Nguyễn Vũ B́nh, phóng viên
Tạp chí Cộng sản
Sau một thời
gian tăng trưởng kinh tế ở mức cao (8-9%/năm),
nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ suy
giảm. Năm 1998 mức tăng trưởng đạt
5,8%, năm 1999 là 5%. Đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam năm 1998 chỉ bằng 1/3 của năm 1997 và
năm 1999 bằng 1/3 năm 1998. Vấn đề quan
trọng là xu hướng giảm của tăng trưởng
kinh tế và đầu tư nước ngoài ngày càng rơ
nét. T́nh trạng tham nhũng trở thành quốc nạn
tham nhũng đă được Đảng, Quốc hội,
Chính phủ và nhân dân thừa nhận. Tệ nạn xă
hội - nỗi đau lớn nhất của dân tộc -
đang phát triển không ǵ ngăn cản nổi. Gần
đây, người ta khám phá ra vụ buôn bán, tiêu
thụ ma tuư lớn nhất từ trước tới nay,
vụ án được xét xử ngày 13-6 tại Nam Định.
Trước t́nh h́nh thực tế của đất nước,
có hai cách nh́n nhận, lư giải và đánh giá. Theo quan
điểm chính thống của Đảng và nhà nước
th́ rơ ràng những thành tựu mà nước ta đạt
được trong thập kỷ vừa qua là vô cùng
ngoạn mục. Tuy nhiên, mấy năm cuối thập
kỷ, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế - tiền tệ châu Á, mức tăng trưởng
của nền kinh tế có phần giảm sút song vẫn
ở mức cao nhất khu vực và châu Á. Quốc
nạn tham nhũng th́ Đảng và Chính phủ, Quốc
hội cũng không bao giờ quên. Bài diễn văn nào,
cuộc họp nào cũng nhắc tới, thậm chí
những cuộc tiếp xúc ngắn ngủi giữa lănh
đạo Đảng với dân, tham nhũng cũng bị
đưa ra bàn bạc, mổ xẻ. Tệ nạn xă
hội đích thị là do kinh tế thị trường
(mặt trái của kinh tế thị trường). Không c̣n
phải nghi ngờ ǵ nữa, chúng ta chấp nhận kinh
tế thị trường cũng phải chấp nhận
mặt trái của nó và tệ nạn xă hội là
đương nhiên. Vấn đề là giáo dục đạo
đức và khắc phục mặt trái của kinh tế
thị trường.
Một cách nh́n nhận khác, trái hẳn với cách nh́n
nhận thông thường, chính thống. Cách nh́n nhận
này thực ra đă được các nhà cách mạng lăo
thành, những trí thức tâm huyết với đất nước
ở trong và ngoài nước bằng nhiều h́nh thức
góp ư với Đảng và Nhà nước. Cũng là điều
b́nh thường khi người đi sau tổng hợp và
phát triển với một ư chí và quyết tâm cao trên cơ
sở nhận thức của bản thân.
Đến thời điểm này, Tôi cho rằng Việt Nam
đang đứng trước một cuộc tổng
khủng hoảng lớn nhất của chế độ
hiện hành. Có thể khái quát trạng thái hiện nay
của t́nh h́nh đất nước là: Bế tắc
về đường lối, đ́nh trệ về kinh
tế và dồn nén về xă hội. Sau đây sẽ phân
tích từng vấn đề.
1- Bế tắc về
đường lối
Vấn đề lớn đầu tiên là đường
lối về chính trị. Với ư thức hệ Mác- Lênin
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động và phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xă hội
chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đang
đưa đất nước vào ngơ cụt bởi
những lư do: Thứ nhất, hệ tư tưởng Mác-
Lênin khái quát thực tế lịch sử từ trước
cho đến thế kỷ XIX, hiện nay chúng ta đang
sống ở thế kỷ XXI, không thể lấy
những kết luận của thế kỷ XIX làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động ở thế kỷ XXI được. Thứ
hai, dù nói cách nào th́ sự sụp đổ của CNXH
ở Liên Xô và các nước Đông Âu đă chứng minh
ư thức hệ tư tưởng Mác- Lênin không phù
hợp với lịch sử và đă bị đào
thải. Thứ ba, theo nhà toán học Phan Đ́nh Diệu, khái
niệm " Kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN" là một khái niệm mâu thuẫn.
