ cho Việt Nam, làm cho hình ảnh của Mỹ ở Việt Nam trở một đế quốc tàn bạo trước mắt thế giới.

4. Chính cái hình thức và quy mô can thiệp trắng trợn và dữ dội nói trên của Mỹ đã giúp những người cộng sản miền Bắc có cơ hội làm lắng xuống những tai hại về ý thức hệ mà họ đã gây ra trong những cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất, đàn áp trí thức … để dương lại ngọn cờ dân tộc mà họ đã chiếm giữ được từ thời chống thực dân, sau đó ồ ạt đưa người vào Nam “đánh Mỹ”. Sự thắng lợi của cộng sản Việt Nam hoàn toàn không phải là sự thắng lợi về ý thức hệ (chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng) như những nhà lý luận cộng sản đã khoe mà chính là sự thắng lợi của ý chí chống ngoại xâm mà Đảng cộng sản Việt Nam đã biết khơi dậy để lôi những người Việt Nam “không cộng sản” vào cuộc chiến đấu của mình. Thật đáng ngạc nhiên khi nghe nhắc lại chuyện đã qua, chúng ta chỉ thấy người phía bên này chửi rủa những người phía bên kia, người thất bại cãi cọ với người chiến thắng nhưng không mấy ai nhắc đến một cách đúng mức vị trí của những người khởi đầu chẳng theo bên này lẫn bên kia (những người “không cộng sản” thứ thiệt), nhưng cuối cùng đã phải đứng lên “chống Mỹ như những người Việt Cộng sản” vì không thể ngồi nhìn bom đạn Mỹ dội xuống đất nước như một sự huỷ diệt, tiến hành bởi một đoàn quân viễn chinh mà sứ mạng “bảo vệ tự do” của nó rút lại là đồng nghĩa với huỷ diệt [8].

Những cựu thù, ai thắng ai?

Hiển nhiên Đảng cộng sản đã thắng và Mỹ đã thua. Nhưng đó là chuyện của thời điểm 30 tháng 4 cách đây đã 30 năm. Bây giờ khi nhìn lại mọi việc, ý nghĩa và hậu quả của việc thắng bại ấy không còn như trước nữa.

1. Sự chiến thắng của Đảng cộng sản là một sự kiện động trời với nước Mỹ và ngoạn mục với thế giới. Nhưng với Việt Nam, sự chiến thắng ấy chỉ đem lại cho tuyệt đại đa số những người dân bình thường điều mà họ đã mòn mỏi mơ ước từ lâu: đất nước được hoà bình. Và hơn nữa, phục hồi lại toàn vẹn chủ quyền trong thống nhất, từ đó tạo điều kiện cho những giấc mơ mới sinh thành. Nhưng chưa kịp định hình thì những giấc mơ này đã tan vỡ ngay lập tức. Đảng cộng sản khai thác được sức mạnh của dân tộc để chống ngoại xâm, nhưng ý thức hệ cộng sản đem vào xây dựng lại hoàn đi ngược những điều đơn giản: chữa lành những vết thương chiến tranh, tạo dựng lại cuộc sống yên ấm cho nhân dân. Tất cả những sai lầm từ miền Bắc mệnh danh “xã hội chủ nghĩa” sau khi thắng Pháp nay đã được lập lại nguyên vẹn ở miền Nam sau khi thắng Mỹ: cũng trả thù những người khác chiến tuyến, khắc nghiệt với những người khác ý kiến, cũng đấu tranh giai cấp bằng cải tạo ở thành thi, hợp tác hoá ở nông thôn, gây ra đói nghèo, khổ sở, khiến bao người bỏ nước ra đi … trong khi đó thì ồn ào phất cờ “tiểu bá” tạo cớ cho người anh em “đại bá” đưa xe tăng và đại pháo tràn sang biên giới nhen lại chiến tranh. “Thắng trong chiến tranh nhưng bại trong hoà bình” [9], đã có hơn một tác giả phương Tây từng ủng hộ Việt Nam trước đây nhận xét như vậy sau khi Việt Nam thống nhất không lâu.

