Minh Vơ
Bùi Minh Quốc, một nhà
thơ ở trong nước (Đà-Lạt), trong một bài
báo nhan đề "Hà Sỹ Phu và tiếng nói của
ông" (tháng 8 năm 1993) đă viết: "Hà Sỹ Phu là
ai mà to gan lớn mật làm vậỷ Dám phê phán chủ
nghĩa Mác-Lê-nin, lại phê ngay vào cái ḥn đá tảng
của chủ nghĩa, một việc làm có
thể phải gánh
chịu những tai họa ghê gớm? Nếu sự ghi
nhận của tôi không nhầm th́ ở nước ta trên
miền Bắc sau 1954 và trên cả nước năm 1975,
Hà Sỹ Phu là người đầu tiên bằng giấy
trắng mực đen dám đụng vào vùng cấm
chết người nàỵ"
Có lẽ cựu linh
mục Nguyễn Ngọc Lan và Tiêu Dao Bảo Cự cũng
đồng ư với nhà thơ Bùi Minh Quốc khi gọi Hà
Sĩ Phu là "biểu tượng (symbol) Hà Sĩ Phu",
"biểu tượng của trí tuệ". Nhưng
cũng có người như ông Lê Tùng Minh ở New England,
Hoa Kỳ không đồng ư, v́ hiểu chữ biểu tượng
theo một ư nghĩa cao hơn (the most excellent symbol, chữ
của ông Tùng Minh, mặc dầu chưa thấy ai dùng
thể tuyệt đối "most" với tĩnh
từ excellent có nghĩa là tối ưu, vượt
hẳn, hơn hẳn).
Khác với nhóm Tin nhà
ở Paris và những người ngưỡng mộ Hà
Sĩ Phu ở trong nước như Bùi Minh Quốc,
Nguyễn Ngọc Lan, Bảo Cự, Hoàng Tiến . là những
người chú ư tới thái độ can trường
của Hà Sĩ Phu, hơn là nội dung tác phẩm của
ông, ông Lê Tùng Minh đă phân tích cặn kẽ
tác phẩm và phê phán nó
từ lập trường của một người
chống cộng và đă có dịp đọc nhiều tác
phẩm phê phán của những người vốn đứng
từ phía chống đối từ lâu nên đă t́m ra trong
đó có nhiều sai sót đáng tiếc, (theo ư ông). Tranh
luận ai phải ai trái về một tác phẩm lư
luận có tính triết học, trong một môi trường
chính trị phức tạp, trải dài trên một ḍng
lịch sử c̣n nhiều bí ẩn, là điều dễ
đi đến hiểu lầm. V́ vậy chỉ xin nêu lên
một số nhận định và kết luận của
Hà Sĩ Phu liên quan đến chủ nghĩa Mác-Lê,
đến đảng cộng sản Việt Nam và t́nh h́nh
trong nước hiện naỵ
Hà Sỹ Phu là bút hiệu
(1) của Nguyễn Xuân Tụ, người làng Đông
Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh, Bắc Việt, sinh ngày 22
tháng 4 năm 1940. Ông tốt nghiệp phó tiến sĩ sinh
học tại Tiệp Khắc. Về nước ông
được cử giữ chức phó viện trưởng
viện Khoa Học Việt Nam, phân viện Đà Lạt.
Nhưng rồi không chịu vào đảng, ông bị cho
"ngồi chơi xơi nước". Ông có chân trong
hội Văn Nghệ Lâm Đồng, cộng tác với
Tạp Chí Lanbiang, tại Đà Lạt.
Bạn bè ông ở Đà
Lạt rất đau ḷng khi thấy hai vợ chồng ông,
cả hai đều đă hai lần chắp vá mà vẫn
không có con, cả ngày mải mê với mấy món hàng lặt
vặt trong cái quán cóc để kiếm tiền nuôi thân,
chẳng mấy người biết đến trong
đầu nhà khoa học trẻ này có những ǵ.
Không được dùng
vào sở trường của ḿnh là ngành khoa học thiên
nhiên, Hà Sỹ Phu chuyển sang nghiên cứu về khoa
học xă hộị Năm 1988, vài năm sau khi Nguyễn
Văn Linh tuyên bố "văn nghệ sĩ hăy tự
cởi trói" ông đă cho ra đời (đánh máy phát tay
trong đám bạn hữu), bài tiểu luận nhan
đề "Dắt tay nhau đi dưới những
tấm biển chỉ đường của trí
tuệ". Tuy không được đường
đường ra mắt độc giả nhưng bài
tiểu luận vẻn vẹn mười trang đánh máy này
đă bị các tay cai văn nghệ của chế
độ xúm vào phê phán, phản bác như một thứ
độc dược cho môi trường văn hóa Mác Xít.
Tính đến 1991,
nghĩa là chỉ trong ṿng hơn 2 năm, đă có trên ba
chục bài đả kích cái bài tiểu luận chỉ
xuất hiện giữa bạn bè kiạ (1bis) Có
điều lạ là người ta chỉ cho lệnh
phản bác tư tưởng của ông mà chưa có
biện pháp gắt gao nào đối với con người
ông. Cho đến tháng 4 năm 1991, nhân dịp ông ra
Hà-nội thăm nhà văn nữ Dương Thu
Hương, chẳng may vào đúng lúc công an đang khám nhà
và bắt giữ bà, th́ ông cũng bị bắt luôn.
Nhưng người ta cũng chỉ giữ để tra
vấn trong 10 ngày rồi thả, Sau đó ông bị canh
chừng, gần như giam lỏng tại nhà ở Đà
Lạt.
