Minh Vơ
Chương 8
Cách nay sáu, bảy năm
tại hải ngoại có tin đồn sôi sục về
mối t́nh giữa một nhà mô phạm, nguyên phó viện
trưởng viện đại học Minh Đức
trước 1975, và một nhà văn nữ cựu
đảng viên cộng sản. Người ta nói bác sĩ
Bùi Duy Tâm đă "giao du thân mật" với nữ
văn sĩ Dương Thu Hương trên sông Đà.
Người ta c̣n thêm rằng cục phản gián Hà-nội
có cuốn băng quay cảnh hai người "làm t́nh
trên cạn, dưới nước, trong khách sạn, trên
băi cát."
Cố kư giả Chử Bá
Anh đă cho phổ biến trên tờ nguyệt san Diễn
Đàn Phụ Nữ của ông một đoạn của
lá thư 14 trang của nhà văn nữ này gửi bác sĩ
Bùi Duy Tâm để gián tiếp giúp bà thanh minh với
độc giả. Nhưng độc giả có tin hay không
là chuyện khác. Trong bức thư dài này chính Dương
Thu Hương đă nói những câu được chọn
đăng ở đầu chương. Qua lời lẽ
trong thư bà đă gián tiếp xác nhận chuyện hai
người có đi chơi thuyền với nhau trên sông
Đà nhưng là v́ mục đích khác.(?) Ở Mỹ này
người ta biết nhiều đến Dương Thu
Hương từ đó. (1)
Rồi hai năm sau
tiếng tăm của bà đă nổi như cồn khi bà
ra mắt ở Paris trong một buổi họp mặt do
"Nhà văn sĩ" (Maison des écrivains) tổ chức
ngày 6-10-1994. Lúc ấy bà đă có 3 cuốn sách
được dịch ra Pháp văn đó là các cuốn "Những
Thiên Đường Mù", "Truyện T́nh Kể
Trước Rạng Đông" và "Tiểu Thuyết Vô
Đề". Riêng cuốn "Những Thiên
Đường Mù" c̣n được dịch ra
tiếng Anh và Đức. Có thể nói ngoài Duyên Anh và
Nguyễn Chí Thiện ra cho đến lúc đó chưa có nhà
văn Việt Nam chống cộng nào được cái
vinh dự đó. Sự khác biệt giữa Nguyễn Chí
Thiện, Duyên Anh, hai người chống cộng từ
đầu và Dương Thu Hương, một cựu
đảng viên cộng sản, càng làm cho văn giới
Pháp chú ư tới bà hơn.
Dương Thu
Hương sinh năm 1947, nguyên quán tỉnh Thái B́nh (cùng quê
với tướng Trần Độ, và rất
được ông tướng này ủng hộ), có cha làm
thợ may và mẹ làm giáo viên. Theo bà cho biết trong các
cuộc gặp gỡ các sinh viên tại đại học
Paris VII ngày 7 tháng 11 năm 1994 th́ trong gia đ́nh bà chỉ có
ông bố theo "kháng chiến" c̣n tất cả đă
di cư vào Nam, rồi đi Mỹ, đi Canada, đi Pháp.
Bà nói với kư giả
Brian Eads, tác giả bài báo "She dares to live free"
đăng trên Reader’s Digest tháng 10 năm 1998 rằng cha bà
đă tham gia du kích quân của ông Hồ khi bà mới có 2 tuổi,
nghĩa là vào năm 1949. Tuy xuất thân là một văn công
tốt nghiệp đại học Mỹ Thuật
Hà-nội về họa, và múa, nhưng ra trường vào
lúc Mỹ vừa giết ông Diệm ở miền Nam
để đem quân tác chiến vào, nên bà đă sớm có
mặt tại chiến trường như một
người lính, tuy là "lính gái" và "lính văn
nghệ". Trong bản "tự bạch" về
cuốn "tiểu thuyết vô đề" gửi nhà
văn nữ Thụy Khuê ở Pháp, người đă
đề tựa cho tác phẩm này, Dương Thu
Hương cho biết năm 18 tuổi bà đă cùng thanh
thiếu niên cùng trang lứa "lên đường
chống Mỹ theo truyền thống dân tộc" . Trong
lá thư 14 trang gửi bác sĩ Búi Duy Tâm Dương Thu
Hương bảo "Tôi sinh ra không phải để làm
văn nghệ sĩ. Bản chất tôi là người
lính"
Dương Thu
Hương có chồng và hai con nhưng đă ly dị. Bà
cũng đă vào đảng cộng sản, nói là
để cho dễ tranh đấu chống thối nát
bất công. Nhưng sau khi viết xong (một cách rất
vội vă, nhanh chóng) "Tiểu Thuyết Vô Đề"
(2) và gửi được ra nước ngoài bà đă
bị bắt rồi ít lâu sau đó bị kiểm thảo,
chi bộ của bà họp để khai trừ bà,
nhưng, theo bà thuật lại, số phiếu chia làm hai
đồng đều (5 thuận 5 chống). Bà đă dùng
phiếu của chính ḿnh để được ra
khỏi đảng. Lệnh khai trừ ban hành ngày 4-7-1990,
nhưng nhiều tháng sau mới được công bố.