2. Nhưng với Mỹ thì có khác. Kỷ niệm 30 năm sau cái ngày 30 tháng 4 u ám, đáng lẽ phải quên thì một tờ báo Mỹ đã không quên mà lại khẳng định: “Nước Mỹ đã thua”, nhưng liền sau đó (với một dấu phẩy) lại là một khẳng định khác khá thú vị: “Chủ nghĩa tư bản đã thắng” (America lost, capitalism won) [10]! Tất cả đều “đã” thì có nghĩa là mọi việc đã hiển nhiên rồi. Và như vậy thì cũng có nghĩa là Mỹ đã không thua hoàn toàn, Mỹ chỉ thất bại trong cái ý thức hệ can thiệp và chiến tranh nhưng đã không thất bại trong cái ý thức hệ xây dựng và phát triển. Triển vọng về một Việt Nam “hoá rồng” theo cái mô hình châu Á mà Mỹ đã tạo điều kiện cho nhiều nước thực hiện trong thời chiến tranh Việt Nam hiện nay lại đang là sự phấn đấu vươn tới của nhiều thế hệ người Việt Nam đã sống sót và đã sinh ra sau cuộc chiến tranh ấy. Một người xa quê hương 30 năm, nay trở về thăm nhà chắc hẳn sẽ có dịp thấy tận mắt điều đó đang diễn ra như thế nào. Rõ ràng là “chủ nghĩa tư bản” đã được phục hồi. Với tất cả những nô nức hứa hẹn thăng tiến cuộc sống xen lẫn với nghèo đói, ma tuý, mại dâm, tội ác, tham nhũng… ồn ào, chụp giật, rừng rú, vui buồn đủ thứ nhưng đó vẫn là “chủ nghĩa tư bản” chứ chẳng phải là cái gì khác. Chính trên cơ sở của sự chuyển động hạ tầng này mà Mỹ đã có thể làm hoà để trở lại đất nước của kẻ thù cũ của mình, với những toan tính mới của một siêu cuờng, nhưng không phải bằng bom đạn và chất độc khai quang.

“Đồng hồ đã dừng lại sau ngày 30-4-1975

Vấn đề thực sự nhức nhối hiện nay của Việt Nam chỉ còn là vấn đề giữa những người Việt Nam với nhau, nặng nề nhất vẫn là giữa những người “Việt Nam Cộng Hoà” “thất bại” phải di tản ra “hải ngoại” và những người lãnh đạo cộng sản “chiến thắng” đương quyền ở “nội địa”. Tình trạng căng thẳng giữa hai bên cho đến nay vẫn không có dấu hiệu suy giảm.

1. Đối với Đảng cộng sản Việt Nam thì sự việc là quá đơn giản như chúng ta đã biết: họ là người chiến thắng! Tất nhiên không phải hễ ai chiến thắng thì có được chân lý. Nhưng bởi vì người chiến thắng ấy là những người theo chủ nghĩa cộng sản stalinít thì không phải chỉ chân lý mà cả lòng yêu nước, lịch sử, tương lai, khoa học, văn hoá … cũng phải xếp cùng hàng với họ. Chính cái ý thức hệ Stalinít ấy đã tạo cho họ cái tâm thế đặc thù ấy. Cho nên đòi hỏi họ phải hạ mình xuống xin lỗi những người đã bị họ đánh bại là chuyện khó có thể xảy ra. Họ có thể thay đổi về sách lược và ứng xử, nhưng ít khi nào trực tiếp bày tỏ công khai, minh bạch mà chỉ bộc lộ qua một số tín hiệu nào đó, gián tiếp và mập mờ. Ngay cả khi làm như vậy họ cũng cố giữ tư thế của kẻ bề trên cúi xuống chiếu cố những người bên dưới - trong khi vỗ về kêu gọi “khép lại quá khứ” thì vẫn cứ gồng gân lên lớp người ta về lập trường yêu nước, cuối cùng thì mới hể hả kêu gọi … kết đoàn [11]!