Bài tiểu luận, không
được in ở trong nước, đă
được chuyền ra ngoại quốc và độc
giả ở Pháp đă thấy nó lần đầu tiên trên
tờ Thông Luận của nhóm các ông Trần Thanh Hiệp và
Nguyễn Gia Kiểng, số tháng 5 năm 1993. Du học
sinh, sinh viên Việt Nam tại các nước cộng
sản cũ ở Đông Âu đă nhiệt liệt
hưởng ứng lập luận của Hà Sỹ Phu, gián
tiếp khuyến khích ông dấn bước thêm trên
đường "cách mạng tư tưởng".
Cuối năm 1993 trong cuốn Mặt Thật, phơi bày
mặt trái của chế độ Hà-nội, đại
tá cộng sản Bùi Tín cũng đă hết lời ca
ngợi Hà Sĩ Phu:
"Đây là một bài
báo rất thú vị, của một trí thức có chiều
sâu suy nghĩ, tự tin, có tŕnh độ nghiên cứu,
lại hóm hỉnh. Một con người quư, hiếm, có
tư duy độc lập."
Chỉ ít tháng sau Việt
Kiều ở Pháp lại thấy một bài khác, dài hơn,
của Hà Sỹ Phu xuất hiện như một phụ
bản của tờ Tin Nhà, Paris, nhan đề: "Đôi
điều suy nghĩ của một công dân." Cùng
với một số câu đối có tính cách phê phán chế
độ, và mấy bài chính luận vắn. Sau đó hai tác
phẩm mỏng, nhưng lớn này đă được
nhiều tờ báo ở Úc, Âu và Mỹ châu đăng
lại. Tháng 10 năm 1995 độc giả nguyệt san
"Thế Kỷ 21" ở Mỹ được
đọc thêm một tác phẩm nữa của Hà Sỹ
Phu nhan đề "Chia Tay Ư Thức Hệ" trên
một trăm trang. Tuy là tập sách nhỏ của một
người đơn độc, nó đă có tham vọng
chẳng những phê phán, phản bác mà c̣n lên án những công
tŕnh đồ sộ của những bộ óc lớn
như Mác, Engels, Lê-nin. coi đó như nguyên nhân của
một chế độ độc tài phi nhân, một
loại phong kiến cuối cùng của lịch sử.
Như một hệ luận tất yếu, nhân danh trí
tuệ và tương lai dân tộc, ông đ̣i loại
bỏ chế độ đó. Với những tư
tưởng cực kỳ "phản động"
như vậy, dĩ nhiên ông không tránh được sự
trừng phạt. Và người ta đă bắt ông, khi ông
ra Bắc thăm gia đ́nh vào đầu tháng 12 năm
đó. Ngày 22 tháng 8 năm 1996 ông bị đưa ra ṭa
về tội "chiếm đoạt tài liệu bí
mật của quốc gia" và lănh án 12 tháng tù. (2) Ngày hôm
trước ông bị bắt, th́ ngày hôm sau công an
đến khám nhà ông ở Đà Lạt, mang đi hàng ngàn
trang tài liệụ Tưởng cũng nên nêu lên sự
kiện là chỉ trước đó mấy ngày ông đă
trả lời một cuộc phỏng vấn của
đài VNCR ở California liên quan đến những tác
phẩm của ông. Và người ta có thể nghĩ
đây cũng là một cái cớ khác khiến ông bị
bắt.
Tin HSP bị bắt đă
được nhiều tờ báo hải ngoại loan tin,
b́nh luận và trích dẫn các bài viết của ông, trong
số đó, tại Đức có các tờ Bản Tin
Đức Quốc, Cánh Én, Sinh Hoạt Cộng Đồng,
Hy vọng, Dân Chủ cho Việt Nam, Forum, Viên Giác, Lá Thư
Đông Âu, Thiện Chí; tại Pháp có các tờ Thông Luận,
Tin Nhà, Việt Nam Liên Minh, Nhân Bản, Diễn Đàn; ở
Hoa Kỳ có các tờ Kháng Chiến, Xây Dựng,
Thế Kỷ 21, Ngày Nay,
Người Việt v.v. Cộng Đồng Người
Việt ở Đức c̣n tổ chức tuyệt
thực, biểu t́nh trước sứ quán Việt
Cộng tại Bonn trong hai ngày 21 và 22 tháng 12 để
đ̣i trả tự do cho Hà Sĩ Phu và các tù nhân chính
trị khác. (3)
Ngày 4 tháng 12 năm 1996 ông
được phóng thích. Tại sân bay Tân Sơn Nhứt
(Saigon) và Liên Khường (Đà Lạt) ông đă
được bạn bè và những người
ngưỡng mộ ông chờ đón với những bó hoa
và cả câu đối, mặc dù vợ ông và rồi chính
ông đă gọi điện thoại can ngăn không
muốn ai v́ ông mà có thể bị liên lụỵ Nhưng
sự thực chẳng có chuyện ǵ, v́ đó chỉ là
những người không biết sợ nhưng cũng không
dụng tâm gây rối.
Nhà báo Nguyễn Ngọc
Lan trong những trang nhật kư thường ngày, mà số
lớn đă được đăng tải trên tờ
Tin Nhà ở Paris, đă kể ra một số tên trong
những người đón ông ở Saigon như sau: linh
mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Vân, Bùi Minh Quốc
(4), Lữ Phương , Xuân Sách, họa
sĩ Minh, bác sĩ
Đỗ Thị Văn (chị Đỗ Trung Hiếu),
Hồ Hiếu, ông La văn Lâm và một người
bạn của Hà Sĩ Phu."chỉ có thế thôi,
nhưng 12 bạn bè ngồi cùng bàn th́ có Nam, có Trung, có
Bắc, có Bắc Kỳ chín nút (54), có Bắc Kỳ hai nút
(75), có Phật tử, có Công Giáo, có cộng sản, có không
cộng sản, cộng sản c̣n trong đảng,
cộng sản đă chào biệt đảng hay đă
"được" khai trừ, người viết
văn, người làm thơ có, người viết báo,
người dậy học có, họa sĩ có, bác sĩ có,
sĩ quan bộ đội hồi
hưu cũng có. Cùng
ngẩng cao đầu chung quanh anh chị Hà Sĩ Phu
vẫn ngẩng cao đầu."
