Nhà trí thức Ba Lan
độc lập
Ngô Nhân
Dụng - Đàn Chim Việt
Trong tháng rồi, một triết gia
người Ba Lan sống ở Anh mới được
Thư viện Quốc hội Hoa kỳ tặng một
bằng tưởng lệ về những đóng góp
văn học và tư tưởng nhân loại trong cả
cuộc đời ông. Giải này mang tên ông John Kluge,
một người giầu có ở Mỹ v́ ông đă
lập ra và cấp tiền bạc, tuy ông không bao giờ
được góp ư kiến vào việc chọn lựa.
Giải thưởng Kluge không danh tiếng bằng giải
Nobel, và cũng ít tiền hơn (chỉ có một triệu
mỹ kim.) Nhưng theo lời ông James Billington, giải Kluge
tặng cho một ngành khoa học nhân văn, không phải
văn chương cũng không phải khoa học chính xác
như các giải Nobel vẫn tặng.
Người được tưởng
lệ năm nay là Leszek Kolakowski, sinh ở Radom, Ba Lan,
năm 1927. Leszek Kolakowski không được giải như
một nhà văn, tuy ông cũng có khi cũng kể
truyện ngụ ngôn. Ông được ca ngợi như
một nhà tư tưởng, một giáo sư về
lịch sử triết học, tác giả của ba
chục cuốn sách, và “tiếng nói của ông là một
nền tảng của thân phận xứ Ba Lan, và có ảnh
hưởng trên cả Âu châu,” như lời xưng
tụng của vị quản thủ Thư viện
Quốc hội Mỹ. Trong lúc các ngành nhân văn bị
bỏ rơi và bị những ngành kiến thức
thời thượng khác che lấp, th́ giải Kluge là
một cách khích lệ rất cần thiết. Người
ta cần suy nghĩ về những vấn đề cơ
bản, không đo lường được như các
ngành khoa học, nhưng nếu không đặt ra các
vấn đề cơ bản đó th́ đời sống
trí thức của nhân loại sẽ khô cằn. Gọi đó
là triết lư, triết học, hay bất cứ từ nào
khác, những suy nghĩ của Kolakowski qua các cuốn sách và
bài báo của ông cho thấy những cố gắng không
mỏi mệt của một người trí thức chân
thành, thiết tha t́m sự thật để chia sẻ
với mọi người.
Câu chuyện giáo sư Leszek Kolakowski rất
đáng nghe. Khi ông lớn lên ở Lodz trong thời Ba Lan
bị Đức quốc xă chiếm đóng, ông phải
theo học các trường “chui.” Khi Ba Lan được giải
phóng, rồi bị cộng sản hóa, Leszek Kolakowski theo
học Đại học Vác xa va, đậu tiến sĩ
năm 1953 và dậy triết học tại đó. Ông
chỉ trích giáo hội Công giáo, và tin theo chủ nghĩa
cộng sản của Marx. Một chuyến du học
tại Liên xô làm cho Leszek Kolakowski tỉnh ngộ, nhận
chân được diện mạo thật của chủ
nghĩa Xă hội mà Stalin đem ra thi hành ở Nga. Ông
chỉ trích chế độ đó, v́ nó “làm hỏng”
chủ nghĩa Marx mà ông vẫn tin theo. Ông xuất bản
cuốn “Chủ nghĩa Xă hội là ǵ?” năm 1956. Vào
cuối năm đó dân chúng Hungary nổi dậy và bị
tàn sát, Tổng bí thư Nagy Imre bị treo cổ. Leszek
Kolakowski bị khép vào tội “chủ nghĩa xét lại”
nhưng ông không chịu uốn ḿnh theo đường
lối của đảng cộng sản. Ông đă
viết tập bản thảo “Tiến tới một
chủ nghĩa Nhân bản Mác xít,” và tiếp tục bầy
tỏ các ư kiến độc lập (sau này cuốn sách
được in ra ở Tây phương nhưng chính
Kolakowski đă từ bỏ Marx.) Cho nên ông bị trục
xuất khỏi đại học, bị khai trừ
khỏi đảng, cũng như bị từ chối
không cho sống trong xă hội nữa. Những ai ở
miền Bắc Việt Nam những năm trước khi
đảng Cộng Sản đổi mới th́ hiểu
t́nh trạng “bị dứt phép thông công” với cả xă
hội nó ra sao. (“Kẻ bị dứt phép thông công” là tên
một cuốn hồi kư của Nguyễn Mạnh
Tường.)