2. Cái cung cách chơi kèo trên ấy chắc chắn chỉ có tác dụng tưới thêm dầu vào ngọn lửa hận thù ngùn ngụt của cái cộng động hải ngoại mệnh danh là “Việt Nam Cộng Hoà”. Tập thể lưu vong đặc biệt này, không đại diện được cho tất cả các cộng động những người Việt Nam ở nước ngoài (bao gồm nhiều thành phần phức tạp về nguồn gốc, thế hệ, tầng lớp, tuổi tác, khuynh hướng) nhưng do có được cái danh nghĩa của cả một chế độ từng tồn tại trên một miền đất nước, được chính phủ Mỹ mang theo trong những ngày thất bại, nên với một số lượng khá lớn chạy ra nước ngoài, họ đã đứng lên nhận lãnh nhiệm vụ phục hồi danh nghĩa cho cái thực thể chính trị ấy, qua đó lôi kéo những thành phần khác vào quỹ đạo của mình, xây dựng lực lượng, hy vọng có được cơ hội trở về tái tạo cơ đồ. Cái tâm thế lưu vong của họ vì vậy cũng khá đặc biệt. Là nạn nhân của hàng loạt những yếu tố đưa đến sự thất bại đau đớn, trông chờ mờ mịt, sự tồn tại ngày nay của họ là sự tồn tại của những dằn vặt, uất ức hận thù không thể nào nguôi.

3. Được chính phủ Mỹ giúp đỡ cưu mang, nhưng họ luôn chỉ trích, cho rằng người đồng minh cũ này đã không giúp họ tiến hành cuộc chiến chống cộng đến cùng. Không ít những nhân vật cùng chiến tuyến cũng đã bị họ bêu rếu không thương tiếc vì đã làm “mất nước” do thối nát, ươn hèn. Đả kích những người thiên tả phản chiến (Mỹ lẫn Việt) cho rằng bọn này “đã nối giáo cho giặc”, họ cũng mạt sát thậm tệ, coi là tay sai của kẻ thù, những ai cất lên thứ tiếng nói không được coi là dứt khoát và quyết liệt về lập trường như họ. Tất nhiên đối tượng mà họ căm ghét nhất chính là những người cộng sản trong nước cho nên họ đã dành rất nhiều thời gian, giấy mực, lời lẽ để đả kích, chửi bới. Chửi đủ kiểu cách, bất cứ chỗ nào cũng chửi được, bất cứ ai cũng có thể chửi được (ồn ào nhất là trên những diễn đàn mạng). Nhiều khi chẳng cần lý lẽ, chẳng cần lọt tai người nghe. Miễn cứ chửi cho đã, ngang ngược, thô tục. Nhưng cũng thật lạ lùng: có lúc người ta thấy những lời lẽ ấy bị chụp cho cái nón cối màu xanh lá cây với lý do: những sự chửi bới quá dữ dằn ấy chỉ có thể là thủ đoạn khiêu khích của “bọn cộng sản nằm vùng” [12]!

Cơ sở nhận thức cho cuộc hòa giải giả tưởng

Sau 30 chấm dứt chiến tranh, việc hoà giải giữa những người Việt Nam thù địch với nhau không thể không đặt ra khi quan hệ giữa Mỹ và cộng sản Việt Nam đã trở lại bình thường. Nhưng vấn đề này sẽ không thể tiến được một bước nào nếu trước nhất hai bên không chấp nhận “nhìn lại” những việc đã qua một cách khách quan, bình thản.

