Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

 

Những ngộ nhận về tinh thần Đa Nguyên

Nguyễn Gia Thưởng

 

Nhiều lập luận cho rằng dân chủ đa nguyên sẽ đưa đất nuớc vào cảnh hỗn loạn "thập nhị sứ quân". Một số người khác c̣n cho rằng nhận thức chính trị của người Việt chưa đủ cao để áp dụng chế độ dân chủ đa nguyên, thậm chí c̣n quyết đoán rằng tŕnh độ dân trí của người Việt quá thấp để có thể hiểu thế nào là dân chủ, đó là chưa nói đến đa nguyên. Qua những nhận định này, có một thiếu sót lớn trong xă hội Việt Nam : sự vắng mặt của thành phần trí thức trong việc nâng cao dân trí. Đổ lỗi cho dân trí thấp kém là thái độ trốn tránh trách nhiệm của người trí thức.

     Về đa nguyên, người ta thường nghĩ đến đa đảng, nghĩa là nhiều phe nhóm, nhiều tranh căi, nhiều quyền lợi cấu xé lẫn nhau, mà ít ai biết đến đa nguyên là một tinh thần, cần được bồi đắp và xây dựng. Gần đây thế giới đă khám phá thêm những nguyên lư của đa nguyên để áp dụng vào đời sống xă hội và chính trị.

 Thế nào là đảng chính trị ?

      Trước khi đi sâu vào việc phân tích tinh thần đa nguyên, tưởng cũng nên nhắc lại một câu mà phần đông người Việt thích dùng làm khuông mẫu trong phép hành xử chính trị, đó là : "thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ".

     Trong sinh hoạt chính trị, để đem lại cơm no, áo ấm cho người dân và xây dựng xứ sở, những người làm chính trị chắc chắn phải kinh qua giai đoạn "thành ư chánh tâm", tức giai đoạn xây dựng cho ḿnh một "cơ sở tư tưởng", một hướng đi nghĩ rằng đúng đắn nhất. Sang giai đoạn "tu thân" cổ nhân không nói rơ phải mất bao nhiêu năm để hoàn tất, nhưng trong thực tế con người phải luôn luôn tu thân cho đến khi từ giă cơi đời. Như vậy phải hiểu là trong tiến tŕnh tu thân có phần xây dựng tổ chức.

     Nhưng muốn biến ư tưởng trở thành hiện thực th́ phải làm sao ? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ phải t́m hiểu lư do phát sinh ra những hệ thống đảng phái.

     Khi xác quyết sự bất đồng quan điểm và tính đa dạng của tư tưởng là những yếu tố cần thiết của cơ cấu xă hội và nhà nước, mọi người đều hiểu ngầm rằng cơ cấu chính trị của nhà nước bao gồm những thành viên của các đảng phái và cũng là những nhân tố của xă hội. Trong ḷng các tổ chức luôn có những nhóm tranh đua gay gắt với nhau. Trong ngôn ngữ chính trị người ta gọi là phe phái (factions).

     Nhưng phe phái làm sao biến thành đảng phái ? Danh xưng thay đổi th́ bản chất cũng phải thay đổi theo.

     Danh xưng "đảng" xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ 18. Lần đầu tiên, qua bài tham luận "Thoughts On The Cause of Present Discontents" (Một vài suy nghĩ về nguyên do những bất đồng hiện tại) năm 1770, ông Edmund Burke khẳng định rằng các đảng không những cần thiết mà c̣n "đáng quư trọng" (respectables). Ông định nghĩa "đảng phái là một tập thể những cá nhân, cùng chung một mục đích và ḷng cam kết, kết hợp lại nhằm phát triển những quyền lợi của quốc gia, trên căn bản một nguyên tắc đặc thù mà họ đều đồng ư" (1).

     Ông Burke đă phân biệt rơ rệt đảng phái và phe phái. Theo ông, phe phái biểu tượng cho "một cuộc tranh giành nhỏ mọn và tham lam mong t́m kiếm địa vị và bổng lộc", trong khi đảng phái là những "mối dây liên lạc đáng kính" (honorables connections). Việc chuyển hoán tử giai đoạn phe phái sang đảng phái hàm chứa tinh thần đa nguyên. Các đảng phái phải được xem là thành phần của một tổng thể, những thành tố tích cực của xă hội, chính v́ vậy độc đảng phản lại tinh thần đa nguyên. Đa nguyên và đa đảng phát sinh cùng một lúc. Các đảng phái là sản phẩm của đa nguyên. Đa nguyên cho phép sự h́nh thành của các đảng chính trị.