Chủ nghĩa xă hội, với tư cách là một
thể chế xă hội (theo định nghĩa kinh điển),
là một chế độ mà về mặt kinh tế
phải xây dựng trên cơ sở công hữu hoá về
tư liệu sản xuất, quản lư tập trung và
kế hoạch hoá vv.. rơ ràng mâu thuẫn với kinh
tế thị trường. Mâu thuẫn trong cơ sở lư
luận sẽ dẫn tới những biện pháp nửa
vời trong thực tiễn hành động. Đây là lư do
quan trọng nhất dẫn tới bế tắc về
đường lối phát triển kinh tế hiện nay.
Với quan điểm kinh tế Nhà nước (ṇng
cốt là doanh nghiệp nhà nước) giữ vai tṛ
chủ đạo, nền kinh tế Việt Nam không
thể phát triển được. Trên thế giới chưa
có một nước nào mà doanh nghiệp nhà nước
hoạt động có hiệu quả và thực tế
đau đớn của Liên Xô và các nước Đông Âu
cũng như những nước gọi là CNXH, trong đó
có Việt Nam c̣n tồn tại chẳng phải đă là
những minh chứng rơ như ban ngày hay sao? Một vấn
đề rất quan trọng nữa về đường
lối, đó là đường lối hội nhập. Chúng
ta đều biết rằng, sự phát triển của
một nền kinh tế ngày nay không thể tách rời
khỏi sự phát triển của nền kinh tế khu
vực và thế giới. Để thu hút vốn, kỹ
thuật và tŕnh độ quản lư cho phát triển kinh
tế th́ hội nhập là yêu cầu tuyệt đối
đối với bất cứ nền kinh tế nào. Song
hội nhập lại đ̣i hỏi các nền kinh tế
phải đáp ứng đầy đủ những nguyên
tắc của nền kinh tế thị trường. Và
bất kỳ nền kinh tế nào đi ngược
lại hoặc chưa bảo đảm về cơ
bản các nguyên tắc thị trường đều
bị tổn thương trong quá tŕnh hội nhập.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ châu Á
vừa qua đă chứng minh rất rơ luận điểm
này. Theo tôi, các nước vừa qua bị khủng
hoảng do đă vi phạm hai nguyên tắc rất quan
trọng của nền kinh tế thị trường,
đó là: Thị trường phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực của nền kinh tế và tính
minh bạch và trung thực của thông tin trong nền kinh
tế thị trường. Như vậy, với nền
kinh tế nước ta hiện nay, các nhà lănh đạo
đều cảm nhận được sự nguy
hiểm của hội nhập và chính v́ vậy đă
dẫn tới sự nửa vời, bị động và
bế tắc trong đường lối hội nhập.
2- Đ́nh trệ về
kinh tế
Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học cuối
năm 1999 đă đưa nhiều số liệu về
việc tồn đọng một số sản phẩm cơ
bản của nền kinh tế như: xi măng, sắt,
thép, phân bón, đường,vv...cũng như t́nh h́nh
thất nghiệp rất lớn trong các doanh nghiệp
hiện nay. Đó là một trong những biểu hiện
đ́nh trệ của nền kinh tế. Nhưng quan
trọng hơn là đi vào t́m hiểu bản chất
của nền kinh tế nước ta hiện nay. Thú
thực, là một người Việt Nam nhưng tôi không
thể vui mừng được trước những cái
gọi là thành tựu của công cuộc đổi
mới như tăng trưởng kinh tế 8-9%, tỷ
lệ đói nghèo giảm từ 33% xuống c̣n 17% theo
số liệu chính thức. ở đây chưa bàn đến
phương pháp thống kê (tính GDP) cũng như định
nghĩa về hộ đói nghèo mà vấn đề là
những ǵ đang diễn ra đằng sau những con
số đó. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có
một khuyết điểm rất lớn là nó không
chỉ cho người ta biết được khả năng
thanh toán hay khả năng trả nợ của một
nền kinh tế - và đây là điểm quan trọng
nhất. Tôi h́nh dung nền kinh tế Việt Nam như
một quỹ tín dụng nhân dân khổng lồ (dân gian
gọi là chủ hụi) chưa bị vỡ nợ. Đặc
điểm của những quỹ tín dụng này là
khả năng che đậy thực lực tài chính
bằng phương pháp vay của người sau trả
cho người trước và nó chỉ bị vỡ tung
khi bị phát hiện hoặc không vay được
nữa. Theo số liệu công bố chính thức, tổng
số nợ của nước ta là 11 tỉ USD, nhưng
số nợ thực có thể là gấp rưỡi
hoặc gấp đôi (xấp xỉ 20 tỉ USD), tức là
số nợ gần tương đương hoặc
bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của nước
ta. (GDP của Việt Nam khoảng 30 tỉ USD nhưng có người
nhận định chỉ vào khoảng 20 tỉ USD). Nhưng
vấn đề quan trọng là một nền kinh tế
không có hiệu quả (sẽ phân tích), với đường
lối và phương thức phát triển như hiện
nay th́ khả năng trả nợ sẽ là con số không!