1. Về phía những người Việt Nam Cộng Hoà, điều khó nhất trong nhận thức là không bao giờ thay đổi được niềm tin cho rằng sự tồn tại của cái thực thể Việt Nam Cộng Hoà ấy là sự tồn tại của một thực thể độc lập có chủ quyền như một quốc gia riêng biệt, vì đó đã giải thích sự thất bại của mình như sự sụp đổ của một “quốc gia” này (miền Nam) bị một “quốc gia” khác (miền Bắc) xâm lược. Họ không thể nào nhìn ra được thực chất của cái thực thể gọi là Việt Nam Cộng Hoà ấy (từ chính phủ của Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu) chỉ là sản phẩm của cuộc Chiến tranh lạnh toàn cầu do Mỹ dựng nên để thông qua đó can thiệp vào Việt Nam, từ đó nhận ra rằng sự thất bại của họ cũng chính là sự thất bại trong cuộc chiến tranh đó chứ không phải là cái gì khác. Họ cũng không thể nào lay chuyển được cái quan niệm về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, coi đó chỉ là tôi tớ trung thành của bọn ác ôn “Nga, Hoa” chuyên nghề cướp của giết người và nô dịch các nước - hoàn toàn không cần biết rằng sự xuất hiện của phong trào cộng sản thế giới trước nhất là để chống lại những áp bức, bất công do chế độ tư bản gây ra [13]; cũng chẳng cần quan tâm gì đến cội nguồn của phong trào cộng sản Việt Nam là sự nổi dậy của những người bị lệ thuộc chống lại chủ nghĩa thực dân, tuy có dựa vào Quốc tế Ba, bị nước này nước này nước nọ trong phe o ép, lôi kéo, nhưng để đạt được mục đích riêng của mình, chưa bao giờ chấp nhận để các thế lực ngoại bang này biến thành một công cụ hoặc một thứ tay sai ngoan ngoãn [14].

2. Phần những người cộng sản chiến thắng thì tuy đã hoàn thành được sự nghiệp giành lại chủ quyền cho dân tộc nhưng những sai lầm về ý thức hệ của họ lại rất nặng nề. Họ không bao giờ thấy được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chuyện không có cùng một bản chất, không thể dùng cái này để biện minh cho cái kia. Nếu việc những người cộng sản đánh đuổi được thực dân, đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước đến nay đã được coi là hiển nhiên với lịch sử thì cũng chính qua cuộc đấu tranh giành độc lập ấy, việc họ mang về cho đất nước cái “của nợ” ý thức hệ mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người Việt Nam ngay sau khi chiến thắng cũng đã trở thành hiển nhiên như vậy. Chính vì cứ bám víu quyết liệt vào cái ý thức hệ có được nhờ chiến tranh đó, dựa vào nó để biện minh cho chế độ chuyên chính đương quyền hoàn toàn bất lực trong công cuộc hiện đại hoá đất nước mà những người lãnh đạo Đảng đã đưa dân tộc sau ngày sau 30-4-1975 vào một cuộc chia rẽ mới, đau đớn và tuyệt vọng chưa từng có. Những người cộng sản không thể nào hiểu được thái độ thù hận quyết liệt của một bộ phận người Việt hải ngoại hiện nay, khởi đầu chỉ là kết quả của cuộc chiến tranh thất bại của Mỹ, nhưng cùng với thời gian đã được tô đậm thêm nhiều lần để trở thành cực đoan là đã bắt nguồn từ những sai lầm do chính những người cộng sản gây ra cho đồng bào trong nước của mình, những người gọi là “được giải phóng”, chứ không phải là cái gì khác.