     Tại Việt Nam, đảng cộng sản đă trụ quá lâu và cũng là đảng duy nhất cầm quyền. Đảng cộng sản đă không thực hiện được sứ mạng của một đảng chính trị, do đó đă đưa dân tộc Việt Nam vào sự kém cỏi đáng lư không thể có v́ tinh thần cần mẫn của người Việt. Ngày nay khi sử dụng danh từ đảng, người ta nghĩ ngay đến đảng cộng sản, với tất cả những sự tàn ác của nó trong qua khứ và ngay trong hiện tại. Do đó danh từ đảng dưới nhăn quan của người Việt mang một ư nghĩa xấu. Khi đề cập đến chữ đảng, người ta đồng hóa nó với những thủ thuật, thủ đoạn bẩn thỉu của đảng cộng sản như làm áp lực, đe dọa, ám sát, thủ tiêu...

     Phải phục hồi lại ư nghĩa nguyên thủy tốt đẹp của danh từ "đảng" mà Burke đă dành cho nó. Đảng là một bước cần thiết để một kết hợp những con người cùng chia sẻ một mục đích chung thực hiện dự án chính trị của tổ chức ḿnh.

 Đa nguyên trên b́nh diện tư tưởng, xă hội và chính trị

      Nếu hiểu đa nguyên là nhiều, nghĩa là hơn một, th́ chúng ta đă tự giới hạn sự hiểu biết của ḿnh. Cần phân biệt đa nguyên trên ba b́nh diện :

 1. Tinh thần đa nguyên

     Phong hóa đa nguyên là phong hóa thế quyền đối nghịch với phong hóa thần quyền, mà đă là thế quyền th́ không thể nào nhất nguyên được. Phong hóa thần quyền th́ ngược lại, nó hàm chứa một chân lư duy nhất, mang tính nhất nguyên.

     Phong hóa đa nguyên dựïa trên tinh thần bao dung. Đa nguyên chủ trương đa dạng hơn là đồng dạng, bất đồng hơn là đồng thanh, thay đổi hơn là ù ĺ. Đa nguyên tôn trọng sự đa dạng của những nền văn hóa khác biệt, nhưng không nhất thiết tạo thêm những dị biệt mới. Đa nguyên hỗ trợ và bảo tồn một xă hội mở, không khép kín. Đa nguyên giữ ǵn sự ổn định, không tạo hiềm khích giữa các nền văn hóa.

     Tinh thần đa nguyên đ̣i hỏi một sự tương kính hỗ tương, v́ phát xuất từ tinh thần bao dung, do đó đối nghịch hoàn toàn với tinh thần nhất nguyên, mang tính bất bao dung (không công nhận hay hận thù sự khác biệt, cộng vào đó là sự ngạo mạn tự xem ḿnh vượt trội trên hết mọi nếp tư duy, mọi văn hóa khác). Tinh thần đa nguyên cố gắng tạo cơ hội phát triển đồng đều cho mọi "thực thể" biết tự trọng và có tinh thần tương kính hỗ tương, nghĩa là không có t́nh trạng "thập nhị sứ quân", mạnh được yếu thua, được làm vua thua làm giặc, khi áp dụng vào thực tế.

     Sự tách biệt văn hóa và kỳ thị văn hóa dẫn đến bộ tộc hóa, nghĩa là thu nhỏ và biến văn hóa của cả một nước thành văn hóa của riêng bộ tộc ḿnh. Sự kiện này giống  như đảng cộng sản bắt mọi thành phần xă hội phải theo chế độ xă hội chủ nghĩa, là một phản lại tinh thần đa nguyên.

     Đa nguyên tạo nên sự hài ḥa giữa các thành phẩn trong xă hội nên không thể có sự hỗn loạn như mọi người lầm tưởng. Chính đảng cộng sản cầm quyền hiện nay đang ngụy biện cho rằng đa nguyên dẫn đến hỗn loạn để duy tŕ chế độ độc đảng, bảo vệ quyền lợi của thiểu số cầm quyền, bất chấp và chà đạp quyền lợi của những thành phần xă hội khác của Việt Nam. Chính những bất công này sẽ là mầm mống của một cuộc nội loạn, có thể sẽ rất đẫm máu, do chính đảng cộng sản gây nên.