Với những ư kiến
và lập luận của ông trong ba văn kiện vừa
kể, HSP đă làm cho một số bạn bè, văn
nghệ sĩ trong cũng như ngoài nước thán
phục. Có người gọi ông là biểu tượng
của trí tuê.. Người khác khi nói đến ông
thường nói hiện tượng Hà Sĩ Phu, tuy cũng
có người phê b́nh ông không đánh giá Mác đúng mức.
Chúng tôi xin trích dẫn một ít hàng trong ba văn kiện
vừa kể để xem tác giả đă phán xét thế
nào về chủ nghĩa Mác, về nền chính trị
chuyên chính vô sản, về công và tội của đảng
cộng sản Việt Nam và của cá nhân ông Hồ Chí Minh.
Đồng thời cũng để xem ông đề xuất
những ǵ và khả năng thực hiện những
đề xuất đó ra saọ
"Ở nước ta,
hệ tư tưởng Mác-xít cũng không khác ǵ một
"quốc giáo", thực chất chỉ là biến
tướng của tư tưởng phong kiến"
(trang 116) (3). "Lư thuyết (Mác-xít) ấy như một cô
gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn, chắc
chắn sẽ được người ta vồ lấy
và sau đó tất yếu là sự phản bội"
(trang 123)
"Lư luận Marx-Lenine
rất có lợi trong việc động viên, tổ
chức lực lượng đánh giặc, chống
ngoại xâm, nhưng rất bất lợi trong việc ḥa
giải dân tộc, bất lợi trong việc xây dựng
một xă hội dân chủ pháp trị và kinh tế thị
trường." (108)
"Học thuyết
Mác-Lê không phải là cái ǵ cao xa chưa tới mà chỉ là
cái hoài vọng đă bị vượt qua, chỉ là
biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp
của chủ nghĩa phong kiến đă bị lịch
sử vượt qua trước đây nhiều thế
kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn
đường đầy tính súc tích huyền bí
đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu
đúng, mà chỉ là những dự đoán lẩm cẩm
không bao giờ có thực trên đờị" (trang 140)
"Bên tai mọi
người h́nh như luôn nghe thấy lời ám thị:
"Hăy coi chừng ! Không được trái ư Mác Lê! Hăy coi
chừng! Không được trái ư Mác Lê!" Mác Lê thế
nào mấy ai biết? Có khi Mác Lê giống mấy ông công an,
giống bà trưởng pḥng tổ chức, giống
khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống
những kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách,
giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống
két bia lon với cô thư kư, hoặc có khi chỉ là một
cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ. Mác Lê muôn màu muôn vẻ,
nhưng đă thành một ám thị tập thể. Trong khí
quyển thôi miên ấy con người phải quên nhân cách,
đặc biệt là cấm không được hổ
thẹn." (trang 165-166)
"Toàn bộ cái gọi
là "chủ nghĩa xă hội khoa học" chẳng qua
là một Đại ngụy biện, nhằm biện minh
cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào
xă hội và con người Việt Nam không qua vọng gác
của trí tuê.." (trang 179)
"Ngụy biện này
tận dụng triệt để những thành quả
trong quá khứ của cuộc chiến tranh vệ quốc,
tận dụng tâm lư sau chiến tranh muốn yên thân và khát
khao cuộc sống vật chất và tận dụng thói
quen phục tùng vô điều kiện của dân. Tóm lại
là tận dụng t́nh trạng dân trí thấp để không
đổi mới mà vẫn đổi mới, để
nói "đổi mới của dân, do dân, v́ dân" mà
thực ra là "đổi mới của ḿnh, do ḿnh, v́
ḿnh" để miệng nói "định hướng
xă hội chủ nghĩa" mà tay làm "định
hướng tư bản chủ nghĩa" (180)
"Cuộc đấu
tranh giai cấp "một mất một c̣n" luôn
gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó
sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt
môi trường (như "dẫu phải đốt
sạch cả dẫy trường sơn"!) hủy
diệt những công tŕnh văn hóa (như chính sách tiêu
thổ kháng chiến), và hủy diệt con người
("đánh Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng", "Tổ quốc hay là chết", và
cả chục triệu người Việt Nam đă thành
vật hy sinh cho một cuộc chiến..) th́ dẫu có anh
hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là
những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào
vươn được tới tầm văn hóa cao
hơn, người ta sẽ thấy những chiến
thắng ấy thật là đáng ghê sơ.. Lúc ấy
hồi tưởng lại những bà mẹ đă tự
hào v́ cống hiến cả chồng và bảy, tám
người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng ḿnh
hơn là kính phục." (trang 156-157)
"Ngày bác Hồ ra đi
t́m đường cứu nước . th́ chủ nghĩa
Mác Lê-nin được bác coi là con đường là
phương tiện giúp dân ta đi đến đích
đó. Nhưng rồi dần dần lại xuất
hiện tín ngưỡng "dâng tất cả để
tôn thờ chủ nghĩa!" Lạ như vậy
đấỵ Chủ nghĩa với tư cách là con
đường, là phương tiện th́ nó là cái
để ta dùng chứ sao lại để ta thờ?
Nhưng dù ǵ đi nữa th́ hậu quả nguy hiểm
vẫn là ở chỗ: Khi cái phương tiện đă
thành cái mục đích th́ lẽ tự nhiên cái mục
đích (ở đây là dân tộc) đổi chỗ
để thành cái phương tiện (!) (trang 38)
"Nhưng điều
thú vị là ở chỗ việc nh́n nhận lại
một số điểm trong học thuyết của Mác
không làm giảm đi sự tôn kính của ta đối
với Mác. Chúng ta hănh diện là đă có Mác là một
người khổng lồ nhân từ cho ta được
phép đứng lên vaị" (trang 40)
"Chủ nghĩa Mac Lê
ngay từ đầu đă được Nguyễn Ái
Quốc coi là "con đường" là
"phương tiện", là "cái cần thiết cho
chúng ta", th́ nó không thể quư hơn "chúng ta"
được."
