Minh Vơ
Chương 11
Hai từ Việt Cộng (thường được người Mỹ gọi tắt là Vi-Xi (V.C. = Vietnamese communists) có nghĩa là người cộng sản Việt Nam. Trong thực tế chúng chỉ những kẻ theo Cộng sản để chống chính quyền Quốc Gia, dù họ có phải là đảng viên cộng sản hay không. Cũng như trước kia có nhiều người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp; mà Việt Minh th́ do đảng cộng sản lănh đạo; nhưng không phải ai kháng chiến chống Pháp cũng là cộng sản. Hơn nữa hai tiếng "Việt Cộng" thường được dùng để chỉ lính hay cán bộ thuộc mặt trận "Giải Phóng Miền Nam", chứ không phải bộ đội hay cán bộ miền Bắc. Nguyên cái phức tạp của nguồn gốc từ ngữ cũng đă cho thấy phần nào khía cạnh phức tạp của cuộc chiến tranh quốc cộng trong ba thập niên.
Chính v́ vậy
Trương Như Tảng đă đề tựa cuốn
hồi kư của ông là "Mémoire d'un Vietcong", và "A
Vietcong Memoir" (Hồi Kư của một Việt Cộng).
(1) Mà trong tác phẩm này ông lại cho biết ông không
phải là đảng viên cộng sản Việt Nam, và
nhiều thành viên trong Mặt trận cũng như
"chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt
Nam" cũng không phải là đảng viên cộng
sản.
Với cương vị
một cựu bộ trưởng tư pháp của
"chính phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt
Nam", là chính phủ đă được ngồi ngang
hàng với chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa dưới
quyền tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại
ḥa đàm Paris, Trương Như Tảng đă
được người ngoại quốc hết
sức chú ư khi ông rời bỏ hàng ngũ cộng sản,
để t́m về với thế giới tự dọ
Nhất là khi ông cho ra cuốn hồi kư viết rất
cẩn thận, gồm nhiều chi tiết lư thú lôi
cuốn người đọc, như những
đoạn tả cảnh sinh hoạt lén lút cực kỳ
gian khổ trong rừng ở biên giới Việt Miên, hay
cảnh cùng với hàng chục "thuyền nhân" chen
chúc trên chiếc tầu nhỏ xíu lênh đênh trên biển
cả trong một tuần lễ, với bao trắc
trở, hiểm nguy.
Trong cuốn hồi kư này
họ Trương cũng nói khá chi tiết về thân
thế và công việc làm của ông trong vùng quốc gia
cũng như ở ngoài "bưng", qua đó người
đọc có thể biết thêm nhiều thủ
đoạn, mưu mô mánh lới của đảng và
sự việc những nhà trí thức miền Nam bị
cộng sản đánh lừa và phản bội ra sao.
Ông hănh diện
được ở trong một gia đ́nh mà cả 6 anh em
đều thành đạt gần đúng như sự mong
muốn và xếp đặt của cha ông, ngay từ khi ông
mới 13 tuổi: một bác sĩ, một dược
sỹ, một giám đốc ngân hàng và 3 kỹ sư . Sau
khi tốt nghiệp trung học Chasseloup Laubat, là nơi ông
có những người bạn nổi tiếng như
Norodom Sihanouk, Dương Quỳnh Hoa, Phạm Ngọc
Thảo v.v ông được gia đ́nh gửi sang Pháp du
học. Ông là người con duy nhất trong gia đ́nh không
theo đúng lời dặn của cha là phải học
dược, v́ đă bỏ khoa này nửa chừng
để chuyển sang học chính trị và luật. Ông
đă thi đậu cao học chính trị và cử nhân
luật năm 1951. Rồi đi theo cộng sản Pháp
chống chiến tranh. Cha ông hiểu cộng sản. Gia
đ́nh ông đă bị điêu đứng v́ cộng
sản. Cơ sở làm ăn buôn bán của gia đ́nh ông
bị cộng sản phá sạch. V́ vậy khi nghe tin ông
theo cộng sản. Cha ông gọi ông về. Ông không về.
Cha ông và cha vị hôn thê của ông bày mưu đưa cô
này, lúc ấy mới 17 tuổi, sang Pháp làm đám
cưới với ông, rồi đưa đi thăm thú
nơi nọ nơi kia với mục đích làm ông mê
vợ trẻ, quên chính tri.. Nhưng ông lại thuyết
phục được vợ theo chí hướng của
ông mà cả hai coi là chủ nghĩa yêu nước.
Đến nước này gia đ́nh hai bên chỉ c̣n cách làm
áp lực tài chính. Cắt chuyển ngân. Không tiếp tế
ǵ nữa. Trương Như Tảng bèn để vợ
mang bầu về Saigon c̣n ḿnh ở lại đi rửa
chén, gọt khoai kiếm tiền sinh sống ngỏ hầu
có thể tiếp tục theo hướng đi đă
vặch sẵn. Nhưng rồi sau ông cũng mềm ḷng v́
thương gia đ́nh, (cha ông không c̣n đủ tiền cho
các anh em ông tiếp tục theo học). Ông về
nước vào năm 1954. Ông đă kể rơ trường
hợp đó trong hai chương 3 và 4 của cuốn
hồi kư.