Điều này lư giải tại sao tất cả những
số liệu, thông tin về vấn đề này đều
thuộc bí mật quốc gia. Xin lấy một ví dụ
cụ thể về hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Theo số liệu của Báo cáo kinh tế của Viện
Kinh tế học th́ số nợ quá hạn của hệ
thống ngân hàng thương mại nước ta là 7% trên
tổng dư nợ, cộng với 7% khoanh nợ cho các
doanh nghiệp nhà nước là 14% (theo các chuyên gia nước
ngoài là 23-25%). Trong khi đó, bất kể ngân hàng nào trên
thế giới, số nợ quá hạn trên tổng dư
nợ là 5% th́ ngân hàng đó đă phải phá sản! Như
vậy hệ thống ngân hàng của nước ta có
số nợ quá hạn cao gấp 3 đến 5 lần
giới hạn cho phép mà vẫn tồn tại ung dung, vui
vẻ. Điều mấu chốt là những thông tin này
phải được giữ bí mật, nhất là đối
với những người gửi tiền vào ngân hàng.
Vấn đề đói nghèo cũng có kịch bản tương
tự. Đằng sau những con số mỹ miều về
thành tích xoá đói giảm nghèo là cuộc sống cùng
cực của những người công nhân, nông dân,
những người lao động. Bởi v́ những con
số chỉ phản ánh được mức tăng
đơn thuần về lượng của thu nhập mà
không biết tới một chu kỳ "tiêu dùng
mới" của toàn xă hội trong những năm qua.
Trong 10 năm (1990-1999) qua, chúng ta đă bước sang
một chu kỳ tiêu dùng mới với những chi tiêu cho
giáo dục, y tế, những khoản đóng góp mới,
với chi tiêu cho những hủ tục ở nông thôn
mới trỗi dậy và những khoản tiêu cực phí
cho bất kỳ công việc nào,vv... Những con số tăng
lên nhỏ nhoi về thu nhập liệu có lấp đầy
những chi phí phát sinh trong chu kỳ tiêu dùng mới
của nhưng hộ đói nghèo? Có nên tự hào về
những con số đó không khi mà những gia đ́nh này
phải có những khoản tiền khổng lồ đối
với họ th́ con họ mới học lên được
trung học và đại học.
T́nh trạng đ́nh trệ về kinh tế được
phân tích rất rơ trong Báo cáo kinh tế của Viện
Kinh tế học. Nguyên nhân trực tiếp của
việc tồn đọng những sản phẩm cơ
bản là do chi phí sản xuất quá cao so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân về cơ
cấu - mục tiêu là do: thứ nhất, phần lớn lượng
vốn xă hội đầu tư vào khu vực doanh
nghiệp nhà nước không có hiệu quả "Doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) sử dụng hơn 80% lượng
vốn xă hội, giữ vai tṛ quan trọng trong sản
xuất và đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng
khả năng tích luỹ c̣n rất hạn chế. Trên
thực tế, tổng số nợ của DNNN năm 1999
đă lên tới khoảng 200.000 tỉ đồng. Nếu
tính đầy đủ những khoản như xoá
nợ, khoanh nợ không phải thanh toán, bao cấp lăi
suất,vv... th́ các DNNN này chẳng những không tạo ra
được tích luỹ mà c̣n khó tái tạo được
nguồn vốn ban đầu. Dù muốn lập luận như
thế nào chăng nữa hơn 80% lượng vốn xă
hội sử dụng theo phương cách trên vẫn là
nguyên nhân của t́nh trạng giảm sút tăng trưởng
và ḱm hăm cầu" (Tạp chí Cộng sản, số 2,
tháng 1-2000, trang 32); Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân
không phát triển được. Chúng ta đều
biết, kinh tế tư nhân là động lực phát
triển của tất cả các nền kinh tế thị
trường phát triển trên thế giới. Khu vực
kinh tế này không phát triển được th́ nền
kinh tế cũng không thể phát triển.