".Ta biết ơn
chiếc thuyền nan (M.V. viết thẳng để
nhấn mạnh là HSP không coi chủ nghĩa Mác ra ǵ,
chỉ là một thứ thuyền nan mỏng manh, ọp ẹp)
đă đưa ta qua sông, nhưng sang bờ rồi mà
cứ cắm cúi mang "chiếc thuyền Mác xít chỉ
huy" trên lưng như cái mai rùa, th́ tránh sao khỏi
bị người ngoài đàm tiếu và người thân
nghi ngờ rằng có sự che đậy hay cất
giấu cái ǵ trong đó? Cái "hành trang khác
người" ấy quả t́nh không c̣n ích lợi ǵ cho Dân
tộc, có trút bỏ được mới mong tự
giải thoát, để được lâng lâng, nhẹ
nhàng, rảo bước cho kịp bạn bè trên
đường thiên lư." (rang 112)
Về chuyên chính vô sản
và đảng của giai cấp vô sản:
"Cái chất phong
kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp
tẩy rửa bởi một nền dân chủ đă t́m
thấy chỗ đứng rất "ngon lành" trong
hệ chuyên chính "dân chủ tập trung".
"Cái chất
Đức trị sặc mùi tam cương ngũ
thường chưa bị thanh toán đă t́m thấy sự
đồng điệu trong một thể chế "ư
thức trị", một thứ Đức trị
mới toàn những Nghị quyết, những Cương
lĩnh, Thường vu.." (trang 141-142).
"Sau khi đă
đưa được Đức lên vị trí tối
thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái
nội dung cốt tử của chuyên chính vô sản:
chữ TRUNG! Mà "trung" là phải "trung với
Đảng"! Rồi mới "hiếu với
Dân!" v.v.
"Tuy Dân có
được kể đến ở ngôi vị thứ
nh́, nhưng rồi lại có mệnh đề
"Đảng với Dân là một". Tuy
được là một,
nhưng ngồi chung vào cái ghế này "Dân" sẽ
bị "Đảng" thôn tính, v́ dân phải nhớ
rằng Đảng luôn là người "lănh đạo
trực tiếp và tuyệt đối"! Thế th́ Dân
c̣n chỗ nào mà đứng? Thương thay cho dân đă
thực sự trở thành con đỏ, được ru,
được nựng, được bế ẵm,
hết chỗ này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu
sữa th́ ở trong tay "mẹ hiền" mất
rồi, không khóc th́ Đảng không cho bú, mà liệu có dám
khóc không, khi "mẹ hiền" cầm sữa lại
cầm cả roi!" (trang 144)
"Vừa ư Đảng
th́ chữ Tài liền với chữ Tiền. Trái ư
"Đảng th́ chữ TÀI liền với chữ TAI!
Chọn đường nào th́ chọn!
"Trí thức Việt
nam nhậy bén, họ hiểu ư đảng, nên chẳng
dại ǵ mà chọn chữ TAI, cứ chọn con
đường có h́nh bác Hồ chỉ lối, để
"Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân" . th́ "đánh
đâu thắng đấy"! "Cứ có bác Hồ trong
tay là sai khiến được ráo, chuyên chính vô sản
chỉ nghe lời bác Hồ"! Người Việt ngày
nay nói về đồng tiền cách mạng một cách
rất đạo đức như thế! "Đấy
là đạo đức mà xă hội Mác Lê đă dạy
ho.." (trang 147)
"Thử hỏi cái mà
các anh cho là vững mạnh vô địch kia là cái ǵ?
Chủ nghĩa Mác Lê chăng? Tư tưởng Hồ Chí
Minh chăng? Xin thưa những bảo vật thiêng liêng kia
chỉ c̣n cái vỏ bày triển lăm thôi, ruột gan bên trong
bị đánh tráo xong từ lâu rồị" (tr.196)
Về ông Hồ Chí Minh
Sau khi nêu lên mặt tích
cực là dựa vào chủ nghĩa Mác Lê để tranh
đấu thắng lợi cho cách mạng tháng tám và kháng
chiến chống Pháp thành công, tác giả nói về mặt
tiêu cực như sau:
"Song đáng tiếc là
sự nghiệp Hồ Chí Minh đă không đi tiếp vào
con đường dân tộc ḥa b́nh sán lạn. "Mặt
tiêu cực của cuộc gặp gỡ giữa dân tộc
Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng với trào lưu
cộng sản là đă du nhập vào đất
nước ḿnh một mô h́nh xă hội chủ nghĩa không
tưởng, đặt căn bản trên ư thức hệ
phong kiến tân thời, một "thiên
đường" trại lính Mao-ít, nên nước
Việt Nam độc lập đă không bắt kịp trào
lưu canh tân của thế giới mà trở thành nạn
nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của
các nước lớn." (trang 148)
"Chủ tịch
Hồ Chí Minh đă thành công trong một sự nghiệp
lớn, nhưng lại không thành công trong một sự
nghiệp lớn hơn, bao quát hơn. "Do bản năng
nhạy bén, Nguyễn Aùi Quốc đă nh́n thấy từ
trào lưu cộng sản
sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và
cũng linh cảm thấy trong đó có điều phải
cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng
như khách quan đă không cho Nguyễn Ái Quốc đủ
nhận thức hệ thống để phân định
vấn đề tận gốc, nên đă sa vào thiên la
địa vơng của một đại bi kịch nhân
loại mà những nước khôn ngoan hơn đă tránh
được. Dùng âm binh rồi không điều
khiển nổi âm binh,
để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi
kịch cho cuộc đời của riêng ḿnh." (149)
Về cuộc chiến
tranh chống Mỹ cứu nước:
Đây là một nỗ
lực đáng kể của tác giả "Chia tay ư
thức hệ". Tuy ông để trong ngoặc
đơn, làm như không quan trọng, nhưng lại là
một nhận định hết sức quan trọng trong
bối cảnh lịch sử được viết lên
theo nhăn quan các người cộng sản. Ông viết:
"(Để bao quát
hơn nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc
lần thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh
Nguyễn phân tranh.)"