Khi mới chân ướt
chân ráo tới Pháp ông đă được hân hạnh
gặp Hồ Chí Minh cũng vừa tới để thương
thuyết với Sainteny. (1bis) Ông Hồ đă để
cả một buổi chiều tiếp ông và một nữ
sinh khác cũng người miền Nam tại pḥng làm
việc của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
ở Fontainebleaụ Cuộc gặp gỡ này đă
để lại cho ông một kỷ niệm khó quên và
những t́nh cảm sâu đậm dành cho ông Hồ,
người luôn bắt ông phải gọi là "bác"
chứ không được xưng hô là Hồ chủ
tịch, hay chủ ti.ch. Cũng v́ vậy cho nên khi về
nước vào năm 1954, ông đă từ khước
lời mời của những Vơ Văn Hải, Ngô Khắc
Tỉnh, Trần Hữu Thế là những người
quốc gia chống cộng, để rồi chạy theo
những người thuộc phe ông Hồ. Ngay từ 1958
ông đă bắt đầu hoạt động bí mật
cho cộng sản, tại Saigon. Sau khi tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm bị lật đổ, ông được
cử làm tổng giám đốc Công Ty Đường
Việt Nam, một công ty quốc gia lớn với trên 5000
nhân viên. Trong thời gian này theo ông cho biết (2) ông đă
hoạt động ngầm qua hai tổ chức thân
cộng là "Phong trào Tự Quyết" và "Ủy ban
bảo vệ Hoà B́nh" do bác sĩ Phạm Văn
Huyến, cha của nữ luật sư Ngô Bá Thành,
điều khiển. Năm 1967, do sự "phản
bội" của Ba Trà, một cán bộ cộng sản
khác, hành tung của ông bị bại lộ và ông bị
cảnh sát quốc gia bắt giam. Nhờ có Trần Bạch
Đằng (3) thu xếp
với người
Mỹ về trao đổi tù binh, ông được phóng
thích cùng với vợ của Trần Bặch
Đăụng để ra bưng hoạt động
hẳn cho cộng sản cho đến năm 1976.
Ngày 8 tháng 6 năm 1969
Trương Như Tảng được chỉ
định vào chức vụ bộ trưởng bộ
Tư Pháp của "chính phủ lâm thời cộng ḥa miền
Nam Việt Nam", do Huỳnh Tấn Phát, một
đảng viên cộng sản kỳ cựu, làm thủ
tướng. Gần 6 năm trời, từ 8-6-1969
đến 30 tháng 4 năm 1975, trong cuốn hồi kư không
hề thấy tác giả nói ông làm ǵ trong cái bộ đó và
nó hoạt động ra saọ (4) Đó chính là một
điểm khôi hài nhất của cái gọi là chính phủ
kia, đồng thời cũng là một lỗ hổng to
tướng của cuốn hồi kư.
Sau khi Saigon thất
thủ, Trương Như Tảng có dịp liên lạc
với gia đ́nh th́ được biết cha ông mới
qua đời, con gái ông đă được phu nhân tổng
thống Thiệu bảo trợ cho đi du học ở
bên Mỹ, con trai ông cũng đă sang Pháp, c̣n mấy
người anh em ông th́ bị đi "học tập
cải tạo", trong đó có một người cho
đến khi ông viết xong cuốn hồi kư (1985) vẫn
c̣n ở trong tù. Ông buồn rầu nhớ lại lời
cha ông nói lúc vào thăm ông trong nhà tù của tổng nha
cảnh sát quốc gia năm 1967:
"Con à, ba không thể
hiểu được con. Con đă bỏ tất cả.
Một gia đ́nh êm ấm, hạnh phúc, giầu có -
để đi theo bọn cộng sản. Chúng sẽ không
cho lại con được mảy may những ǵ con đă
bỏ đị Rồi sẽ thấy. Chúng sẽ phản
bội con và con sẽ khổ suốt đời." (5)
Ông cho rằng
trước kia ông cùng với một số trí thức
miền Nam khác vốn tin ḿnh tranh đấu cho một
miền Nam có một chế độ riêng, và thi hành chính
sách ḥa hợp hoà giải với phe quốc gia. Nhưng sau
30 tháng tư ông thấy những lời hứa hẹn, cam
kết của những Tôn Đức Thắng, Phạm
Văn Đồng và Lê Đức Thọ (trang 283-284)
chỉ là giả dối. Chỉ một năm sau chiến
thắng đảng đă hoàn tất việc thống
nhất đất nước, nghĩa là giải tán chính
phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam của nhóm các ông.