3. Thật đáng buồn, trong khi hai cựu thù chính yếu của cuộc chiến tranh 1954-1975 đã quan hệ lại bình thường thì với người Việt Nam mọi chuyện vẫn còn như xưa. Chưa bên nào chịu bước tới một bước để ngồi lại cùng nhau tìm ra nguyên nhân đích thực đã biến những người anh em thành những “anh em thù hận”. Nói như một nhà văn hải ngoại: “đồng hồ đã dừng lại sau 30-4-1975” [15]! Tình trạng căng thẳng kéo dài ấy chắc chắn không mang lại một chút lợi ích nào về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi, dù thuộc bên này hay bên kia, dù trong nước hay ngoài nước. Nó chỉ có tác dụng làm ung thối cái không gian văn hoá của mọi người, bắt đông đảo những con người bình thường ở hai bên, không màng đến ý thức hệ, hoặc không coi ý thức hệ là cái vì nó mà người ta phải bắn giết nhau - trong đó rất đông là lớp người trẻ tuổi sinh ra trong thời kỳ sau chiến tranh - phải hít thở cái không khí truyền thông đầy khói súng của hai bên, tràn ngập những thứ ngôn ngữ thoá mạ, chửi rủa, bôi nhọ, sỉ vả, những thứ ngôn ngữ kết dệt bằng bịa đặt, vu khống, bất chấp sự thật, bất chấp lý trí … những thứ chữ nghĩa của những nguời tìm mọi cách đào bới từ cuộc chiến tranh đã qua những yếu tố hận thù để tiếp tục cuộc chiến tranh mang tên “nội chiến ý thức hệ”, một cuộc chiến tranh chưa bao giờ thật sự xẩy ra trên đất nước.

Hãy cho đồng hồ chạy lại!

Có thể có một cuộc hoà giải hiện thực trong tương lai không? Cái gì sẽ tạo ra cơ sở hiện thực cho cuộc hoà giải đó ? Câu trả lời tích cực cho những vấn đề này tất yếu sẽ phải gạt sang một bên cuộc xung đột cân não ồn ào của những cựu binh chủ chiến của hai bên mà chỉ có thể tìm thấy nơi những xu hướng tư duy mới, thoát khỏi được sự xiềng xích của cuộc chiến tranh cũ, đang hình thành.

1. Phải thật công bằng mà nói, góp phần mạnh mẽ tạo ra xu hướng mới ấy chính là chính sách “đổi mới” của Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện từ 1986 cho đến nay. Mặc dù khó khăn, giục giặc, mặc dù vẫn còn bị cái đuôi ý thức hệ “xã hội chủ nghĩa” thời chiến tranh trì kéo nặng nề, nhưng nội dung của sự chuyển động đó không phải cái gì khác hơn là một hình thức từ bỏ chính cái ý thức hệ mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa” ấy, với tác dụng rành rành của nó là giam hãm đất nước trong cô lập, nghèo nàn. Và cũng nhờ vào sự chuyển động đó mà bộ mặt của Việt Nam ngày nay đã khác rất nhiều so với 30 năm trước đây - đất nước đã giải quyết xong vấn đề “ai thắng ai” rồi! Trong tình hình ấy, việc mở cửa với thế giới bên ngoài, đặc biệt việc đặt lại quan hệ bình thường với Mỹ là tiền đề quan trọng để lôi kéo những người Việt Nam bỏ nước ra đi (trong đó có rất nhiều nhân vật thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hoà) nay có thể nhìn lại quê hương như một xứ sở đã có được những điều kiện bình thường để trở về thăm viếng, sinh sống, làm ăn. Sự khác biệt giữa cái gọi là cộng sản và không cộng sản vẫn còn tồn tại nhưng cũng đã thu hẹp lại phạm vi bất đồng và không còn đưa đến những căng thẳng có thể gây “xung đột” như trước đây. Sự khác biệt trong vấn đề này dường như đang có thiên hướng trở thành thứ yếu khi đặt bên cạnh những vấn đề khác quan trọng hơn nhiều lần: vấn đề tìm kiếm một mô hình phát triển dân chủ để đuổi kịp những nước trong vùng.