Với câu vừa nêu, Hà
Sĩ Phu phủ nhận cái gọi là cuộc chiến
chống Mỹ. Cùng với sự phủ nhận này,
như một hệ luận tất yếu, ông ngầm kết
án mọi cố gắng của miền Bắc nhằm
"đánh cho Mỹ cút, ngụy nhàọ" Đối
với ông đó chỉ là cuộc chiến "nồi da
nấu thịt." Để khỏi phải kết
tội "anh hùng" Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản, là điều có thể đưa ông vào Hỏa Ḷ,
Hà Sĩ Phu đă trưng dẫn Lê Xuân Tá để
đổ hết tội lên đầu Lê Duẫn và Lê
Đức Thọ như sau:
"Xin hăy b́nh tĩnh
để tham khảo ư kiến của ông Lê Xuân Tá, một
cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước,
những năm 60: "Khát vọng của Lê Duẫn là
phải làm một cái ǵ hơn cả Điện Biên
Phủ, để vượt trội cả Hồ Chí Minh
lẫn Vơ Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê
Đức Thọ đồng t́nh. Lập trường
chủ chiến có nguồn gốc sâu xa như vâ.y.Nếu
không phát động được cuộc chiến tranh
ở
miền Nam, th́ cả Lê
Duẫn lẫn Lê Đức Thọ chưa nắm
được thế thượng phong trên vũ đài
chính tri.. Tháng 11 năm 1960 Lê Duẫn phát động phong trào
Đồng Khởi, đặt cả nước và ban lănh
đạo ở thế đă rồi." (trang 182)
"Hai triệu
người Việt ở nước ngoài là một nhân
tố có vai tṛ đặc biệt trong sự nghiệp
đổi mới đất
nước. Lịch
sử h́nh thành cộng đồng người Việt
hải ngoại này là một quá tŕnh sàng lọc khiến nó
có những ưu điểm mà không một quốc gia
tự nhiên nào có được. Sàng lọc về tŕnh
độ người ra đi và sàng lọc về tŕnh
độ của quốc gia mà người ấy đến
sinh sống. Về nhiều mặt, nếu lấy tŕnh
độ trung b́nh trong nước làm chuẩn, th́ những
người Việt ra đi nói chung có tŕnh độ cao
hơn, trong đó không ít người tài giỏi và giữ
bền tấm ḷng với đN45;t nước, lại
được sống trong những nước tiên
tiến nhất. Tuy bị hạn chế bởi
nhược điểm phân tán, phân ly, nhưng cái tổng
lực khổng lồ ấy nhất định sẽ có
những đóng góp đặc biệt cả về xây
dựng kinh tế lẫn xây dựng dân chủ." (trang
192)
Sau khi được tin
tướng Trần Độ bị đảng khai
trừ vào đầu năm nay, Hà Sĩ Phu đă cùng
với Lữ Phương gửi cho viên tướng này mỗi
người một lá thư bày tỏ cảm nghĩ
của ḿnh, vừa để tỏ t́nh cảm thông,
vừa để góp thêm ư về lập trường
của một người đă từng theo đảng
lâu năm. Tiêu đề của bức thư là "Chia vui
với bác Trần Đô.." (5) Nguyên hai chữ chia vui
đă đủ nói hết ư nghĩa của lá thư.
Tại sao lại vui? V́ không phải bị khai trừ. Mà là
"được khai trừ", được thoát ra
khỏi đảng. Chỉ nguyên cái tiêu đề đó
đă nói lên hết sự đánh giá đảng của HSP.
Nhưng để yên ủi và trấn an Trần
Độ, cũng như gián tiếp trấn an những
người đă từng phục vụ đảng trong
một thời gian, HSP đă đặt ra một ranh
giới rơ rệt, đồng thời cũng cố dung ḥa
chủ nghĩa Mác Lê với chủ nghĩa yêu nước
trong những hàng chữ rành mạch như sau:
"Trong quan hệ
mục đích phương tiện th́ yêu nước là
mục đích, phong trào cộng sản là phương
tiện. Trong quan hệ trao đổi năng lượng
th́ chủ nghĩa Mác-Lê đă kư sinh trên nguồn năng
lượng vô tận của chủ nghĩa Yêu
nước."
Ông ngụ ư trong những
hàng kế tiếp: nếu có một "tấm ḷng
cộng sản" th́ những người cộng
sản cần phải gạt bỏ cái cây tầm gửi ("kư
sinh") kia đi đừng để nó ăn bám vào ḷng
yêu nước của ḿnh. Như vậy, cũng như
trong các bài viết của ông trước đó, HSP không dám
phủ định hoàn toàn công dụng, trong quá khứ,
của chủ nghĩa Mác-Lê và của Đảng, có lẽ
v́ ông c̣n sợ, c̣n cần thủ thế.
Kư giả Mơ Bà trong một
số báo gần đây trên tờ Phụ Nữ Diễn
Đàn đă nêu lên một câu đối của Hà Sĩ Phu phê
b́nh đảng một cách văn vẻ về thái
độ sợ "diễn biến ḥa b́nh" như sau:
"Nhà vô địch luôn sợ địch vô nhà" và
đồng thời cho đăng câu đối của
một độc giả L: "Đảng độc tài
chỉ có tài độc đảng" . Trong bối
cảnh đ̣i dân chủ đa nguyên đa đảng,
chắc hẳn "đảng ta" nghe thế cũng
nhột nhạt lắm.