Dương Thu
Hương khởi đầu văn nghiệp của ḿnh
với những tập truyện ngắn "Những bông
bần ly", "Quầng Trăng Lơ", "Ban Mai
Yên Ả" và truyện dài "Hành Tŕnh Ngày Thơ
Ấu". Nhưng phải đến khi cho ra các cuốn
"Bên Kia Bờ Ảo Vọng" và "Những Thiên
Đường Mù" bà mới leo lên được
vị thế của một nhà văn có tầm cỡ.
Trong thập niên 80 Dương Thu Hương có tất
cả 10 tác phẩm. Nhưng cũng có người cho
rằng bà nổi tiếng trong nước là do những
lời lẽ đanh thép của bà khi phát biểu ư kiến
hay đọc tham luận trong các đại hội trí
thức và nhà văn cộng sản, ở Hà-nội cũng
như ở Saigon. Đặc biệt là trong đại
hội nhà văn tổ chức tại hội
trường Ba Đ́nh, Hà-nội, tháng 10 năm 1989
Dương Thu Hương đă làm mọi người
sửng sốt khi bà dám mắng Nguyễn Đ́nh Thi ,
chủ tọa buổi họp, là đồ đê tiện,
v́ đă không để bà đọc tham luận đúng theo
thứ tự đă dự liệu, mà lại xếp
xuống gần cuối. Nhưng cũng có người cho
rằng bài tham luận của Dương Thu Hương
đọc tại đại hội nhà văn làm bà nổi
tiếng đă được Nguyễn Đ́nh Thi gà cho. Trong
cuộc nói truyện thứ nh́ ở đại học
Paris VII bà cho biết: khi tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh tuyên bố trong một đại hội các nhà văn, nhà
báo: "Các nhà văn, nhà báo hăy tự cởi trói, và hăy
tự cứu ḿnh trưóc khi trời cứu" th́ bà và
một số người cùng chí hướng đă lợi
dụng lời tuyên bố công khai ấy để
đấu tranh, người th́ viết truyện, c̣n bà th́
viết những bài chính luận. Nhưng chỉ năm sau ông
Linh đă trở mặt tấn công vào nhóm văn nghệ
sĩ đ̣i dân chủ.
Ở nước ngoài bà
được biết đến nhiều sau khi cuốn
Những Thiên Đường Mù được ông Phan Huy
Đường dịch ra Pháp văn, và bà Nina McPherson
dịch ra Anh văn. Cho đến khi cuốn "Tiểu
Thuyết Vô Đề" hay "Khải Hoàn Môn"
được gửi ra ngoại quốc rồi bà bị
bắt giam hơn 7 tháng (từ 14-4-1991 đến 20-11-1991)
th́ bà trở thành tiêu biểu của văn chương
phản kháng trong nước. Sau khi ra tù, bà đă xin ra
khỏi hội nhà văn v́ cho rằng nó gồm những
nhà văn hèn, sợ đảng, chống lại lẽ
phải không đáng cho bà ở trong đó.
DTH cho biết bà
được mời sang Pháp 16 lần. Nhưng
đến ngày 22 tháng 8 năm 1994 bà mới được
đặt chân lên đất Pháp, sau khi đă để ra 4
tháng học tiếng. Chiều ngày 6 tháng 10 bà đă
được vinh dự tiếp xúc với khoảng 150
nhân vật trong giới giáo sư đại học, văn
sĩ ở thủ đô Paris (trong số này có 30
người Việt Nam), tại "Nhà Văn Sĩ",
(Maison des écrivains) trong buổi lễ ra mắt 3 tác phẩm
của bà đă được dịch ra Pháp văn là các
cuốn "Những Thiên Đường Mù",
"Truyện T́nh Kể trước rạng đông" và
"Tiểu Thuyết Vô Đề". Tất cả có 6
tổ chức Pháp bảo trợ cuộc ra mắt này,
đứng mời là "Câu Lạc Bộ Havard Pháp
Quốc".