2. Chính quá trình đổi mới này đã có tác động tạo ra từ hai phía một xu hướng suy tưởng thoát ra khỏi những ràng buộc của những ý thức hệ ra đời trong chiến tranh để nhìn lại lịch sử theo một viễn quan thực tế, từ đó cùng nhau tìm kiếm lời giải đáp thích hợp cho những vấn đề đang đặt ra cho đất nước hiện nay. Hàng ngũ những người cộng sản trong nước (ngay cả những người thuộc vị trí lãnh đạo) cũng đã phân hoá thành rất nhiều “quang phổ” khác nhau: bên cạnh một số bảo thủ cứng rắn ngày càng già nua và bị cô lập, đa số đều đi theo xu hướng cải cách dưới nhiều mức độ, từ việc chấp nhận những “đổi mới” như hiện nay đến việc đòi hỏi canh tân nhiều hơn trong vấn đề luật pháp, hành chính, quản lý xã hội, từ việc đòi hỏi phải thực hiện dân chủ thực sự ở “cơ sở” một cách thiết thực đến việc đề xuất một cơ chế dân chủ trong đảng, tạo ra một hệ thống kiểm soát để tránh độc đoán và lạm quyền, rồi từ trong đảng mở rộng ra toàn bộ xã hội. Chính những chuyển động nội tại đó đã có tác động hình thành xu hướng rất mới ở Việt Nam hiện nay, thường được gọi là “cấp tiến”, bao gồm rất nhiều thành phần khác nhau, thuộc nhiều thế hệ khác nhau, với nội dung ngày càng được xác định minh bạch là phải từ bỏ chế độ toàn trị stalinít để chuyển sang xây dựng chế độ dân chủ đa nguyên hiện đại. Mặc dù bị những phần tử cứng rắn đương quyền bội nhọ, cô lập, bắt bớ, ngăn cấm bằng mọi hình thức nhưng xu hướng này vẫn không thể dập tắt được.

3. Ở hải ngoại, xu hướng mới cũng đã hình thành với rất nhiều sắc độ. Có khi chỉ với tư cách của những người anh em muốn vượt qua các bức tường không phải do mình tạo ra để ngồi lại với nhau nói chuyện văn nghệ cho vui. Nhưng cũng nhờ thái độ này, giới văn nghệ trong và ngoài nước đã xoá bỏ được triệt để sự cách biệt trước đây để cùng nhau hình thành nên một số khuynh hướng sáng tác mới, nay đã bộc lộ trong một số báo điện tử hải ngoại. Nhiều người khác, riêng rẽ hoặc kết tập thành nhóm, đã nói đến những chuyện hoà hợp, hoà giải một cách trực tiếp, với những quan điểm chính trị không phải lúc nào cũng giống nhau, từ việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua về nhiều mặt, giải thích sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản lẫn sự thất bại của phe quốc gia đến việc xây dựng một cương lĩnh cho đất nước trong tương lai … Nhưng hầu như tất cả đều không chấp nhận thái độ quá khích, chỉ biết chăm chăm chống cộng một cách mù quáng, với những mưu toan dùng vũ lực hoặc sử dụng biện pháp trừng phạt (không về nhà và không gởi tiền về nhà, yêu cầu Mỹ cô lập Việt Nam …), còn với người cùng hội cùng thuyền thì lại viện đến những thủ đoạn hăm doạ, chửi bới, vu cáo, bắn giết … hết sức cực đoan. Chủ nghĩa cộng sản vẫn là đối tượng phê phán của xu hướng mới này nhưng điều đó chỉ xuất phát từ ý hướng muốn dân chủ hoá đất nước chứ không phải vì thù hận cần phải dùng bạo lực để triệt tiêu.

4. Sự xuất hiện những xu hướng trên đây, từ trong nước đến hải ngoại, đang đóng vai trò đầu tiên của chúng là hạn chế và cô lập dần dần những tiếng nói của những thành phần bảo thủ hiếu chiến của hai bên. Nhưng quan trọng hơn là chúng đã tạo ra được một môi trường thuận lợi để những khác biệt về tư tưởng có thể cọ xát và tranh luận trong đối thoại và hoà bình, không những có lợi cho đời sống văn hoá mà còn có tác động tích cực trong việc tìm ra những giải pháp thích hợp cho việc xây dựng một nước Việt Nam trong tương lai, ở đó sự phát triển đời sống kinh tế xã hội không thể nào tách rời khỏi nhu cầu dân chủ hoá đời sống chính trị, văn hoá. Trong viễn cảnh đó, những khác nhau về ý thức hệ phải được xem là cần thiết, nó làm phong phú những hoạt động tinh thần và ngăn ngừa khả năng một hệ tư tưởng nào đó trượt dài vào cái vũng lầy độc tôn, tệ hại hơn nữa biến sự khác nhau về tư tưởng thành cuộc chém giết lẫn nhau. Sự phát triển của những xu hướng văn hoá lành mạnh đó chưa phải là đã gặp được mảnh đất màu để phát triển dễ dàng nhưng được cuộc sống thực tế yểm trợ, nên có rất nhiều triển vọng.