Căn cứ vào tin từ
trong nưóc cũng như ở hải ngoại và những
ǵ chính tác giả đă cho biết, th́ HSP phải là con
người đặc biệt. Không phải ḍng giống
trí thức, cũng không phải con ông cháu cha, lại không
phải đảng viên mà ông được đi du
học ngoại quốc, đậu tới phó tiến
sĩ sinh học, lại có khả năng lư luận
của một nhà khoa học về xă hội, dám là
người đầu tiên trong chế độ
đứng lên phê b́nh chủ nghĩa Mác, phê b́nh
đảng, phê b́nh một cách khéo léo cả lănh tụ
tối cao Hồ Chí Minh. Nhất là, mặc dù những
tư tưởng cực kỳ "phản
động" như vậy, ông ta vẫn không bị
thủ tiêu, mà chỉ bị án 12 tháng tù rồi
được thả để chỉ c̣n bị "giam
lỏng".
Điều đó
khiến có nhiều người nghi ông là "c̣ mồi",
"chống cuội". Nhưng thiết nghĩ đó
chỉ là mối nghi ngờ dè dặt thường lệ
do kinh nghiệm "cộng sản là vua mánh lới". Dầu
sao đọc ông những người chống cộng
cũng thấy có nhiều điều đáng khâm phục,
tuy chưa hoàn toàn hài ḷng, v́ ông vẫn c̣n kiêng nể ông Hồ,
ông Mác phần nào, có lẽ cũng chỉ để thủ
thế, dùng đấy như lá bùa hộ mệnh chống
lại sự hăm hại của cái đảng c̣n
đầy quyền lực.
Tác phẩm "chia tay ư
thức hệ" đúng là một tham vọng quá lớn.
Bởi v́ Mác là một triết gia (mặc dầu có
nhiều người không đồng ư), một kinh tế
gia, một nhà cách mạng xă hội đă từng làm rung
động Âu Châu vào nửa cuối thế kỷ
trước. Chủ nghĩa cộng sản, tuy nay đă chứng
tỏ là ảo tưởng, vô nhân, thất bại,
nhưng đă từng lôi cuốn, mê hoặc nhiều nhà trí
thức, làm nguồn cảm hứng cho nhiều nhà ái
quốc đi vào con đường giành độc lập
cho xứ sở. Vậy mà chỉ để hơn trăm
trang giấy nhằm triệt hạ những thứ đó
bằng một số biện luận cô đúc, vắn
gọn, th́ dĩ nhiên không thể nào làm vừa ư những
nhà nghiên cứu thận tro.ng.
Tác giả vừa là nhà
khoa học thiên nhiên, vừa ham thích xă hội học,
lại có óc lăng mạn của một nhà thơ, không thoát
khỏi lối lập luận khó hiểu của một
bộ óc muốn diễn đạt tư tưởng
của ḿnh với một sắc thái riêng. V́ vậy phê b́nh
ông không phải dễ.
Dĩ nhiên chúng tôi không có ư
bàn đến lối suy luận của ông, vẫn c̣n
bị ảnh hưởng rất nhiều bởi duy
vật biện chứng, và chưa thoát hẳn khỏi
những tư tưởng được nhồi nhét hàng
chục năm bởi tuyên truyền của cộng sản
quốc tế cũng như quốc nội. Bàn đến
đức trị, phong kiến, Khổng giáo, quốc giáo,
duy vật, duy tâm là những thứ đ̣i hỏi lật
lại cả một kho tàng văn học và triết
học từ cổ chí kim từ đông sang tâỵ Cả
trăm trang sách cũng không nói hết ư để có thể
thuyết phục được aị Hơn nữa
những vấn đề đó đă được
nhiều nhà phê b́nh triết học và chính trị học bàn
đến đầy đủ và đă được
kiểm chứng bằng thực tiễn, trong đó
phải kể đến sự sụp đổ
đồng loạt và nhanh chóng của khối cộng
sản Đông Aâu và Liên Xô vào cuối thập niên
trước và đầu thập niên nàỵ V́ vậy chúng
tôi chỉ xin hết sức tóm tắt những kết
luận cơ bản của tác giả về một
số vấn đề cụ thể có tác dụng
đối với quảng đại quần chúng, tránh
mọi khía cạnh chuyên môn rắc rối trừu
tươ.ng. Những lời trích dẫn từ tác giả
đă được chúng tôi lựa chọn theo mục
đích đó.
Trước hết tác
giả ví chủ nghĩa Mác như một cô gái cực
kỳ xinh đẹp nhưng ngớ ngẩn, ai thấy
cũng phải vồ ngay lấy, nhưng chắc chắn
rồi sẽ phản bội. Nó hấp dẫn v́ nó hứa
hẹn thiên đàng. Nhưng kết cuộc là "thiên
đàng mù". Đó là ảo tưởng. Một chủ
nghĩa không tưởng.
Chủ nghĩa đó không
tưởng v́ nó chối bỏ quyền tư hữu là
quyền gắn liền với bản tính con
ngườị (Có người sẽ bĩu môi: "Không
tưởng thôi à? Phải nói phi nhân, bất nhân, vô nhân
đạo, dă man mới đúng!" Điểm này chúng tôi
sẽ xin bàn ở chương cuối.)
Nó không tưởng v́ coi
nhẹ con người. Với nó con người trong xă
hội chỉ là những chiếc đinh ốc, những
bánh xẹ trong một guồng máỵ Nó chủ
trương cuộc sống loài người là một
cuộc đấu tranh không ngừng giữa các giai
cấp. Nhưng giai cấp là thứ ǵ không có thực. Thiên
nhiên không tạo ra giai cấp, mặc dầu vẫn
biết Mác đă đựa vào thuyết biến hóa của
Darwin để làm cơ sở cho lập luận
đấu tranh giai cấp của ông.