 2. Đa nguyên trên b́nh diện xă hội

     Khi áp dụng đa nguyên vào xă hội, không nên hiểu là nó phân hóa xă hội theo thứ bậc, giai cấp hoặc đẳng cấp. V́ không thể nào có được một xă hội trong đó tất cả mọi thành phần đều thực sự b́nh đẳng với nhau, trừ trong những tiểu thuyết hoang tưởng. Không phải xă hội nào cũng có đa nguyên, tất cả mọi xă hội đều có sự phân chia và luôn có bất b́nh đẳng. Tinh thần đa nguyên t́m cách giảm thiểu những bất b́nh đẳng đó.

     Đa nguyên không phải là một danh từ dùng để thay thế "sự phức tạp của cơ cấu" (complexité structurelle), nó là mô h́nh đặc biệt của cơ cấu xă hội. Một xă hội bị phân chia ra thành từng mảnh nhỏ không phải là một xă hội đa nguyên. Xă hội đa nguyên gồm nhiều hiệp hội đa dạng, nhưng những hiệp hội này phải được thành lập theo tinh thần "tự nguyện", nghĩa là không có sự ép buộc hay thừa kế, và nhất là không có tính biệt lập. Những hiệp hội đa dạng này có tính cởi mở, tiếp nhận những khuynh hướng khác biệt, nghĩa là có sự liên lập. Một xă hội đa khối (multigroupe) là một xă hội đa nguyên nhưng những khối này không được tạo dựng một cách máy móc trong sự cưỡng ép, dù dưới bất cứ h́nh thức nào. Hiểu như vậy th́ cách tổ chức của các xă hội Phi châu hiện nay không phải là một xă hội đa nguyên và hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ không phải là một hệ thống xă hội đa nguyên. Sự thiếu vắng giao lưu văn hóa là một tiêu chuẩn để đo lường tính đa nguyên của xă hội đó. Tất cả những xă hội xây dựng chung quanh ư niệm bộ tộc, sắc tộc, đẳng cấp, tôn giáo, hoặc bất cứ nhóm nào mang tính cách truyền thống đều không được coi là những xă hội đa nguyên.

     Đa nguyên chỉ được thực hiện khi những làn ranh phân chia các cộng đồng, dưới bất cứ h́nh thức nào trong một nước, không c̣n nữa. Khi hố ngăn cách giữa các thành thành xă hội ngày càng sâu rộng thêm, một số thành phần xă hội đó sẽ t́m cách kết hợp với nhau trên căn bản sắc tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ, và t́m cách áp đặt quyền lực của ḿnh trên những thành phần khác ; lúc đó xă hội đa nguyên mất đi bản thể, nhường chỗ cho những thế lực cực đoan mới chiếm dần ưu thế để trở thành nhất nguyên. Chủ trương chỉ có dân tộc ta là nhất, như thời Đức quốc xă của Hitler, đă đưa đến phong trào hủy diệt dân Do Thái. Chủ truơng chỉ có tôn giáo ta là duy nhất đă đưa đến những cuộc thánh chiến khốc liệt nhất, đến nay vẫn chưa dứt.

 3. Tinh thần đa nguyên trong lănh vực chính trị

     Trong lănh vực này tinh thần đa nguyên hàm chứa một sự phân quyền dựa trên căn bản đa dạng của những nhóm độc lập nhưng không biệt lập. Xin nhắc lại, nhờ tinh thần đa nguyên chính trị mà các phe phái đă trở thành những đảng phái với tất cả ư nghĩa tốt đẹp của nó.

     Triết lư đa nguyên ảnh hưởng đến thỏa hiệp và tranh chấp. Khi một cuộc tranh chấp biến thành một cuộc chiến, tinh thần đa nguyên không c̣n được tôn trọng nữa, mọi cuộc tranh căi  chấm dứt nơi đây. Trọng điểm của thế giới đa nguyên là đi t́m những đồng thuận giữa những quan điểm bất đồng và thỏa hiệp giữa những xung đột quyền lợi.

     Tương quan giữa tinh thần đa nguyên và nguyên tắc đa số (majority rule) cũng cần minh định lại. Đa nguyên từ chối và không chấp nhận sự áp đảo và tính độc đoán của đa số. Điều này không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc đa số trong việc thi hành và ban hành quyết định, một tiêu chuẩn trong sinh họat dân chủ. Đa nguyên đảm bảo nguyên tắc đa số giới hạn, nghĩa là đa số phải tôn trọng thiểu số ; như vậy quyền lực của đa số nằm trong giới hạn của tinh thần đa nguyên.