Cái đồng hồ đã bị ai đó làm cho dừng lại vào ngày 30-4-1975 đến nay tưởng đã có thể điều chỉnh ngày tháng và cho chạy lại được rồi!

L.P.
26-5-2005

 

[1] Bạn đọc có thể tham khảo một số tiểu luận, sách hoặc trả lời phỏng vấn sau đây để hiểu thêm quan điểm của tác giả về vấn đề trên: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, Nói chuyện với Lữ Phương về vấn đề Hồ Chí Minh … tất cả đều có thể tìm thấy trên ykien.net hoặc doithoai.com.

[2] Chỉ có Phan Chu Trinh vào thời kỳ đó chủ trương phi bạo lực. Nhưng ngoài “Hội đồng bào thân ái” (một tổ chức tương tế ra đời 1912 ở Pháp) ông không hề thành lập một đảng chính trị nào để đấu tranh cho mục đích của mình. (Xem LỮ PHƯƠNG: Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh).

[3] Xem FREDERICK M. WATKINS: The Age of Ideology - Political Thought, 1750 to the Present, Prentice-Hall International, Enghlewood Cliffs, New Jersy, 1964; bản Pháp văn: L'ère des idéologies; la pensée politique de 1750 à nos jours, Nouveaux Horizons, 1966.

[4] Vấn đề tranh cãi giữa những người cộng sản hay không cộng sản ở đây không phải là ai yêu nước hơn ai mà là tại sao những lực lượng chống thực dân không cộng sản lại để ngọn cờ dân tộc ấy rơi vào tay Đảng cộng sản. Chính những người không cộng sản - chứ không phải là ai khác - phải có nhiệm vụ trả lời cho thoả đáng câu hỏi này chứ không phải ngồi đó nguyền rủa hoặc trách móc về cái giá mà dân tộc phải trả cho sự chiến thắng của cộng sản. Đối với quá trình phát triển của đất nước, sự chiến thắng đó chỉ là những sự kiện mà lịch sử phải ghi nhận như tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, không bao hàm một giá trị có ý nghĩa quyết định nào cả.

[5] Về đề tài này xin đọc cuốn The Pentagon Papers do Bentam Books xuất bản năm 1971 theo bản in của The New York Times. Đây là công trình của 36 tác giả giấu tên (do Mc. Namara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thời Johnson chỉ thị thực hiện), đa số là nhân viên dân sự và quân sự trong trong chính quyền Mỹ, khởi đầu từ giữa 1967, mất một năm rưỡi mới xong và mang tên là “Lịch sử tiến trình tạo lập và quyết định của Hoa Kỳ về chính sách Việt Nam”, dài hơn 7000 trang, gần một triệu rưỡi chữ về phần kí sự lịch sử cộng thêm một triệu rưỡi chữ tài liệu. Phúc trình đã vạch rõ chính sách của Hoa Kỳ với Đông Nam Á từ những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt tới giai đoạn khai diễn cuộc hoà đàm về Việt Nam vào mùa hè 1968. Hồ sơ bí mật này đã bị Daniel Ellsberg, một nguời góp phần soạn thảo, tiết lộ, được Nữu ước thời báo, Thời báo, Hoa Thịnh Đốn bưu điện báo đăng tải vào khoảng giữa tháng 6-1971. Nhà thơ DIỄM CHÂU của tạp chí Trình bày ở Sài gòn đã dịch một phần (từ thời Truman, sau lá bài Bảo Đại cho đến thời Kennnedy, sau khi Diệm đổ), đăng liên tục từ số 26 tháng 8-1971 đến số tháng 9-1972. Đây là một tài liệu phải có cho bất cứ ai muốn nghiên cứu về chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

[6] Lê Xuân Khoa, talawas 29-4-2005.