Leszek Kolakowski may mắn, v́ ông được
cho ra nước ngoài từ năm 1968, năm đó cũng
được đánh dấu bằng cuộc nổi
dậy của dân Tiệp Khắc, vào mùa xuân lỡ giở
ở Praha. Leszek Kolakowski đă sang dậy triết học
ở Canada và tại Mỹ, Đại học Berkeley,
California. Nhưng ông thất vọng về những
người tự nhận là “cánh tả” ở Mỹ. Ông
xuất bản bộ sách ba cuốn về “Các trào lưu
chính trong chủ nghĩa Mác xít” làm cho ông nổi tiếng là
thẩm quyền bậc nhất về chủ nghĩa Mác.
Rồi ông sang dậy ở Đại học Oxford từ
đó cho tới lúc về hưu năm 1995. Ông viết
bằng tiếng Ba Lan, v́ vẫn liên hệ với quê
hương ông; nhưng đôi khi cũng viết tiếng
Pháp, Đức, hay Anh. Năm 1971 ông viết tiểu
luận “Các đề án về Hy vọng và Thất
vọng,” được coi là phác họa một chiến
lược đối kháng với chế độ
cộng sản bắt đầu từ quần chúng, lan
rộng và kéo dài, cuối cùng đưa tới sự thành
lập công đoàn Đoàn Kết (Solidarnosc). Bây giờ
mỗi năm ông vẫn c̣n dậy một khóa cho các sinh viên
Ba Lan sang học ở Oxford. Công tŕnh trước tác của
Leszek Kolakowski không giới hạn trong triết học Mác
xít. Ôâng cũng nghiên cứu về triết học tây
phương, từ Spinoza đến Pascal, chú trọng
từ thế kỷ 18; ông cũng viết về tôn giáo, và
cả những truyện cổ có tính ngụ ngôn, với
lối văn nhiều lúc hài hước.
Leszek Kolakowski là một người Mác xít
tỉnh giấc mộng hoang đường khá sớm,
nhờ đức lương thiện trí thức và sự
can đảm khiến ông dám nh́n vào sự thật và
đặt những câu hỏi thẳng thắn. Ông đă
nh́n vào thực tế cũng như phân tích tư
tưởng triết học một cách nghiêm ngặt, cho
nên thấy được chủ nghĩa Mác là “tṛ
tưởng tượng hoang đường lớn
nhất thế kỷ.” Trong thập niên 1980 ông ủng
hộ phong trào công đoàn Solidarnosc trong cuộc tranh
đấu chống chính quyền cộng sản. Nói
một cách khiêm tốn, ông kể lại những đóng
góp của ḿnh: “Tôi viết báo, tôi trả lời các nhà báo
phỏng vấn, đi quyên góp tiền bạc (giúp công
đoàn,) không có ǵ quan trọng lắm.” Nhưng phần
đóng góp lớn của ông là suy nghĩ. Một lănh tụ
công đoàn Đoàn Kết nói về ông, ví ông như
“Người đánh thức Hy vọng cho Nhân loại.” Tuy
là một người vô thần và hoài nghi, nhưng Kolakowski
đă đi tới kết luận rằng tôn giáo rất cần
thiết cho nhân loại, nếu không th́ chủ nghĩa
hư vô bất trí sẽ gây nhiều tai hại hơn
nữa.