     Đa nguyên ngay từ ban đầu tách biệt thế giới thế quyền và thần quyền để không ai có toàn quyền sinh sát trên người dân. Với thời gian, những giới hạn này ngày càng quan trọng hơn nhường chỗ cho những tranh đấu chính trị ôn ḥa bảo đảm tính mạng và tài sản của những người tranh chấp. Nói cách khác, kẻ thua cuộc có thể an tâm về nhà mà không sợ bị ám hại.

 Tinh thần bao dung, giao ước thỏa thuận và các cộng đồng

      Muốn hiểu tinh thần đa nguyên cũng cần phải hiểu tinh thần bao dung, tinh thần thỏa hiệp, sự bất đồng và sự xung đột. Tinh thần bao dung không cho phép chúng ta có thái độ thờ ơ, lănh đạm v́ sẽ không có phản ứng. Nhưng bao dung không phải là ba phải, chấp nhận dễ dàng những sai lầm không căn cớ. Ông J-R. Lucas giải thích như sau : "Tinh thần bao dung luôn ở thế căng thẳng và không thể nào toàn diện được. Khi một người đă bám víu vào một điều ǵ, người đó sẽ cố gắng t́m cách thực hiện điều đó ; nếu không chúng ta không tin người đó. Nhưng người đó cũng không t́m cách thực hiện điều này bằng mọi cách, với bất cứ giá nào" (2).

     Như vậy bao dung có thể co giăn đến mức độ nào ? Có ba tiêu chuẩn để xét mức độ chịu đựng của bao dung. Thứ nhất phải t́m ra những nguyên do dẫn đến bất bao dung, nghĩa là không cho phép giáo điều (dogmatisme), v́ giáo điều luôn luôn bất bao dung. Thứ hai là "nguyên tắc không được hăm hại" (the harm principle), nghĩa là không dung túng những tác phong gây thiệt hại và di hại cho người khác. Thứ ba là sự hỗ tương, tinh thần "có qua có lại", v́ khi bày tỏ tinh thần bao dung ai cũng mong đối tác cũng hành xử tương tự như vậy (3).

     Về những giao ước hay những thỏa thuận, chúng ta có thể nhận diện rơ rệt đây là một sự chấp nhận đơn giản, một đồng thuận có ư thức, không phải là một sự tán đồng hay hỗ trợ tự nhiên. Đây là một sự chia sẻ, dưới h́nh thức này hay dưới h́nh thức khác, nhằm tạo lập một sợi dây liên kết. Định nghĩa này biểu hiện rơ mối tương quan giữa ư niệm thỏa thuận và ư niệm cộng đồng. Cộng đồng cũng có thể được định nghĩa như  một sự chia sẻ qua h́nh thức này hay h́nh thức khác để tạo nên một mối dây liên kết. Ngày nay chúng ta không thể định nghĩa đơn vị chính trị bằng danh từ Nhà nước-Quốc gia.

     Phải trở về đơn vị nguyên thủy có trước sự h́nh thành của những cơ cấu xă hội chính trị, đơn vị đó chính là cộng đồng, mặc dù Nhà nước-Quốc gia vẫn là một yếu tố quan trọng. Nó được tạo lập vào thế kỷ thứ 19 và nó là nguyên tắc tổ chức và thống nhất của quốc gia ngày nay, đặc biệt là tại Âu châu. Những quốc gia vào thời Trung Cổ phần đông được cấu tạo trên cơ cấu ngôn ngữ. Quốc gia Đức bao gồm những ai nói tiếng Đức và cứ như thế mà quốc gia được phân định. Nhà nước-Quốc gia là một ư niệm được tạo dựng vào thời cực thịnh của phong trào Lăng Mạn (Romantisme) và được coi là một thực thể không chỉ giới hạn ở yếu tố ngôn ngữ. Trong h́nh thức toàn vẹn của nó, ư niệm Nhà nước-Quốc gia là một thực thể hữu cơ (entité organique), thể hiện qua "tinh thần dân tộc", được thấm nhuần bởi "tinh thần ái quốc" và hơn thế nữa, trong h́nh thức cực đoan của nó, được thể hiện qua "huyết tộc", qua liên hệ sắc tộc. Trên căn bản này, "quốc gia"  biến thành "chủ nghĩa quốc gia". Những Nhà nước-Quốc gia xuất hiện ở Âu châu trong những năm 1830 và 1848 đă tự xác định vị thế của ḿnh qua yếu tố ngôn ngữ và ḷng ái quốc. Quốc gia là một ư chí thể hiện tinh thần độc lập thay thế cho những tập hợp quy tụ xung quanh một lănh chúa hay một triều đại. Với sự thành lập của Nhà nước-Quốc gia, việc chuyển nhượng "nhân dân" hay "dân tộc", được xem như những thành phần thua cuộc hay là tôi tớ của một vương chúa, không thể xảy ra nữa.