Không có ḥa hợp ḥa giảị Không có chính phủ ba thành
phần. Mà chỉ có đảng, một đảng duy
nhất, từ danh xưng đảng Lao động đă
đổi ngay sang "đảng Cộng sản Việt
Nam". Hơn 300.000 người (con số tối
thiểu của ông đưa ra) bị bắt giữ, không
có xét xử và không biết ngày về, trong đó có anh em
ruột thịt, bà con thân thích, bạn bè của ông, hay
của những người tai to mặt lớn trong
Mặt trận, kể cả con rể của luật
sư Trịnh Đ́nh Thảo, người bạn vong niên
của ông.
V́ đă tỉnh mộng,
hết tin tưởng ở đảng nên khi
được mời làm thứ trưởng bộ
Thực Phẩm và Tiếp Tế, ông đă từ chối
khéo. Cảm nhận được sự bất măn của
ông, chính Vơ Văn Kiệt, lúc ấy là bí thư thành ủy
Saigon, đă t́m cách giải thích và khuyến dụ ông
nhận một chức nhỏ hơn tại miền Nam.
Nhưng ông đă lợi dụng sự tin cẩn của
Kiệt để tính chuyện chuẩn bị vượt
biên. Ngày 25 tháng 8 năm 1979 ông xuống thuyền làm
"thuyền nhân' và hơn một tuần sau th́
được một tầu hàng Singapore chở tới
đảo Galang, thuộc Indonesia, bắt đầu
cuộc sống tha hương.
Bây giờ ta hăy xem trong
cuốn hồi kư 350 trang của ông, Trương Như
Tảng đă viết ǵ về những nhân vật và
tổ chức có ảnh hưởng quyết định
đến t́nh h́nh Việt Nam trong những năm ông
bắt đầu nhập cuộc.
Về ông Hồ Chí Minh:
Như đă nói, sinh viên
Trương Như Tảng, sau khi được gặp
"chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa" tại Pháp, liền bị con người
"khéo thu phục nhân tâm" này thu hút. Nhớ lại
những giờ được gần ông Hồ trong hoàn
cảnh thương thuyết có cơ thất bại
ấy, Trương Như Tảng nhận định:
"(Lúc ấy) ông
(Hồ) biết rơ ông đang đối diện với
khả năng kết liễu sinh mạng chính trị
của ḿnh, bằng không th́ cũng là một cuộc
chiến cam go, đẫm máu. Chính trong lúc tâm trí bị
những ư nghĩ đó dày ṿ mà ông đă dành cả một
buổi chiều cho hai sinh viên trẻ miền Nam. Thật
khó có thể nghĩ về một nhà lănh đạo thế
giới nào, trong hoàn cảnh tương tự, làm
được như ông." ( 6)
Đầu năm 1969 phái
đoàn Liên Minh Trịnh Đ́nh Thảo ra Bắc.
Trương Như Tảng tả cuộc đón tiếp
như của một quốc truởng, và được
Hồ Chí Minh đích thân tới thăm. Ông viết:
"Thảo có phần nào
ngạc nhiên thấy ḿnh được trọng đăi
như một quốc trưởng. Người ta cũng
xếp chương tŕnh để phái đoàn tới
yết kiến Hồ Chí Minh (lúc ấy đang bệnh
nặng, và thực sự là chỉ mấy tháng sau ông qua
đời). Nhưng ông Hồ, bằng một cử
chỉ đặc sắc, đă từ chối không cho phái
đoàn đến căn nhà gỗ của ông trong khuôn viên
dinh chủ ti.ch. Thay vào đó ông đă gửi cho Thảo
một thông điệp nói rằng đại diện
của nhân dân miền Nam hào hùng không cần phải tới
thăm ông, tốt hơn nên cho ông vinh dự đến
thăm phái đoàn." (7)
Rồi ông Hồ đi vào
cửa sau không có tiền hô hậu ủng và bắt gặp
bà Thảo đang trang điểm. Ông Tảng viết:
"Tất cả bọn
họ cảm động nói không nên lời, v́ cái vinh
dự mà ông Hồ dành cho ḿnh qua cử chỉ thân hữu
giản dị đó." (tr.141)
Trong chương 16, nói
về những lủng củng với cán bộ miền
Bắc, Trương Như Tảng đă bênh ông Hồ,
ngụ ư là nếu ông Hồ c̣n sống chắc không có
những rắc rối, mâu thuẫn xảy ra. Ông cũng
nói là nếu có cơ hội có lẽ ông Hồ đă thân
thiện với Tây Phương chứ không đi theo con
đường xă hội chủ nghĩa, mặc dù ông ta
đă bấu víu lấy sự ủng hộ của
cộng sản quốc tế như người sắp
chết đuối vớ được cái phao. Lời
lẽ của ông Tảng có vẻ cân nhắc, đắn
đo:
"Nhưng ngay cả khi
đắm ḿnh trong chủ nghĩa Quốc Tế III và
chủ nghĩa cách mạng chan ḥa ông (Hồ) vẫn
giữ ḿnh ở vị thế cởi mở đối
với những cơ hội có thể có. Viễn kiến