Trong cuốn “Modernity on Endless Trial” (Những
Thử thách bất tận của Tính Hiện đại)
Kolakowski đă suy ngẫm về t́nh trạng đối
lập không ngừng giữa hai trào lưu, kể từ khi
xă hội loài người bước vào thời Hiện
đại. Một bên là tinh thần duy lư, khoa học
với khuynh hướng thế tục hóa xă hội
để chính quyền không c̣n lệ thuộc vào tôn giáo.
Bên kia là những lư tưởng tín ngưỡng có tính
chất siêu việt. Hai khuynh hướng đó cần có
mặt để kiểm soát lẫn nhau. Một
điều mà Kolakowski đă nêu lên, rất đáng suy
ngẫm, là nếu để một trong hai khuynh hướng
đó chiếm độc quyền tự nhận là chân lư
duy nhất, lấn áp khuynh hướng kia, th́ xă hội
sẽ bị đe dọa bởi những con quái vật
độc tài khủng khiếp. Như thời kỳ các
ṭa án tôn giáo giết người ở Âu châu, hay chế
độ Stalin ở Nga xô.
Một di sản của nền văn minh Âu châu là niềm
hy vọng rằng chúng ta có thể sống trong tâm trạng
hoài nghi. Chủ nghĩa nhân bản có nghĩa là chúng ta
để cho “câu hỏi rốt ráo quan trọng nhất” để
ngỏ mà không trả lời. Nhờ tinh thần hoài nghi
đó, “Văn hóa Âu châu tự tạo được
thế cân bằng tinh thần.” Kolakowski tin rằng kinh
tế thị trường là cần thiết cho sự
tiến bộ, nhưng ông cũng cảnh giác: “Nếu không
có thị trường th́ chúng ta có thể bị biến
thành nô lệ. Khi có thị trường th́ chúng ta phải
luôn luôn cảnh giác để bảo vệ các tương
giao nhân loại quư báu, như t́nh đoàn kết, thân
hữu, và t́nh yêu. Những giá trị đó không để
cho cơ cấu thị trường quyết định
được.”
Có thể Leszek Kolakowski không đóng vai tṛ quan
trọng lắm đối với phong trào nhân dân Ba Lan
nổi dậy chống chế độ độc tài
cộng sản, như chính ông công nhận. Các tu sĩ trong
Giáo hội Công giáo Ba Lan, và riêng đức Giáo hoàng
đương nhiệm có thể là nguồn cảm
hứng lớn lao cho các công nhân ở xưởng đóng
tầu Gdansk khi họ đứng dậy, lắc
đầu, không chịu nghe theo mệnh lệnh của các
cán bộ đảng nữa, mà đ̣i lập công đoàn
riêng của những người thợ thuyền thật
sự. Nhưng Leszek Kolakowski đă đóng đúng vai tṛ
của ông, vai tṛ một nhà trí thức, cũng như ông
Lech Walesa đóng đúng vai tṛ của một lănh tụ lao
động trong xứ Ba Lan thời đó. Khổng Tử
viết, “Quân tử tố kỳ vị nhi hành,”
người quân tử tùy theo chỗ đứng của
ḿnh mà hành động. Khi ông Walesa ra đóng vai một
tổng thống, ông không thành công, và dân Ba Lan đă mời
ông về hưu, hai lần liền th́ ông cũng hiểu ra
tại sao. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận công
lao của Lech Walesa đối với cuộc cách mạng
thay đổi chế độ cộng sản ở Ba Lan
và cả Đông Âu. Cũng không ai phủ nhận
được vai tṛ của Leszek Kolakowski trong phong trào các
nhà trí thức từ bỏ chủ nghĩa cộng sản,
đ̣i suy nghĩ tự do.