     Ngày nay Nhà nước-Quốc gia không c̣n là yếu tố được bảo tồn như một đơn vị tối ưu về địa lư chính trị (géopolitique), v́ nó đang tan biến ngay trong nội bộ một nước và trên phương diện toàn cầu. Ư niệm "cộng đồng quốc gia" càng suy yếu bao nhiêu, người ta cần phải trở về ư nghĩa nguyên thủy của một cộng đồng. Khi một siêu cơ cấu, một quốc gia, một đế quốc, hoặc một triều đại sụp đổ, người ta thường trở về cơ cấu nguyên thủy của một cộng đồng, trong đó người ta dễ dàng kết hợp lại với nhau để được nhập thuộc (appartenance).

     V́ vai tṛ và chỗ đứng của Nhà nước-Quốc gia bị công phá từ mọi phía, và v́ Việt Nam chưa xây dựng xong một quốc gia đúng nghĩa, quan niệm về đất nước phải như thế nào ? Đó là một không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau, quí trọng nhau và hợp tác với nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Một cách ngắn gọn, Việt Nam phải là đất nước xây dựng trên các cộng đồng (4).

 4. Việt Nam đă có đa nguyên chưa ?

      Hiện nay chính quyền cộng sản Việt Nam đang làm nhiều cố gắng để chứng tỏ với thế giới bên ngoài rằng Việt Nam là một nước đă có đa nguyên v́ có đa chủng và đa văn hóa (5).

     Đây cũng là một ngộ nhận về tinh thần đa nguyên, v́ một nước đa chủng và đa văn hóa không đủ bảo đảm tinh thần đa nguyên. Muốn có đa nguyên phải có tinh thần bao dung, nghĩa là các cộng đồng phải tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Trên thực tế, nhà nước cộng sản hiện nay, đại diện cho cộng đồng người Kinh, đang thi hành chính sách tiêu diệt và ép buộc các sắc tộc ít người phải từ bỏ tập tục, tập quán và những nét văn hóa đặc thù của ḿnh để họ phải theo một khuôn mẫu có tính cách giáo điều của cái gọi là xă hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn đi ngược lại tinh thần đa nguyên

     Nhà nước cộng sản Việt Nam đă và đang tạo nên những mầm mống chia rẽ một ngày một trầm trọng trong các cộng đồng nhân tố cấu tạo của đất nước Việt Nam. Chính v́ chủ trương giáo điều và từ đó chứng tỏ tinh thần bất bao dung nên Đảng Cộng Sản Việt Nam đă và đang gây nên những hận thù giữa các cộng đồng.

     Khắc phục những di hại do Đảng Cộng Sản Việt Nam để lại là trọng trách nặng nề của thể chế dân chủ đa nguyên tương lai Việt Nam.

 

Nguyễn Gia Thưởng (Bruxelles)

 

Chú thích :

     (1) "Party is a body of men united, for promoting by their joint endeavours the national interest, upon some particular principle in which they are all agreed", trích The Works of Edmund Burke, Boston, Little Brown,1839, Vol.1, p.425-426, www.econlib.org.

     (2) The Principles of Politics, J.R.Lucas, Oxford, Clarendon Press, 1985, p.296-301.

     (3) Pluralisme, Multiculturalisme et Etrangers, Giovanni Sartori, Edition des Syrtes, 2003.

     (4) Thành Công Thế Kỷ 21- Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, Paris, 2001.

     (5) Vietnam, pays pluri-ethnique et pluri-culturel, Nguyễn Văn Huy et Lưu Hùng (trích tập san "Vietnam - Art et Cultures de la préhistoire à nos jours" (Việt Nam, Nghệ thuật và Văn hóa từ thời tiền sử đến nay) phát hành trong cuộc triển lăm do các Viện bảo tàng Nghệ thuật và Lịch sử Bruxelles tổ chức từ ngày 17-12-2003 đến 29-2-2004.

 

 

Trở về trang chính