Từ chủ
trương đấu tranh giai cấp, nó dẫn
đến chủ trương tiêu diệt giai cấp
đối đi.ch. Bạo lực, chiến tranh là không
tránh được để đưa loài người
đến "những thiên đường mù".
HSP cũng phê phán sự đánh giá sai lạc của Mác đối với giá trị lao động đặc biệt là giá trị thặng dự Ông đă phân tách kỹ yếu tố này, coi như cốt lơi của chủ nghĩa Mác về kinh tế, và xă hội.
Tóm lại tất cả
những điều trên đều đă được
các nhà phê b́nh Mác từ một thế kỷ nay nêu lên và
chứng minh đầy đủ. Tác giả chỉ nói
lại với một thứ "phương pháp
luận" riêng và với những thuật ngữ khá
lạ tai. Nhưng lời nói của ông có tiếng vang
lớn v́ là lời nói phát ra từ trong ḷng chế
độ, nơi từ trước tới nay chưa ai
dám nói và ít ai dám nghĩ. Nó có sức hấp dẫn lớn.
V́ vậy nó không được phổ biến trong
nước. Người trong nước biết
được nó qua đường ṿng từ trong
nước ra hải ngoại, rồi từ hải
ngoại vọng về. Nhưng đáng buồn là cũng
chỉ một số ít người ở các thành phố
lớn biết một cách mơ hồ thôi. C̣n ở các
nơi khác th́ như chính ông đă nói với đài VNCR.
"Đối với
số đông dân cư ở các vùng nông thôn, miền núi, th́
người dân chưa biết cái ǵ tồn tại ở
trên đời ngoài đảng cộng sản Việt
Nam"!
Để gián tiếp kêu
gọi giải thể chế độ và đảng
cộng sản, Hà Sĩ Phu đă nêu lên một h́nh ảnh
rất sống động vừa thiết thực vừa
có tính chất châm biếm là cái thuyền nan cần phải
bỏ đi sau khi đă qua sông. Một cách cụ thể
ông đề nghị nâng cao dân trí và công khai hóa mọi
việc. Đó là một thách đố đối với
nhà cầm quyền hiện naỵ V́ để nâng cao dân
trí ông đ̣i cho tự do báo chí. Ông thách nhà cầm quyền
cho phép chỉ hai tờ báo tư nhân, một ở miền
Bắc và một ở miền Nam, để
đương
đầu với từ 300 tới 500 tờ báo của
đảng và chính quyền.
Nếu không đặt
nặng vấn đề lư luận và tư tưởng mà
chỉ quan tâm đến tính thời sự chính trị th́
không thể nghi ngờ lập trường chống
cộng của HSP. Ông đ̣i từ bỏ chủ nghĩa
Mác, bỏ tệ nạn sùng bái cá nhân, từ bỏ sự
lănh đạo của đảng. Ông cũng lên án cuộc
chiến tranh gọi là "chống Mỹ cứu
nước". Nhưng, để tỏ vẻ công
bằng và không cực đoan, cũng như phần
đông các nhà trí thức trong nước, đă từng theo
kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lănh
đạo của đảng cộng sản, ông cho
rằng đảng có công trong việc đánh thắng
thực dân Pháp. Ông cũng không dám phủ nhận công
của chủ nghĩa Mác đă là con đường, là
phương tiện hữu hiệu trong công cuộc kháng
chiến thắng lợi đó. Cũng như ông vẫn
công nhận dầu sao ông Hồ Chí Minh vẫn là con
người đạo đức, có công trong việc giành
độc lập cho tổ quốc. V́ đó cũng là ư
kiến của nhiều tác giả được chúng tôi
trưng dẫn trong soạn phẩm này, nên chúng tôi sẽ
xin được bàn đến trong chương tổng
kết.
Tác giả đă
để nhiều trang sách nói về tính ngụy biện
của học thuyết Mác và châm biếm cay độc
những lập luận và hành vi của lănh đạo
đảng. Dẫn người đọc đến
chỗ phải kết luận: chỉ c̣n cách phải
phế bỏ sự lănh đạo ngu xuẩn và lưu manh
đó, theo từ ngữ của Vũ Thư Hiên.
Có sống ở trong
nước với Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Nguyễn
Ngọc Lan, hàng ngày thấy văn nghệ sĩ, v́ sợ,
v́ nồi cơm, v́ bị bưng bít, chỉ biết nói theo
đảng, th́ mới thấy sự dũng cảm
của Hà Sĩ Phu, dám nói lên một số điều mà
người khác không dám nóị Nếu v́ thế mà
Nguyễn Ngọc Lan hay Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo
Cự có ca tụng ông, bốc ông lên như một
"biểu tượng" cũng không nên bảo họ
tâng bốc nhau. (6)
Một điều mà chúng
tôi muốn nêu lên trước khi kết thúc chương này
đó là sự việc ông Hà Sĩ Phu bị bắt trong
một bối cảnh tranh chấp nội bộ giữa
hai nhóm "đảng quyền" và "nhà nước
quyền" vào lúc ấy. Nhóm đảng quyền gồm
những tay bảo thủ trong đảng như Lê
Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng,
Nguyễn Hà Phan chủ trương cố bám lấy
chủ nghĩa Mác Lê, xhcn, chuyên chính vô sản. Trong khi nhóm
"nhà nước quyền" gồm những tay chủ
trương đổi mới để mở rộng
liên hệ với thế giới bên ngoài như Vơ Văn
Kiệt, Phan Văn Khải, Trần Đức
Lương, Vơ Oanh.