chính trị độc đáo của ông phóng về trước
hàng nhiều thập niên đă luôn luôn giữ lại sự
bén nhậy đối với những lựa chọn và
những đồng minh có thể có. Và những cơ
hội đă đến, trong những năm 1944, 1945 khi ông
điều khiển cuộc ve văn với Mỹ ở
cấp thấp, trong năm 1946 ở Fontainebleau khi ông nghĩ
rằng có thể làm thân với Pháp, và cả năm 1954 khi
chiến tranh với Pháp chấm dứt, và người
Mỹ đứng trước sự lựa chọn
của ḿnh." (tr.190-191)
Trương Như
Tảng chê các chính quyền Mỹ (Eisenhower và Kennedy) đánh
giá sai ông Hồ, cho rằng ông Hồ là dụng cụ
của Trung Quốc dùng để thực hiện chủ
nghĩa bá quyền mà không đếm xỉa đến
sự toàn vẹn và sức mạnh của ḷng yêu
nước của nhân dân Việt Nam. (tr.213)
Nhắc lại cuộc
cải cách ruộng đất đẫm máu trong những
năm 55-56, Trương Như Tảng cũng bênh ông
Hồ bằng cách giải thích rằng khi biết là có sai
lầm, ông Hồ đă hủy bỏ chiến dịch
cải cách và "trừng phạt" những kẻ có
trách nhiệm. Ông c̣n viết: "Đoạn ông Hồ
đă làm một cử chỉ bất thường là
đích thân xin lỗi nhân dân, công nhận "đă có
bất công". (tr.300)
Trong hồi kư của ông,
Trương Như Tảng đă nhiều lần nhắc
đến những danh ngôn của ông Hồ và như
vậy đă đề cao ông ta một cách gián tiếp.
Chẳng hạn: "Những lời ông Hồ nói với
chúng tôi trong năm 1946, tôi luôn luôn canh cánh bên ḷng: "Chúng ta
phải chống giặc ngoại xâm, chống giặc
đói, chống giặc dốt". Để "thành
công, thành công, đại thành công", chúng ta phải
"đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết" (tr.26) hay: "Càng gần chiến thắng, càng
nhiều khó khăn" (tr.239) Hoặc: "Hồ Chí Minh
đă viết rằng: "Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể
cạn, núi có thể ṃn. Nhưng chân lư đó không bao giờ
thay đổị" (trang 282)
Về việc huấn
luyện cán bộ của mặt trận "Dân Tộc
Giải Phóng miền Nam", Trương Như Tảng
bảo nhóm các ông không hề dạy thuyết Mác-xít. "trái
lại các huấn luyện viên chuyên chú vào việc khai thác
những khẩu hiệu yêu nước của Bác Hồ
như :"Không có ǵ quư hơn độc lập tự
do" (tr.264)
Quả thực ông
Tảng đă coi Hồ Chí Minh là thần tượng, là
"cha già dân tộc". Nơi trang 68 ông viết: 'Hồ
Chí Minh là cha thiêng liêng của phong trào ở miền Nam
cũng như ở miền Bắc.
Về mặt trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam:
Trương Như
Tảng đă để nguyên chương 7 (từ trang 63
đến trang 80) để nói về mặt trận
nàỵ Ông nói, v́ thấy ông Diệm "chỉ lo củng
cố địa vị mà không làm ǵ cho dân cho nước"
cho nên ông cùng một số người muốn có một
"tổ chức chính trị ngoài ṿng pháp luật" (8)
để thách đố sự độc quyền cai
trị của ông Diệm. Ban đầu chỉ có chừng
từ 8 đến 10 người họp bàn để
dần dần đưa ra một chương tŕnh
hoạt động, trong số đó có hai bác sĩ:
Dương Quỳnh Hoa, Phùng văn Cung, luật
sư Trịnh Đ́nh
Thảo ông Nguyễn Hữu Khương và kiến trúc
sư Huỳnh Tấn Phát, về sau có thêm các ông Nguyễn
Văn Hiếu, Ưng Ngọc Kỷ, Nguyễn Long và Trần
Bửu Kiếm. 6 người trong số này thuộc
ủy ban vận động gồm Trương Như
Tảng, các ông Hiếu, Kiếm, Kỷ, Long và Huỳnh
Tấn Phát.
Ông Tảng luôn để
ông Huỳnh Tấn Phát xuống dưới, như thể
không quan tro.ng. Nhưng Phát lại là người trụ
chốt. Sau này ông ta là thủ tướng của chính
phủ. Ông ta cũng là người đă gia nhập
đảng cộng sản Đông Dương ngay từ
1940. Các ông Hiếu, Kỷ, Kiếm cũng vào đảng
Lao Động
(tức đảng
cộng sản trá h́nh) từ năm 1951. Và ông Hiếu
đảng viên này đă được phái ra Bắc
để nhận sự chỉ dẫn của ông Hồ
(!) trước khi hoàn tất cương lĩnh và
chương tŕnh hoạt động của mặt trận.