Trong các cuộc tiếp
xúc ở Paris thời gian này, DTH cho biết Nguyễn Văn
Linh khi c̣n là tổng bí thư đảng đă t́m cách mua
chuộc bà, hứa "cấp cho bà một căn nhà
cấp thứ trưởng", nhưng bà không nhận. Và
cũng Nguyễn Văn Linh sau này chửi bà là "con ranh
con", "con đĩ chống đảng", v́
thấy không lung lạc được bà.
Sau đây chúng tôi sẽ
nói kỹ về nội dung tác phẩm "Những Thiên
Đường Mù" và thuật lại tóm tắt hoàn
cảnh rắc rối của cuốn "Tiểu
Thuyết Vô Đề".
Tiểu thuyết "
Những Thiên Đường Mù":
Trong số những tác
phẩm văn chương Việt Nam có tác dụng
chống cộng được người ngoại
quốc biết đến trong hai thập kỷ này, ngoài
Hoa Địa Ngục (Flowers from hell) của Nguyễn Chí
Thiện và "Tướng Về Hưu" (Un Général à la
retraite) của Nguyễn Huy Thiệp, người ta
thấy nổi bật hai cuốn tiểu thuyết của
Duyên Anh và Dương Thu Hương. Duyên Anh th́ có may
mắn làm thân được với linh mục Mais nói
được tiếng Việt và sư huynh Nghiêm thông
thạo tiếng Pháp, cho nên cuốn "Một
Người Nga ở Sai G̣n" được chuyển
sang Pháp ngữ là "Un Russe à Saigon". (2bis) C̣n Dương
Thu Hương th́ do vị trí của một nhà văn
đang sống trong vùng cộng sản lại dám viết
xấu về chế độ cộng sản đă
được đánh giá là con người can đảm,
nhất là lại là một phụ nữ. V́ vậy
cuốn "Những Thiên Đường Mù" (Nhà
xuất bản Phụ Nữ, Hà-nội, 1988) cũng đă
được dịch ra Pháp ngữ: "Les Paradis
Aveugles" (dịch giả Phan Huy Đường, nhà
xuất bản "Des Femmes") và Anh Ngữ:"Paradise of
the Blind". (1. dịch giả Phan Huy Đường và
Nina McPherson,)
Nói vậy không có nghĩa
là cuốn sách được dịch ra ngoại ngữ
chỉ v́ nó chống cộng chứ không phải v́ giá
trị văn chương. Người đọc dù khó
tính cũng phải công nhận cuốn tiểu thuyết khá
haỵ Tác giả đă chứng tỏ ḿnh có kiến
thức rộng, có óc nhận xét và phán đoán tinh tế.
Điều khiến độc giả ngoại quốc
sẽ có thể thích thú là bà biết rất nhiều về
nông thôn miền Bắc, am hiểu phong tục tập quán và
ngôn ngữ người dân quê, lại khéo léo diễn tả
những điều đó bằng một bút pháp linh
hoạt, sáng tạọ
Cuốn tiểu thuyết
được viết theo lối tự truyện. Tác
giả dùng ngôi thứ nhất cho nhân vật chính trong
truyện là Hằng. Tác phẩm bắt đầu bằng
một bức điện văn của người
cậu của Hằng tên Chính báo tin ông ta ốm và cần
gặp nàng ở thủ đô Liên Xô. Lúc ấy Hằng
đang làm lao động xuất khẩu (thợ dệt)
ở một tỉnh lẻ bên Nga cách Mặc Tư Khoa cả
ngàn dặm. C̣n ông cậu th́ đă xin được sang
đó "tập huấn" trong 4 tháng. Mẹ Hằng
chỉ có một người em duy nhất là ông Chính này, nên
tuy đang bệnh mà nghe nói cậu ốm và muốn
gặp, Hằng cũng bất chấp mùa đông lên
tầu tới Mặc Tư Khoa.