Có ba nguyên nhân quan trọng làm cho khu vực kinh tế tư
nhân không phát triển. Một là, không thừa nhận
sở hữu tư nhân dẫn tới việc tư nhân
kinh doanh không được bảo đảm và bảo
vệ bằng pháp luật. Hai là, kinh tế thị trường
chưa chín muồi (chưa tạo lập đầy đủ
và đồng bộ các thị trường), chưa có
hệ thống pháp luật cho kinh tế thị trường
phát triển, dư luận xă hội đối với
kinh tế tư nhân c̣n nhiều nặng nề, định
kiến. Ba là, sự méo mó của hoạt động
sản xuất kinh doanh do việc ưu tiên quá mức cho các
DNNN.
Với hai nguyên nhân cơ cấu-mục tiêu nêu trên,
nền kinh tế nói chung không có hiệu quả. Kết
hợp với việc sụt giảm đầu tư nước
ngoài và đường lối hội nhập bế
tắc, sự đ́nh trệ của nền kinh tế là
một tất yếu.
3- Dồn nén về xă
hội
Đối với mỗi một nhà phân tích có lương tâm,
vấn đề xă hội của đất nước
hiện nay là nỗi đau lớn nhất bởi tính
chất nghiêm trọng và khả năng khôi phục
cực kỳ khó khăn, lâu dài của nó. Có thể nói,
những nền tảng cơ bản của xă hội
Việt Nam đă bị phá huỷ hoàn toàn. Điều này
thể hiện trên những phương diện sau:
- Tính trung thực xă hội đă bị phá huỷ hoàn toàn.
Tính trung thực xă hội là nền tảng quan trọng
nhất để một xă hội phát triển lành
mạnh. Song, chúng ta đều biết rằng, qua thời
gian tính trung thực xă hội đă biến mất. Trước
hết, sự không trung thực bắt nguồn từ
hệ thống chính trị, thẩm thấu vào hệ
thống quản lư và lan toả ra toàn xă hội. Một
đặc trưng của xă hội hiện nay là không
một ai nói thật và rất sợ sự thật. Không
phải ngẫu nhiên mà phương châm hành động
của Đại hội VI là nói đúng sự thật, nh́n
thẳng vào sự thật và đánh giá đúng sự
thật.
- Đạo đức xă hội đă bị phá huỷ nghiêm
trọng. Những quan hệ xă hội, trong đó quan
hệ con người với con người là cơ
bản, và quan hệ t́nh cảm hợp thành nền
tảng đạo đức xă hội đều bị
phá hủy nghiêm trọng bởi sự ra đời và lên
ngôi của một thứ quan hệ "đồng chí".
Thực ra quan hệ "đồng chí" không có
nội dung xă hội và không thể tồn tại, song chính
v́ vậy mà nó đă tồn tại bằng một sự
lên gân và tiêu diệt các mối quan hệ khác. Không có ǵ
ngạc nhiên khi ngày nay người ta thường gọi
những người mà ḿnh ghét và khó chịu là "đồng
chí". Trải qua một thời gian dài, khi mà quan hệ
đồng chí không c̣n nữa th́ cũng là lúc mà
những quan hệ khác đă bị phá huỷ hoàn toàn.
- Những giá trị xă hội và thước đo giá
trị xă hội đă bị đảo lộn. Bằng
sự can thiệp sâu rộng của chính trị vào
tất cả các lĩnh vực và trên mọi phương
diện, đến nay những giá trị xă hội và thước
đo giá trị xă hội đă bị đảo lộn
hoàn toàn. Những ǵ là đúng, là sai, là hay, là dở không
thể nào thống nhất và phân biệt được.
Con người nào là tài, là giỏi, là dốt, là cơ
hội,vv...không có thước đo xă hội làm
chuẩn mục đánh giá. Đây đúng là bi kịch
của xă hội Việt Nam bởi v́ chúng ta không thể
nào huy động và sử dụng được
những con người tài giỏi, trí tuệ nhất
của đất nước để thoát ra khỏi t́nh
trạng hiện nay.