(trang 71)
Ông Tảng nói rằng các
ông muốn hoạt động trong phạm vi ôn ḥa, chứ
không chủ trương vũ trang, nếu có đôi lúc
cần đến bạo động cũng chỉ
nhằm mục tiêu chính trị, hơn là quân sư..
Nhưng ông cũng cho biết là kể từ sau đại
hội III của đảng Lao Động ở
Hà-nội vào tháng 9 năm 1960 (9) với chủ trương
dành ưu tiên cho việc giải phóng miền Nam, các ông
đă quyết liệt hơn, không c̣n dè dặt, lúng túng
nữa.
Dưới sự
điều động của Huỳnh Tấn Phát một
toán biệt kích cố bắt cóc luật sư Nguyễn
Hữu Thọ đang bị chính quyền quốc gia giam
lỏng ở Tuy Ḥa. Nhưng họ đă thất
bạị Cho nên khi tuyên bố ngày thành lập mặt
trận 20 tháng 12 năm 1960 đă không có mặt vị chủ
tịch. Trương Như Tảng cũng măi đến
ngày 17 mới rời Saigon lên "mật khu" qua ngả
Tây Ninh để dự phiên họp ngày 19. Phiên họp
cũng kết thúc vội vă vào sáng sớm ngày 20, rồi
lập tức trở lại Saigon, trong ḷng mọi
người đều phập pḥng lo sợ không biết bị
phát giác và bị bắt lúc nào. Từ đầu đến
cuối tuy tác giả vẫn nói cứng là chủ
trương và công việc của các ông do các ông tự lo,
nhưng lại cũng thuật lại mọi việc
đều do Huỳnh Tấn Phát điều động,
kể cả việc tŕnh danh sách ủy ban lâm thời và việc
chỉ định Nguyễn Hữu Thọ, vắng
mặt, làm chủ tịch và việc bắt cóc sẩy ông
chủ tịch mặt trận này, đáng lư phải có
mặt trong buổi họp thành lập mặt trận.
Ông cũng cho biết ông
là một trong những người tổ chức ra
mặt trận ngay từ 1958. Nhưng cũng lại nói là
măi đến năm1962 ông mới được bầu
vào ủy ban trung ương của mặt trận. (trang
56)
Về "chính phủ lâm
thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam":
Trong chương 13
Trương Như Tảng cho biết đại hội
của mặt trận nhằm thành lập và giới
thiệu chính phủ được tổ chức ở mật
khu sát biên giới Việt Miên vào ba ngày 6, 7 và 8 tháng 6 năm
1969. Nó có mục đích dằn mặt Mỹ và VNCH cũng
tổ chức gặp nhau (tổng thống Nixon và tổng
thống Thiệu) tại Midway cũng vào ngày 8, để
Mỹ tuyên bố rút quân, mở đầu cho công cuộc
Việt Nam hóa chiến tranh. (trang 147) Huỳnh Tấn Phát
đệ tŕnh đại hội danh sách chính phủ vào ngày
cuối của đại hội. Y được cử
làm thủ tướng với Nguyễn Thị B́nh làm
ngoại trưởng, Dương Quỳnh Hoa làm bộ
trưởng Y Tế và Trương Như Tảng làm
bộ trưởng tư pháp.
Trương Như Tảng đă cân nhắc
đắn đo khi nhận bộ này. Ông ta có nghĩ
tới vụ nhiều người bị quân mặt
trận và quân Bắc Việt thảm sát ở Huế
hồi Tết Mậu Thân và ông đă có lần chất
vấn Huỳnh Tấn Phát về việc
này. Ông cũng có ác cảm
với "thứ công lư cách mạng". Nhưng ông hy
vọng dần dần ông có thể dùng quyền của ḿnh
thay đổi t́nh h́nh, hầu đi đến một chính
phủ Liên Hiệp ở miền Nam. (trang 155)
Về lập
trường của đảng đối với vấn
đề ḥa hợp ḥa giải:
Trong chương 18
Trương Như Tảng đă nói nhiều về lập
trường ḥa hợp ḥa giải của ông và của
mặt trận DTGPMN cũng như của chính phủ LTCHMNVN
và Liên Minh của Trịnh Đ́nh Thảo.
"Tôi và các đồng
nghiệp của tôi ước mong dùng những cuộc
thảo luận này trước hết là để cam
kết với nhau là phải đặt sự ḥa hợp
ḥa giải lên trên hết, như một nguyên lư không thể
lay chuyển của chính phủ." (trang 222)
Nhưng khi họp chính
phủ ông mới ngă ngữa ra rằng "người
ta" không muốn những thành phần tư sản,
những kẻ đă tham gia chính quyền VNCH
được hưởng chính sách ḥa giảị
Những người thuộc phe ông đă tranh luận
gắt gao, viện dẫn lời ông Hồ về sự
thống nhất tổ quốc, về nhu cầu xây
dựng đất nước v.v... (trang 224 và 225).