Ba phần tư câu
chuyện về cuộc đời của Hằng
được nàng nhớ lại từng đoạn
tương ứng với từng chặng
đường trên con tầụ Một bản nhạc,
một lời đối đáp của khách đồng
hành, hay một cảnh vật chạy qua trên
đường đị đă nhắc Hằng nhớ và
thuật lại cuộc đời nàng bên cạnh một
bà mẹ ít học nhưng nặng t́nh anh em và một bà cô
đă từng cùng với mẹ bị quy địa
chủ và bị đấu tố trong dịp cải cách
ruộng đất giữa thập niên 50. Cứ vài
chục trang thuật lại chuyện dĩ văng ở quê
nhà th́ lại đến vài trang thuật chuyện đang
xảy ra trong cuộc hành tŕnh từ tỉnh lẻ tới
Mặc Tư Khoa. Toàn bộ
câu chuyện như
vậy đáng lẽ phải trúc trắc khó hiểu v́
đứt quăng không liên tục. Nhưng nhờ tài chuyển
bút nhẹ nhàng tự nhiên của tác giả, người
đọc cảm thấy rất thoải mái, thích thú: không
nhàm chán v́ những cảnh giống nhau, trái lại như
được dẫn đi giữa những cảnh trí
phong phú thay đổi không ngừng, từ trời Tây
trở về đất Việt, hết cảnh thành
thị đến cảnh thôn quê.
Câu chuyện của
Hằng có thể tóm tắt như sau:
Hằng là một
đứa trẻ mồ côi cha ngay từ khi mới sinh,
không bao giờ biết mặt chạ Mẹ nàng là Quế,
một cô gái quê, cha mẹ mất sớm, chỉ c̣n một
người em ruột tên Chính. Chính sớm theo kháng
chiến nên trong chiến dịch cải cách ruộng
đất (1955-1956) được cử làm đội
trưởng đội cải cách ruộng đất,
từ chiến khu về làng lănh đạo cuộc
đấu tố. Bà nội của Hằng và người
cô ruột, hai người duy nhất c̣n lại trong gia
đ́nh bên nội, bị quy là địa chủ và bị
đem đấu tố. Bà mẹ, tên Tam, đă chết
liền sau đó v́ nhục và kiệt sức; c̣n cô con gái
tên Tâm, chị ruột của bố Hằng, bị
đuổi ra khỏi nhà sống cuộc đời cơ
cực nhục nhă. Vài năm sau, nhờ chiến dịch
sửa sai, cô Tâm được xếp lại thành phần
là trung nông và được trả lại nhà đất,
mặc dù nó đă bị phá huỷ, giá trị chẳng c̣n
ǵ. Cô ta quyết tâm dựng lại cơ đồ với
ư nghĩ phục thù. Với tài tháo vát và cật lực lao động
ngày đêm trong bao năm trời, cô trở nên giầu có
trở lại.
Bố Hằng, tên
Tốn, em cô Tâm, là người có tây học, thành hôn với
mẹ Hằng được hơn một năm th́ Chính
về lănh đạo cải cách ruộng đất ở
làng. Ông này cấm chị không được liên lạc với
chồng. Không chịu được nỗi nhục,
Tốn trốn lên miền thượng lấy một
người đàn bà sơn cước. Đến khi t́nh
h́nh ở quê tạm yên (khoảng 10 năm sau) anh trở
về làng nối lại duyên xưa với Quế và v́
thế có bé Hằng. Anh trở lại miền núi
để giải quyết với người vợ
thươ.ng. Nhưng lên đấy anh đă chết
một cách bí mật. V́ vậy Hằng không bao giờ
thấy mặt cha.
Cô Tâm rất oán hận cán
bộ Chính và t́m cách thuyết phục mẹ Hằng
đừng nghe theo người cán bộ tàn ác đó.
Nhưng v́ t́nh máu mủ, Quế chỉ có hai chị em, tính
nàng lại cả nể nên chẳng những không dứt
t́nh mà c̣n lo lắng săn sóc Chính và vợ con Chính một
cách quá đáng. Bắt con đói khổ để dành
tiền cấp dưỡng cho 2 đứa cháu, con của
những kẻ vô ơn và ngu dốt, chỉ biết
đấu tranh giai cấp, lúc nào cũng lập
trường giai cấp: chồng th́ là cán bộ tuyên
huấn của huyện mà chẳng biết ǵ về văn
hóa, vợ th́ làm giáo viên trường Đoàn lúc nào cũng
sách Lê-nin trước mặt.
Hằng chẳng ưa ǵ
ông cậu, lại được bà cô thương yêu,
cấp dưỡng, nên trong thâm tâm muốn đứng
về phe bên nội. Nhưng lại không dám làm phật ư
me.. V́ vậy đời nàng như bị kẹt ở
giữa. Thật là trăm cay ngh́n đắng. Nàng đă
khóc không biết bao nhiêu lần. Cứ đọc những
đoạn mẹ nàng bắt đứa con chín tuổi
đi từ ngoại ô Hà-nội vào tận khu tập
thể cán bộ ở trong thành để đem tiền
bạc, quà cáp đến cho những đứa em họ,
trong khi đó nhà nàng dột không có tiền sửa chữa,
hai mẹ con bữa đói bữa no, bữa cơm chỉ
toàn có cà muối và su hào kho tráng mỡ nước,
người đọc thấy vừa thương cô bé
vừa ghét người cậu, và phẫn uất cả
với bà mẹ u mê.