- Con người bị tha hóa. Biểu hiện cuối cùng
và cao nhất về sự xuống cấp xă hội là
sự tha hoá của con người. Người ta không
được phép nói ra những điều ḿnh suy nghĩ,
hành động theo những ǵ người ta cho là đúng,
tức là ḿnh không phải là ḿnh. Có người nói
rằng, con người ngày nay là con người nhị nhân
cách song theo tôi th́ những người nhị nhân cách
đó là những người không có nhân cách. Làm sao mà có
nhân cách được trong khi tất cả các phát
biểu chính thức, những cuộc họp, hội
thảo anh nghĩ một đằng lại nói một
nẻo.
Lư giải nguyên nhân của tất cả những vấn
đề xă hội nêu trên là một điều hết
sức khó khăn. Song cũng có một vài điều
để chúng ta suy nghĩ về nguyên nhân. Tuyệt đối
hoá mục đích trong các hoạt động thực
tiễn, tức là phải đạt được
mục đích bằng mọi biện pháp, mọi giá, không
cần xem xét tới hậu quả - có thể là nguyên nhân
khởi nguồn, đầu tiên. Tuyệt đối hoá
quyết định cấp trên - mệnh lệnh, một
nguyên tắc của chiến tranh được đưa
vào quản lư xă hội. Và cuối cùng, kết hợp
với ảo tưởng về một xă hội dựa
trên nền tảng công hữu về tư liệu sản
xuất.
Trên nền của một xă hội như vậy, số lượng
ngày càng tăng của tội phạm và tính chất man
rợ và nghiêm trọng của tội ác không phải là
điều gây quá nhiều ngạc nhiên. Vấn đề
là hiện nay đang có sự dồn nén đặc
biệt về xă hội được tạo ra bởi
những khó khăn của nông dân, công nhân, những
ức chế của giới trí thức, những hoài nghi
và lo lắng của cán bộ lăo thành, cán bộ hưu trí.
Có ba nguyên nhân dẫn tới những dồn nén xă
hội.
* Một là, Điều kiện sống, sinh hoạt khổ
cực của nông dân và công nhân. Điều này không
cần dẫn chứng và phân tích nhiều bởi v́ đối
với công nhân, t́nh trạng không có việc làm và thu
nhập thấp là phổ biến và rơ như ban ngày. Đối
với nông dân, sự cùng cực và dồn nén đă bùng
nổ ở Thái B́nh mà nguyên nhân cơ bản của nó
đă được phân tích hoàn hảo trong bài
"Từ thực tế một xă, suy ngẫm về
sự đóng góp của nông dân" của Phó giáo sư,
Tiến sĩ Lê Trọng đăng trên Tạp chí
cộng sản số 16, tháng 8-1997. Trong bài báo có hai điều
cần lưu ư, đó là sự dư thừa của
lực lượng lao động từ 50-60% ở vùng
đồng bằng sông Hồng. Điều này phản ánh
sự bế tắc trong việc tạo lập môi trường
làm ăn thuận lợi cho nông dân. Thứ hai là mức
đóng góp rất lớn của nông dân từ 13-21
khoản chiếm tới trên 70% thu nhập, dẫn tới
thu nhập thực tế của nông dân ở mức
cực kỳ khốn khổ: 28.400 đồng/người/tháng
của lao động thuần nông và 40.000 đồng/người/tháng
cho người có thêm thu nhập phụ (điều này
phản ánh chính sách hà khắc đối với nông dân).
Với mức thu nhập thấp, cộng với những
tiêu cực phát sinh ở địa phương (cán
bộ tham ô, tham nhũng, hách dịch...) những người
nông dân Thái B́nh nổi dậy đă thực sự
cảnh báo nguy cơ tổng khủng hoảng của toàn
xă hội.
* Hai là, Bất công xă hội do sự phân hoá giàu - nghèo,
giữa nông thôn và thành thị đang diễn ra ngày càng
sâu sắc. Trong khi những người nông dân ở nông
thôn, những người công nhân đang vật lộn
với cuộc sống khổ cực th́ lại có một
tầng lớp mới (tuyệt đại bộ phận là
những kẻ có chức, có quyền nằm trong bộ máy
Nhà nước, Đảng) giàu nứt đố đổ vách,
ăn tiêu xa xỉ cả đời không hết của.