"Nhưng các
đồng chí đảng viên không thể nào bị
thuyết phục bởi những luận cứ t́nh
cảm hay lẽ phải. Họ đă (tôi thấy
dường như thế) từ bỏ cả lương
tâm lẫn cảm quan thực dụng của họ
để đổi lấy những tín điều tôn giáo
chính trị mà họ cho rằng không thể sai lầm.
Giữa niềm tin sắt thép và ngạo mạn của
họ, không thể có chỗ cho thỏa hiệp."
Những cuộc tranh
luận đă đưa đến sự rạn nứt
cơ bản trong cách mạng (a fondamental split in the revolution,
trang 225). Và Lê Duẫn đă phải lên tiếng giảng ḥa
bằng những lời lẽ mền dẻo hơn: "Chính sách ḥa hợp ḥa
giải dân tộc không trả thù là chiến lược
trường kỳ và đó là đường lối chính
trị và lập trường của Đảng, và
cũng là lập trường của giai cấp công
nhân."
Với lời nói trên
của viên bí thư thứ nhất của đảng, nhóm
ông Tảng hí hửng tưởng ḿnh đă thắng.(10).
Bốn năm sau TNT và
những nhà lănh đạo mặt trận và chính phủ,
ngoài đảng, mới vỡ lẽ ra rằng lời
tuyên bố của Lê Duẫn chỉ là đ̣n phép, tuyệt
chiêu của một tay đại bịp. Nhưng đă
muộn.
Câu của tổng bí
thư đảng Lê Duẫn mà ông Tảng vừa trưng
dẫn chứng tỏ Đảng đă công khai và long
trọng hứa sẽ có ḥa hợp hoà giải và không
trả thù. Nơi các trang 135, 183 và 184 Trương Như
Tảng cũng cay cú nhắc lại những lời lẽ
như đanh đóng cột không những của Lê
Duẫn, tổng bí thư mà c̣n của một lô các nhà lănh
đạo khác như Tôn Đức Thắng chủ
tịch nước, Phạm Văn Đồng thủ
tướng, Lê Đức Thọ trưởng ban tổ
chức trung ương đảng đầy quyền
lực bên cạnh Lê Duẫn. Những lời tuyên bố và
khẩu hiệu có nội dung tương tự cứ ra
rả nhắc đi nhắc lại trong báo, trên đài ṛng
ră hết năm này qua năm khác. Lần này không phải
về vấn đề trả thù người quốc gia,
mà là về vấn đề thống nhất đất
nước.
"Trong nhiều năm
họ đă nghe Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa long
trọng tuyên bố cam kết rằng "miền Nam là
một t́nh huống đặc biệt và duy nhất,
rất khác miền Bắc". Tổng bí thư Lê Duẫn
đă nói: "Miền Nam cần có chính sách riêng của
miền Nam." Một khẩu hiệu hô vang:" Xây
dựng xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Mở rộng cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam." Thủ tướng Phạm văn
Đồng thích tuyên bố với những khách
nước ngoài đến thăm ông rằng:
"Chẳng ai lại có cái ư nghĩ ngu xuẩn và tội
lỗi là thôn tính miền Nam". (trang 135)
"Lập trường
của Ủy ban trung ương đảng vẫn không
thay đổi như lời tuyên bố của Tôn
Đức Thắng tại đại hội đảng
kỳ III vào tháng 9 năm 1960: "Do t́nh h́nh khác biệt
giữa hai miền (Nam Bắc), miền Nam cần phải
thực thi một chương tŕnh phù hợp với t́nh
h́nh riêng, trong khi vẫn ḥa họp với chương tŕnh
tổng quát của mặt trận Tổ Quốc. Miền
Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
miền Bắc tiến hành cách mạng xă hội chủ
nghĩa." Những t́nh cảm đó dĩ nhiên đă
được nhấn mạnh thêm cho người Tây
phương. Phạm Văn Đồng đă nói với
nhiều khách nước ngoài rằng "Làm sao chúng tôi
lại có cái ư nghĩ ngu xuẩn và tội lỗi là thôn t́nh
miền Nam?" Lê Đức Thọ th́ nói với báo chí
thế giới: "Chúng tôi không mong muốn áp đặt
chế độ cộng sản cho miền Nam."
Nhưng cả đường lối nội bộ đă
được long trọng tuyên bố lẫn những
bảo đảm có phần kém long trọng đă bị
vứt vào thùng rác chỉ trong ṿng mấy tháng sau chiến
thắng." (trang 284)
Về cải cách
ruộng đất và chiến dịch sửa sai:
Khi mới về
nước ông Tảng có nghe nói về những cuộc tàn
sát trong các cuộc đấu tố hồi 1955, 1956 ở
miền Bắc nhưng ông cho rằng đó là do những
người di cư có thành kiến với cộng sản
bịa đặt hay phóng đạị Sau này nghĩa là
vào những năm 70 ông mới chịu nhận là có
thật. Trong chương 24 ông viết:
"Sai lầm
được bên ngoài biết đến nhất là
chiến địch cải cách ruộng đất
đẫm máu ở miền Bắc liên
quan đến hàng ngàn người
được- gọi- là địa chủ. Hầu
hết họ chỉ thuần là những nông dân nghèo,
chẳng may có một lô đất hơi lớn hơn
những người hàng xóm" (trang 300).