Hà Sĩ Phu bị bắt
được hai ngày th́ Lê Hồng Hà cũng bị
bắt. Nếu ông trước bị bắt "quả
tang" mang bức thư tối mật của Vơ Văn
Kiệt, th́ ông sau bị bắt v́ có dính líu đến
việc ông ta đă cùng với Nguyễn Trung Thành, (thuộc
ban tổ chức trung ương đảng, trực
tiếp dưới quyền Lê Đức Thọ, khi ông này
đứng đầu ban tổ chức trung ương
đảng, đầy thế lực và thực quyền,
và ông Thành cũng chính là người thụ lư vụ án
"xét lại chống đảng vào thời 1967") vận
động xét lại vụ án để minh oan cho các
nạn nhân. Cả hai ông Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà
đều v́ thế mà đă bị khai trừ khỏi
đảng. V́ chuyện này có liên hệ đến tranh
chấp nội bô và vụ án xét
lại hơn hai chục
năm trước là vụ án làm chia rẽ đảng,
mở ra một kẽ hở có triển vọng dẫn
đến sự sụp đổ chế độ,
nhưng s 1; sụp đổ vẫn không xảy ra, nên chúng
tôi sẽ xin bàn đến trong chương tổng
kết, sau khi đă ghi nhận, phân tích ư kiến của
nhiều tác giả được trưng dẫn trong
soạn phẩm này.
(1) Bút hiệu này không có
nghĩa là sĩ phu Bắc Hà, như Đào Duy Tùng giải
thích khi phê b́nh ông, hay sĩ phu Hà-nội như người
ta có thể hiểụ Nó chỉ có nghĩa như là
một câu hỏi, một lời than: sĩ phu, kẻ
sĩ đâu rồi, hay như ông cho biết: "Thế
nào là sĩ phu"? "Ai là sĩ phu"?
(1 bis) Các tác giả
phần nhiều không có tên tuổi, trừ Quang Cận,
cấp đại tá, tổng biên tập tờ Quân
Đội Nhân Dân.
(2) Ngày 22-8-1996. Theo vợ
ông là bà Đặng thị Thanh Biên th́ ông Tụ đă khai
tại ṭa (nguyên văn lời bà trong thư khiếu
nại gửi các cơ quan công quyền ngày 30 tháng 9 năm
1996): "Ngay trang đầu của bản cáo trạng
đă ghi bắt quả tang tôi đă có hành vi chiếm
đoạt tài liệu bí mật của
nhà nước là sai hoàn
toàn với thực tế. Lúc đó tôi đang đi xe
đạp về phía bờ hồ th́ có hai người
ngồi xe gắn máy rượt sát tông vào xe làm tôi ngă. Tôi
chưa kịp đứng dậy vững th́ có
người giật túi, tôi kêu lên , lúc đó thấy có
đông người trong đó có công an vây quanh. Công an
dẫn tôi và người giật túi về đồn công
an phường Hàng Bài. Kẻ giật túi được
ngồi yên. Một người công an giật túi tôi đ̣i
xem có mất ǵ không. Tôi nói tôi không mất ǵ cả. Nhưng
người công an vẫn giằng túi tôi lục soát và
lập biên bản là tôi đă có hành vi chiếm đoạt
tài liệu bí mật nhà nước. Thật là vô lư! Cứ
làm như tôi là gián điệp biệt kích bị bắt
quả tang đang mở khóa kho lưu trữ hồ sơ
quốc gia"
(3) Tờ "Viên Giác"
ở Đức số 84 tháng 12 năm 1994 có đăng bài
của Tâm Tràng Ngô Trọng Anh viết về bài tiểu
luận của Hà Sĩ Phu trong đó có câu: "Diệu Aâm
của Hà Sĩ Phu vỏn vẹn chỉ có vài trang
chuyền tay mà làm thất kinh bát đảo toàn bộ
"cỗ máy nghiền" văn hóa trí thức của
Đảng"
(4) Số trang trong
ngoặc đơn ở chương này là theo cuốn Hà
Sĩ Phu tuyển tập do Thế Kỷ 21 xuất bản
tại California tháng 1 năm 1996.
(5) Khi nhà thơ Bùi Minh
Quốc, người bạn của Hà Sĩ Phu cùng ở Dà
Lạt, bị khai trừ, ông cũng có sáu câu lục bát
gửi bạn:
"Cộng Trừ Nhân
Chia" (Tặng BMQ ngày bị khai trừ):
Nghe tin cậu bị khai
Trừ
Tấm ḷng cộng
sản có dư vẫn bền.
Ḷng nhân ví được
Nhân lên
Chia cho thiên hạ làm duyên
bạn bầy!
Chạnh ḷng, nhớ thuở
thơ ngâỵ
Nhân Chia chưa biết,
loay hoay Cộng Trừ!
(6) Ông Nguyễn Minh
Cần lưu vong ở thủ đô Liên Bang Nga, sau khi
đọc bài của HSP về hoàn cảnh BMQ "bị
hành hạ, tra tấn, nhục h́nh đối với thể
xác và tâm hồn" (Mỗi ngày phải viết hai bài
tự kiểm, MV) trên tạp chí Thế Kỷ 21 tháng 1-1999.
và một câu đối của Hà Sĩ Phu nhân ngày sinh
của BMQ, đă viết cho HSP một lá thư dài
để chia sẻ quan điểm và cổ vơ HSP và các
người bạn cùng chí hướng của ông ở
trong nước. Đồng thời ông Cần cũng
hưởng ứng lời kêu gọi t́m vế thứ hai
cho câu đối, mặc dù "thú thật vốn chữ
hán của tôi không bằng cái trứng muỗi". Hai
vế đối của Hà Sĩ Phu và Nguyễn Minh Cần
như sau:
Minh Minh Quốc
Đối
Sĩ Sĩ Phu
Cầm Minh Quốc
bất minh
Đả Sĩ Phu vô
sỉ
Minh nhật kê minh
Sĩ khí chí sĩ
Minh Quốc phục
Sĩ Phu Vinh
(c̣n tiếp)