Trong khi hàng tiêu dùng băo hoà ở thành thị th́ người
nông dân ở nông thôn vẫn rách rưới, thiếu
thốn và không thể nào mua nổi. Pháp luật chỉ
nghiêm minh đối với những người thấp
cổ bé họng và nghèo khổ nhưng lại né tránh
những kẻ có quyền và có tiền.
* Ba là, Cảm nhận về sự bế tắc của tương
lai. Đối với người nông dân và công nhân, người
ta không nh́n thấy một tương lai khả quan nào
về việc làm cũng như cải thiện thu nhập
của họ. Giới trí thức và những người
có tâm huyết với đất nước cũng không
nh́n thấy một tia sáng nào dưới đường
hầm tăm tối của đường lối phát
triển đất nước hiện nay. Việc không nh́n
thấy lối thoát đă góp phần tạo ra sự
thụ động xă hội và cuối cùng là sự
dồn nén xă hội.
Trên đây là những khái quát và phân tích về t́nh h́nh
đất nước. Song tất cả thực trạng này
mới chỉ là tiền đề cho sự thay đổi
có tính chất cách mạng của xă hội Việt Nam.
Nếu dựa vào kinh nghiệm rút ra từ những nước
thay đổi chế độ trong ṿng 15 năm trở
lại đây, chúng ta không nh́n thấy tương lai
của sự thay đổi. ở Việt Nam, sự thay
đổi chế độ bắt nguồn từ sự
thay đổi đường lối chính trị do
những người lănh đạo cao nhất khởi xướng
bị loại trừ hoàn toàn. Mặt khác, sự sụp
đổ về kinh tế dẫn tới động
loạn xă hội và thay đổi về chính trị (như
Anbani và Indonexia) rất khó xảy ra bởi khả năng
can thiệp và tinh thần cảnh giác cao của Nhà nước
trước những biến động kinh tế. Vậy
th́ phải chăng là sự gia tăng của ba yếu
tố khó khăn kinh tế, dồn nén xă hội, sự phân
hoá của tầng lớp lănh đạo cùng với
sự xuất hiện của lực lượng đối
lập sẽ là câu trả lời về sự thay đổi
của đất nước.
Đứng trước t́nh h́nh hiện nay, vai tṛ của Đảng
Cộng sản Việt Nam là ǵ? Liệu Đảng Cộng
sản có khả năng tự thay đổi ḿnh và xoay
chuyển được t́nh thế để vẫn
giữ được vị trí lănh đạo đất
nước trong tương lai không? Câu trả lời là
không và có.
- Không: Tất cả sự lựa chọn và thay đổi
khó khăn nhất của ĐCS tập trung vào hai điểm
mấu chốt là Doanh nghiệp Nhà nước và chống
tham nhũng. Nếu từ bỏ được quan điểm
DNNN giữ vai tṛ chủ đạo, đồng nghĩa
với việc phát triển kinh tế tư nhân, tạo
động lực mới cho phát triển kinh tế
của đất nước và chống được
tham nhũng, đồng nghĩa với việc làm trong
sạch Đảng và lấy lại được uy tín trước
nhân dân th́ ĐCS vẫn ung dung một ḿnh lănh đạo
đất nước tiến vào thế kỷ XXI. Nhưng
than ôi! điều đó nằm ngoài khả năng
hiện thực. Bởi v́ loại bỏ DNNN cũng chính là
từ bỏ lợi ích sống c̣n của tầng lớp
lănh đạo, lợi ích được bao phủ
bởi vẻ đẹp huyền ảo (không ai hiểu
được) của định hướng XHCN, của
con đường đi lên CNXH hiện nay. C̣n chống
tham nhũng ư? tham nhũng ở Việt Nam là phương
thức tự tồn tại của tất cả những
người có điều kiện tham nhũng do mức lương
khốn khổ cộng với t́nh trạng mua quan, bán tước
nở rộ hiện nay. Liệu ĐCS có thể chống
được tham nhũng không?!?
- Có: Trước khi trả lời câu hỏi, cần
phải có sự thống nhất về nhận thức.