Nhưng ông lại bào
chữa cho ông Hồ, và c̣n ca tụng "ông Hồ đă
làm một việc bất thường là đích thân xin
lỗi nhân dân."
Về chiến dịch
sửa sai và vụ Nhân Văn Giai Phẩm ông chỉ
nhắc đến một người duy nhất là
thạc sĩ Trần Đức Thảo: (tr.300)
"Ông không bị tù hay
hành hạ thân xác, nhưng công an bao vây, cô lập ông không cho
ai tiếp xúcNếu ông Thảo tiếp xúc với ai ,
chẳng hạn một người bạn trên
đường phố, th́ người đó sẽ bị
bắt giữ để điều tra. Bề ngoài xem ra
triết gia sống cuộc đời b́nh thường.
Nhưng thực tế ông sống như Robinson Crusoe, hoàn
toàn cô độc, mặc dầu có nhiều người
ở xung quanh. Ngay họ hàng thân thích cũng không
được phép nói chuyện với ông. Đối
với một trí thức như vậy là một sự tra
tấn dă man.
Nhận xét sơ về
tác giả "Hồi Kư của một Việt
Cộng":
Đọc xong cuốn
hồi kư 350 trang viết bằng Anh ngữ người
đọc phải lấy làm ngạc nhiên: Một trí
thức miền Nam, làm đến bộ trưởng
bộ tư pháp của một chính phủ được
ngồi ngang hàng với phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa
tại ḥa đàm Paris, lại tỏ ra ưu thời
mẫn thế, biết hết chuyện chính trị, kinh
tế Đông Tây kim cổ, như ông cho thấy ở
nhiều trang sách của ông, vậy mà lắm lúc lại
thơ ngây như con nít trong cái vai tṛ làm bung xung, con rối
cho "Bắc Việt". Chúng tôi dùng chữ "Bắc
Việt", v́ đối với ông và một số cán
bộ cộng sản miền Nam, dường như
miền Bắc là một quốc gia khác quá xa lạ, ác
cảm, nếu không nói là thù đi.ch. Nhưng ông lại
tự mâu thuẫn: mơ tưởng đến một
chính phủ riêng của miền Nam Việt Nam, thân thiện
nhưng độc lập với chính phủ miền
Bắc. Kết cuộc không được như ư, ông oán
chính quyền miền Bắc, không thèm hợp tác sau 1975,
bỏ nước ra đi. Nếu sau "đại
thắng mùa xuân" 30 tháng tư cái chính phủ của ông
không bị giải tán và miền Nam được là
một "nước" riêng chắc ông đă không
bỏ nước ra đi, chịu cảnh lưu vong.
Một điều khác
cũng hết sức lạ lùng là trong hồi kư ông đă
nhắc đến không biết bao nhiêu lần vai tṛ
quyết định của những lănh tụ miền
Bắc như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn và những nhân
vật khác kém quan trọng như "hai Xe Ngựa",
ủy viên trung ương đảng, Huỳnh Tấn Phát,
đảng viên kỳ cựu từ 1940, Nguyễn Văn
Hiếu, Ưng Ngọc Kỷ, Tạ Bá Ṭng, Trần
Bửu Kiếm, Trần Bạch Đằng v.v toàn
những đảng viên ít nhất cũng từ 1951. Nào
"Hiếu được phái ra Hà-nội để
nhận chỉ thị của ông Hồ" (trang 71). Nào
tháng chạp năm 1964 Phát chỉ thị cho tôi (trang 95). Nào
Phát giới thiệu tôi với Hai Xe Ngựa, ủy viên
trung ương đảng Lao Động (giữ
chương tŕnh đại hội thành lập mặt
trận) (trang 77). Nào Lê Duẫn can thiệp trong cuộc
tranh chấp giữa nhóm trong đảng và nhóm ngoài
đảng v..v.. (trang 226). Rồi cái phong cách của ông khi
được "mời ra bưng" dự đại
hội. Con đường ông đi. Nơi ông hội
họp. Sự vắng mặt của chủ tịch trong
lúc ra mắt. Sự bố trí của đảng viên
Huỳnh Tấn Phát nhằm bắt cóc một trí thức
Nguyễn Hữu Thọ để ngồi làm v́ trong
chức chủ ti.ch. v.v..và biết bao điều khác
tương tự, chứng tỏ nhóm ông chẳng có chút
quyền hành ǵ. Vậy mà lúc ấy các ông cứ nhắm
mắt làm theo hiệu lệnh của đảng, như
những con rối. Tại sao lại phải cho
đến 1976 các ông mới nh́n thấy ḿnh bị lừa,
trong khi Vũ Thư Hiên, con Vũ Đ́nh Huỳnh, viết
trong hồi kư "Đêm Giữa Ban Ngày" của ông ta
rằng: trẻ con miền Bắc cũng biết mặt
trận giải phóng là do miền Bắc dựng nên, (11)
nghĩa là chỉ là dụng cụ của đảng. Tôi
không dám bảo tác giả không trung thật. Nhưng tôi
thấy như vậy dường như ông - và cả nhóm
các ông quá ngây thơ. Nhưng trí thức Việt Nam đâu có
ngây thơ đến thế. Vậy th́ câu trả lời
ở đâu? Tôi sẽ cố t́m câu trả lời trong
phần nhận định chung, chương cuối
tập sách này.