Trên đài BBC trong một cuộc thảo
luận trên mạng lưới của đài này trong tháng
trước, có hai người tranh luận với nhau là
ông Trần Ngọc Thành, một cựu đảng viên
cộng sản Việt Nam nay đang sống ở Ba Lan, và
bên kia là một bác sĩ sống ở Việt Nam, xưng
tên là Phan Xuân Trung. Bên cựu đảng viên th́ bênh vực
cho những người bất đồng chính kiến
ở trong nước, như Phạm Hồng Sơn; c̣n bên
kia ở ngay Sài G̣n th́lại chỉ trích ông Phạm Hồng
Sơn bằng những lời giống hệt lời phát
ngôn viên của chế độ. Trong một bài viết
tổng kết sau khi nhiều thính giả góp ư kiến, ông
Phan Xuân Trung đă nhắc đến những người
Trí thức Bất đồng Ư kiến ở Đông Âu. Ông
Trung viết rằng “... những người đó
chẳng làm được tṛ trống ǵ với xă hội
Đông Âu mới, thậm chí c̣n (tiếp tục) bất
đồng chính kiến với xă hội mới nữa.”
Sau đó, ông Trung c̣n gán ghép các ư nghĩ thầm kín cho họ
là, “Họ hành động v́ những động cơ cá
nhân khác nhau, như danh tiếng, hận thù, cơ hội.”
Viết như vậy th́ quả là thiếu suy nghĩ. Có
thể nói là trong ḷng c̣n chứa quá nhiều ác ư. Hàng ngàn,
hàng vạn trí thức phản kháng chế độ
cộng sản ở Đông Âu, không lẽ đều v́ các
động cơ danh lợi hay sao?
Những nhà trí thức phản kháng rất
cần thiết cho bất cứ xă hội nào, kể
cả những xă hội đă lên đường dân
chủ hóa. Công việc chính của họ là nêu các ư
kiến, khi cần phê phán chính quyền, mà không sợ hăi,
không hèn nhát. Xă hội nào cũng cần các bậc
“đại trượng phu” như Mạnh Tử mô
tả: Không để tiền bạc làm cho hư, không v́
nghèo khó bị bao vây kinh tế mà thay đổi, và không
sợ vũ lực đàn áp (Phú quư bất năng dâm,
bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất.) Những nhà trí thức bất đồng ư
kiến không bắt buộc phải làm chính trị. Họ
tranh đấu đ̣i dân chủ, tự do không phải
để sau đó ra làm quan to hay làm giám đốc xí
nghiệp. Chế độ thay đổi rồi, xă
hội vẫn cần những nhà trí thức phê phán. V́ không
có chế độ nào thiếu khuyết điểm, không
chính quyền nào tránh được nỗi cám dỗ
lạm dụng quyền hành. Công việc của giơi trí
thứcï là suy nghĩ một cách khách quan và thấu đáo.
Họ sẽ “làm tṛ chống ǵ” sau khi chế độ
cộng sản sụp đổ? Họ tiếp tục suy
nghĩ về các vấn đề của xă hội mà
họ đang sống, tiếp tục bầy tỏ ư
kiến, tranh luận với nhau trong tinh thần thành thật
và tương kính, không cố t́nh xuyên tạc hoặc vu oan
giá họa lẫn nhau. Nhiều người làm như
vậy v́ tấm ḷng yêu nước, v́ tôn trọng sự
thật, tôn trọng giá trị con người. Gán cho
họ những động cơ khác, như v́ danh, v́
lợi, hay v́ hận thù, là có hậu ư. Người đàng
hoàng không làm như vậy.
Trong lịch sử nước ta không
thiếu ǵ các nhà trí thức phản kháng. Thí dụ
những tấm gương đời Trần như:
“Thất trảm chi sớ Nghĩa động Càn, Khôn (Chu
Văn An); Vạn ngôn chi thư Trung quán Nhật, Nguyệt
(Lê Cảnh Tuân.)” Trần Tế Xương, Nguyễn Đ́nh
Chiểu là những nhà trí thức bất đồng ư
kiến. Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh là những nhà trí
thức phản kháng ở nước ta từ đầu
thế kỷ 20. Sau họ c̣n những Hồ Hữu
Tường, Khái Hưng, Nguyễn Tường Tam, Tạ
Thu Thâu, Phan Văn Hùm, đều là những nhà trí thức
phản kháng chế độ thực dân Pháp. Họ làm công
việc của những kẻ sĩ theo nền nếp Nho
học, do tấm ḷng yêu nước, v́ dân, v́ nghĩa,
chứ không phải v́ danh lợi.