Nếu cho rằng t́nh h́nh đất nước hiện
nay chỉ là những khó khăn tạm thời, không liên
quan ǵ tới bản chất chế độ, th́ không có
ǵ phải bàn ở đây. Song nếu ĐCS nhận thức
được nguy cơ thực sự của t́nh h́nh
đất nước, khả năng thay đổi
chế độ xă hội trong tương lai gần là có
thực và không tránh được, th́ vấn đề
là Đảng phải làm ǵ để tự thay đổi và
giữ được khả năng lănh đạo
(tất nhiên là không phải độc quyền lănh đạo
nữa) trong điều kiện ổn định của xă
hội. Trong t́nh h́nh như vậy, ĐCS phải có một
quyết tâm và một sự hy sinh cực kỳ to lớn
nhưng cần thiết. Đó là ĐCS cần tự đặt
ḿnh vào thử thách sống c̣n trước khi bị xă
hội làm điều đó. Và tôi tin rằng nếu ĐCS
thực sự v́ dân, v́ nước, thực sự
muốn lấy lại ḷng tin của nhân dân để
tiếp tục lănh đạo đất nước th́
quyết định duy nhất đúng hiện nay là
từ bỏ độc quyền lănh đạo, đồng
ư thực hiện đa nguyên tư tưởng, đa
đảng đối lập. Tôi xin phân tích thêm ư nghĩa
của quyết định này.
Nếu quyết định này (đồng ư thực
hiện đa nguyên, đa đảng) chỉ là giải pháp
để giữ vị trí lănh đạo của ĐCS
Việt Nam trong giai đoạn nhất định, th́
đối với lịch sử của đất nước,
nó lại là một quyết định, một chiến công
vĩ đại nhất từ trước tới nay. Nh́n
lại toàn bộ lịch sử nước ta, truyền
thống đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền
thống chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt nhưng nhân
dân chưa bao giờ được tự do, đất nước
chưa một ngày có dân chủ. Hiện nay đất nước
đang ở thời điểm quyết định cho bước
chuyển biến lớn nhất của lịch sử, và
lịch sử đang trao trọng trách cho tất cả chúng
ta. Chúng ta, trước hết là ĐCS, cần phải
nắm bắt và khai thác được thời cơ có
một không hai này để mở ra cho toàn xă hội
một chân trời mới của sự phát triển. Tôi
tin tưởng tuyệt đối và mănh liệt rằng,
dù có bất kỳ trở ngại nào, dù ư muốn
chủ quan của bất kỳ cá nhân nào, lực lượng
nào cản trở, dân tộc Việt Nam vẫn đi
tới đích của lịch sử : Tự do của cá
nhân và Dân chủ cho toàn xă hội.
Là một người dân Việt, với nhận thức
về t́nh h́nh đất nước và xu thế không
thể đảo ngược, Tôi chỉ có một mong
muốn duy nhất là làm sao góp phần giảm thiểu
tối đa những tổn thất mà nhân dân phải gánh
chịu, nảy sinh từ bước chuyển biến
đau đớn nhưng đầy vinh quang sắp
tới. Lư do cũng rất đơn giản, một thay
đổi lớn của lịch sử nếu không có
sự chuẩn bị về tinh thần của nhân dân
sẽ rơi vào hỗn loạn, dẫn tới hậu
quả khôn lường cho xă hội. Chính v́ vậy,
cần có một lực lượng đối lập ngay
trong ḷng xă hội hiện nay để một mặt, thúc
đẩy tất cả các yếu tố sẵn có đi
tới chín muồi và mặt khác, cùng với thời gian
và sự thay đổi, tạo ra nền tảng vững
chắc cho một cơ cấu dân chủ trong tương
lai (tránh t́nh trạng như nước Nga, khi thay đổi
chế độ không có một chính đảng thực
sự thay thế dẫn tới việc kéo dài thời gian
xây dựng thiết chế dân chủ).
Trên tinh thần đó, Tôi đă làm đơn (có gửi
kèm) xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ. Xin tŕnh
bày một số nét sơ lược về đảng
Tự do - Dân chủ cũng như suy nghĩ của
bản thân về con đường phát triển đất
nước.
Đảng Tự do - Dân chủ có mục đích tự thân
là đấu tranh cho Tự do cá nhân và Dân chủ xă
hội. Trong bất kỳ thời điểm nào, hoàn
cảnh nào, nếu Đảng không c̣n đấu tranh cho
Tự do và Dân chủ, th́ Đảng sẽ không c̣n là đảng
Tự do - Dân chủ. Mục tiêu cơ bản và lâu dài
của đảng Tự do - Dân chủ là xây dựng
một xă hội : Nhân dân tự do - giàu có, Quốc gia hùng
mạnh, Xă hội dân chủ - công bằng - văn minh.