Một điều có
thể nói ngay ở đây là chẳng những ông Tảng
mà c̣n nhiều nhà trí thức khác từng đi theo cộng
sản xem ông Hồ như một con người biệt
lập, độc lập hoàn toàn tách rời khỏi
đảng cộng sản Việt Nam. Sở dĩ họ
bị lừa bị thu hút quá mạnh bởi con
người này là v́ ông Hồ quá tài t́nh trong việc đóng
vai người yêu nước. Ở chương cuối
chúng tôi sẽ chứng minh cặn kẽ hơn.
Chú Thích:
(1) Trích dẫn trong
soạn phẩm này theo bản Anh ngữ "A Vietcong
Memoir", viết chung với David Chanoff và Đoàn Văn
Toại, Harcourt Brace Jovanovich, San Diego, New York and London, 1985.
(1bis) Cuộc thương
thuyết này đă đưa đến hiệp ước
sơ bộ 6-3-1946, được coi như một
thất bại của Hồ Chí Minh.
(2) Sách Đă Dẫn trang
93-95.
(3) Cán bộ tuyên vận
cao cấp của cộng sản đặc trách Saigon
Chợ Lớn lúc ấỵ Ông là một cán bộ cộng
sản thuộc loại trí thức miền Nam, bị
"thất sủng" v́ câu nói dại dột tại
một buổi họp: "mọi phong trào ở thành
phố đều thành công một cách lạ lùng. Chỉ có
phong trào công nhân là xệ quá." (SĐD trang 236) Trần
Bạch Đằng, bí danh Tư Méo, bút hiệu
Phương Triều, sau 75 c̣n có bút hiệu "Nguyễn
Trương Thiên Lư" với tiểu thuyết chính
trị: "Ván Bài lật ngửa" đề cao
Phạm Ngọc Thảo trong nhân vật chính (Luân)
đầy mưu lược trước mưu trí của
Ngô Đ́nh Nhu. Các đạo diễn cộng sản đă
đưa tiểu thuyết này lên màn ảnh.
(4) Trừ khi sắp
sửa giải tán, sau 30 tháng tư 1975, ông có vận
động với Phạm Văn Đồng để
việc bắt bớ, giam giữ tại miền Nam, có quy củ,
theo nguyên tác pháp lư và đề nghị đưa ra một
số luật lê.. Nhưng chính việc ông phải nhờ
thủ tướng chính phủ miền Bắc can
thiệp, làm áp lực với thủ tướng của
ông (Huỳnh Tấn Phát), lại cũng là một chuyện
khôi hài không tưởng tượng nổi của cái chính
phủ của ông. Và cuối cùng, những luật lệ
hay quy định của bộ tư pháp của ông hay
của chính phủ trung ương, miền Bắc của
Phạm Văn Đồng cũng chẳng có hiệu
lực ǵ. V́ chính Trương Như Tảng phải công
nhận: cán bộ chỉ làm theo lệnh đảng,
bất chấp pháp chế của cái gọi là chính phủ
kia. (SĐD. Cuối trang 281, đầu trang 282 ông viết:
"Về phần bộ luật tội nghiệp của
chúng tôi cũng chẳng đi đến đâu. Đă rơ
ràng luật pháp được áp dụng cho cả miền
Nam Việt Nam, nhưng lại bị đơn vị hành
chánh ngoài Saigon coi như không có. Trong toàn quốc, việc cai
trị nằm trong tay các cán bộ đảng đă quen
nhận lệnh từ Bộ Chính Tri.." )
(5) SĐD trang 260.
(6) SĐD trang 17.
(7) SĐD trang 140.
(8) SĐD trang 66, nguyên
văn: "an extralegal political organization"
(9) SĐD trang 73.
(10) SĐD tr. 225-226. Nguyên
văn: "Reading Lê Duẫn's message, we knew we had won the
essential victory".
(11) Đêm Giữa Ban Ngày
trang 469. Và trước Vũ Thư Hiên 34 năm, Minh Vơ trong
cuốn "Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng
Sản", xuất bản năm 1963, tái bản năm
1970 cũng đă nói rất kỹ về việc cộng
sản miền Bắc dựng nên cái mặt trận này ra
sao. (trang 134 -143).
(c̣n tiếp)