Chế độ cộng sản ngay từ
ở Nga Xô đă thù ghét các nhà trí thức dám suy nghĩ và có
ư kiến độc lập. Cho nên ngay khi lên cầm
quyền ở Việt Nam, khi có cơ hội là Hồ Chí
Minh đă t́m cách tiêu diệt, đă triệt hạ các nhà trí
thức trước khi đánh nhau với Pháp. Nếu các
ông Nguyễn An Ninh, Khái Hưng, Huỳnh Phú Sổ, Tạ
Thu Thâu, Phan Văn Hùm sống vào thời đại này
ở Việt Nam th́ chắc họ cũng đang làm như
Phạm Hồng Sơn, Dương Thu Hương,
Nguyễn Đan Quế, Thích Quảng Độ, vân vân. Và
chắc hẳn các cán bộ công an cộng sản sẽ
tố giác họ là có các động cơ cá nhân, “v́ danh, v́
lợi, hay v́ hận thù.”
Dưới chế độ cộng sản
ở Việt Nam ngay từ những năm 1954 giới trí
thức đă có nhiều người can đảm bầy
tỏ ư kiến, phê phán những sai lầm của chế
độ. Ngày nay chúng ta c̣n có thể hănh diện khi
đọc những bài lư luận của Nguyễn Mạnh
Tường phê b́nh Cải cách Ruộng đất. Về
những bài thơ của Trần Dần, Phùng Quán, Lê
Đạt. Nhưng chế độ Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Lê Duẩn đă đàn áp thẳng tay,
đă tiêu diệt những bộ óc sáng tạo độc
lập. Mục tiêu của đảng cộng sản trong
vụ đánh Nhân Văn, Giai phẩm là dùng tem phiếu, biên
chế, dùng đảng, đoàn và công an biến tất
cả các văn nghệ sĩ, trí thức thành nô lệ.
Trong cuốn nhật kư của Trần Dần (GHI, 1954-1960,
td memoire xuất bản, 2001,) ông ghi lại những nỗi
nhục nhằn của giới trí thức, văn nghệ
trong thời đó. Trần Dần có lần khuyên nhạc
sĩ Tử Phác, “Ngoan với Đảng th́ lại đâu
có đó!” (trang 297); và có lúc ông quyết định rơ ràng: “
... tôi nghĩ rằng: Bây giờ chỉ c̣n con
đường duy nhất, là đầu hàng Đảng.”
(trang 267) Cả một thế hệ trí thức Việt Nam
đă bị nghiền nát trong guồng máy đảng
trị của các ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh,
Tố Hữu như vậy.
Trong thời gian các ông Nguyễn Mạnh
Tường, Trần Dần, Phùng Quán nổi lên trên mặt
trận chữ nghĩa ở Việt Nam để bị
đàn áp tàn nhẫn, th́ Leszek Kolakowski cũng bị vùi
dập ở Ba Lan. Nhưng Leszek Kolakowski may mắn
thật. Nước Ba Lan đă có truyền thống
bất khuất, cũng có nhiều thế hệ những
người sống lưu vong (như nhạc sĩ
Frederick Chopin) và Leszek Kolakowski chỉ cần bước theo
con đường đó. Ông đă đóng góp cho nền
tư tưởng xứ sở ông, và cho cả nhân
loại. Trong khi các bộ óc lỗi lạc của
nước Việt Nam như Trần Đức Thảo,
Nguyễn Mạnh Tường th́ bị guồng máy
cộng sản chôn vùi. Nghe tin Kolakowski được vinh
danh, chúng ta không khỏi thấy buồn cho thân phận các
nhà trí thức và văn nghệ Việt Nam cùng thời. Có
phải ông Leszek Kolakowski là người may mắn? Hay là
cộng sản Ba Lan nó c̣n có t́nh cảm con người
nhiều hơn cộng sản Việt Nam?