[7] Hãy thử đọc một câu trong Phúc trình nghiên cứu mật nói trên: “… American intelligence estimates during the nineteen-fifties show that the war began largely as a rebellion in the South against the increasingly oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem” (Tài liệu đã dẫn, tr. 67).

[8] Có thể nói đây là sự phản ứng đích thực nhất của những người “không cộng sản” với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam: trước nguy cơ dân tộc bị huỷ diệt, sự khác nhau về ý thức hệ sẽ không còn quan trọng nữa. Đảng cộng sản đã khai thác triệt để tình cảm này và đã lôi kéo rất nhiều người vào hàng ngũ của họ, nhưng cũng phải nói rằng chính cái hình thức can thiệp bằng chiến tranh huỷ diệt của Mỹ đã đẩy rất nhiều người về phía cộng sản từ đó trở thành những người thân cộng. Thiết tưởng, nhắc lại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không thể bỏ qua hiện tượng quan trọng này.

[9] Như Gabriel Kolko trong Anatomy of a War: Vietnam and the Modern Historical Experience, New York: The New Press, 1985, chương Epilogue ; ý tưởng nói trên được Kolko khai triển trong Vietnam: Anatomy of a Peace , 2002.

[10] “America lost, capitalism won”, Economist.com, 25-5-2005.

[11] Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam đối với người Việt của phạm trù “Việt Nam Cộng Hoà” đã được trình bày trong bài “«Gọi tên cuộc chiến» hay xuyên tạc sự thật ?” của Nguyên Hòa, trên Nhân Dân (nhật báo chính thức của Đảng) ngày 15-3-2005, tranh luận với bài “30 năm sau vẫn còn tranh luận: Chiến tranh của Mỹ hay chiến tranh Việt Nam ?” của LÊ XUÂN KHOA trên mạng BBC ngày 15-2-2005. Bài trả lời của Lê Xuân Khoa gửi đến báo Nhân Dân không được đăng và cũng không được trả lời: cho đến bây giờ “chơi kèo trên” để phán một lần là xong vẫn là thói quen không thể nào từ bỏ được của những nhà quản lý tư tưởng của Đảng!

[12] Về hiện tượng “chửi” rất đặc biệt này, xem “Nhặt lại những mảnh vụn” của Phan Xuân Sinh, talawas 23-5-2005 và “Cứ chửi đi không sao đâu” của Trần Trung Việt trên Đàn Chim Việt online (TTV’s blog , 29-5-2005).

[13] Hãy đọc nhận định sau đây của Giáo Hoàng JEAN-PAUL II về chủ nghĩa cộng sản: “Le communisme en tant que système est, d'une certaine manière, tombé tout seul. Sa chute est la conséquence de ses erreurs et de ses excès. Il s'est révélé ‘un remède plus dangeureux que la maladie elle-même’” (JEAN-PAUL II : Entrez dans l'Espérance, Plon/Mame, Paris, 1994, tr. 204). Một thang thuốc trị bệnh nguy hiểm hơn bản thân căn bệnh, chứ không hề là một CÁI ÁC TUYỆT ĐỐI như một số người công giáo (và không chỉ là công giáo) hải ngoại đã cho là như vậy!

[14] Vấn đề lịch sử phức tạp này đến nay vẫn đang còn được bàn cãi theo những định kiến thuần ý thức hệ, đơn giản, dễ dãi. Điều này không những chỉ xẩy ra trong hàng ngũ những tác giả cộng sản mà còn trong hàng ngũ những người đã từ bỏ cộng sản, những người chống cộng và không cộng sản.

[15] Nguyễn Mộng Giác, Hợp lưu tháng 4 và 5-2005.

 

Trở về trang chính