Để thực hiện được mục tiêu cao đẹp
trên, cần xây dựng được tiền đề,
nội dung và điều kiện cho sự phát triển
đất nước. Đó là : Dân chủ hoá xă hội, Xây
dựng nền kinh tế thị trường hiện đại
và phát triển, Quốc tế hoá mọi hoạt động,
mọi lĩnh vực của đời sống xă hội.
a/ Dân chủ hoá xă hội. Nói tới dân chủ hoá xă
hội là phải tôn trọng những nguyên tắc chung
của dân chủ, tức là phải thừa nhận
những quyền cơ bản của con người,
quyền công dân mà bất kỳ chế độ dân
chủ nào cũng phải thừa nhận. Đó là quyền
được sống và mưu cầu hạnh phúc,
quyền được tự do ứng cử và bầu
cử. Mặt khác, cần xây dựng hệ thống
luật pháp làm nền tảng cơ bản cho chế
độ chính trị dân chủ. Một luật pháp
cần bảo đảm được những quyền
con người và quyền công dân cơ bản, bảo
đảm được sự phát triển và thay đổi
bằng tiến hoá trong ổn định và quan trọng
nhất là tạo ra khả năng lựa chọn cái
tốt nhất cho đất nước. Điều cần lưu
ư là xây dựng chế độ dân chủ phải là
một quá tŕnh liên tục, tự điều chỉnh,
tự bổ sung và hoàn thiện. Cần huy động
được sự cống hiến của mọi người,
không loại trừ người nào trong quá tŕnh thực
hiện dân chủ.
b/ Xây dựng nền kinh tế thị trường
hiện đại và phát triển. Trong nền kinh tế
thị trường th́ quyền tư hữu tài sản là
nền tảng phát triển, quyền sở hữu trí
tuệ là động lực phát triển. Cần phải
tuyệt đối bảo đảm và bảo vệ hai
quyền này bằng luật pháp. Đồng thời tuân
thủ nguyên tắc số một của kinh tế thị
trường là: thị trường phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực. Nền kinh tế hiện đại
gắn liền với xă hội thông tin, kinh tế tri
thức và toàn cầu hoá. Với tiềm năng trí
tuệ và khả năng sáng tạo của con người
Việt Nam, chúng ta hy vọng một sự bùng nổ khi
mỗi một cá nhân được tự do phát
triển.
c/ Quốc tế hoá các hoạt động trên mọi lĩnh
vực của đời sống xă hội. Đây vừa là
yêu cầu, vừa là điều kiện để phát
triển của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Xét trên góc độ hội nhập, đó là
việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm phát
huy văn hoá dân tộc lên tầm cao mới. Xét trên giác
độ toàn cầu hoá, đó là thực hiện sự
luân chuyển tự do của các yếu tố: nhân
lực, thông tin, vốn, kỹ thuật. Trong điều
kiện hiện nay, đẩy mạnh quốc tế hoá các
hoạt động trên mọi lĩnh vực chính là điều
kiện để thực hiện dân chủ hoá xă hội
và xây dựng nền kinh tế thị trường
hiện đại.
Bài viết này tập hợp tất cả trí tuệ và
tâm huyết của bản thân tôi. Với tâm niệm
rằng, cần phải có một đảng chân chính và
trung thực ngay từ buổi đầu thành lập,
bằng phương thức đấu tranh công khai và hoà
b́nh cho Tự do và Dân chủ ở Việt Nam. Tôi biết
rằng, có thể tôi sẽ phải hy sinh nhưng vẫn
tin tưởng tuyệt đối là : Lịch sử
sẽ sang trang, nhân dân Việt Nam nhất định
sẽ được hưởng Tự do và Dân chủ
trong một tương lai không xa nữa. Và trên nền
của Tự do và Dân chủ, nhân dân Việt Nam sẽ làm
cho cả thế giới phải kinh ngạc về dân
tộc ḿnh, đất nước ḿnh không kém những ǵ
họ đă làm trong lịch sử./.
Nguyễn Vũ B́nh