Người đọc
tự hỏi không biết tác giả có ngụ ư: Hằng
tượng trưng cho thường dân. Chính tượng
trưng cho Đảng và nhà nước cộng sản.
Quế tượng trưng cho mẹ Việt Nam. C̣n Tâm
tượng trưng cho những người quốc gia
bị cộng sản gán cho cái tội địa chủ,
phong kiến, tư bản, phản động.
Thường dân Việt Nam (Hằng) bị sống
giữa hai lằn đạn: quốc cộng tranh chấp
khiến dân lành đói khổ chết chóc. Chúng tôi xin trích
dẫn một vài đoạn để độc giả
xét xem có đúng là tác giả ngụ ư như vừa nêu không.
Cải cách ruộng
đất những năm 1955-1956:
Chính bảo chị
phải chấm dứt liên hệ với chồng:
"- Chị Quế,
từ này về sau chị không được gặp
mặt, không được nói năng, không được
trao đổi bất cứ việc ǵ với tên Tốn.
- Tên Tốn?. Sao cậu
lại gọi anh ấy như thế?
- V́ anh ta là phần tử
bóc lột.
- Bóc lột?
- Gia đ́nh anh ta thuộc
thành phần địa chủ, kẻ thù của dân
tộc..Theo t́nh h́nh được cung cấp hắn
thuộc thành phần phải đem đấu tố.
- Đấu tố là
thế nào hở cậủ
- Là kẻ có tội
phải cúi đầu nhận tội trước bà con nông
dân.
Mẹ tôi run rẩy nói:
- Từ xưa tới nay
gia đ́nh anh ấy vẫn ăn ở hiền lành, chưa
làm điều ǵ độc ác. Cậu biết đấy,
ở làng ai xấu ai tốt xóm giềng đều
biết cả.
Cậu Chính nghiêm giọng
bảo:
Chị không
được để kẻ khác lung lạc.Nếu không
nghe em chị sẽ bị đào thải khỏi
đội ngũ, chị sẽ chịu các h́nh thức
kỷ luật của cách ma.ng.
Mẹ tôi ̣a khóc:
- Nhưng xưa nay
chị và anh ấy vẫn sống êm thấm với
mọi ngườị Anh Tốn tốt nhịn
lắm..Chi. không biết anh bóc lột ra sao. Mà chị
cũng chưa nghe những điều em nói bao giờ.
- Chưa ai nói th́ bây
giờ đội cải cách nói, cách mạng nói. Chị
Quế, chị phải nghe em.
Cuộc đối
thoại ấy diễn ra trước mặt một
số bà con thân quyến. Ai nấy sợ xanh mặt,
lặng lẽ ra về. Mọi người không hiểu v́
sao bà lăo Tam, chủ nhân của một mẫu tám ruộng
hương hỏa lại trở thành kẻ thù với
ḿnh, thành giai cấp bóc lột phản động...
Phải, mẹ tôi đă
không hiểu được tai họa giáng xuống
đầu ḿnh. Mẹ tôi khiếp sợ như nhiều
người khác đă khiếp sợ vào lúc đó. Cậu
Chính đă triển khai đội cải cách rất nhanh.
Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đ́nh,
đầu gục xuống, hai tay ṿng trước ngực.
Trước mặt hai người là dân làng đốt
đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng nghe
những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng
hét bật lên: "Đả đảo địa
chủ", họ có nhiệm vụ giơ tay lên hô
thật to: "Đả đảọ Đả đảo."
Hô càng to càng chứng
tỏ tinh thần cách mạng vững vàng, chứng tỏ
ḷng căm thù giai cấp bóc lột. Mà trong đám đông
ấy không ít những nông phu có ruộng đất với
t́nh yêu máu thịt, nhờ kinh nghiệm lao động và
tính cần mẫn mà có được một nóc nhà,
một con trâu với vài ba vựa thóc. Chỉ cần
một lời tố giác điêu toa, họ dễ dàng
nhảy từ địa vị của người
ngồi tham dự xuống đáy hố của
kẻ bị kết án.
Tai họa, nỗi nhục nhă, cái chết treo lơ lửng
tựa một trái cây chín rục trên cành cao, không biết nó
rụng xuống lúc nào. Bởi lẽ đó trong tiếng hô
rầm rập của đám dân làng, không ít những
tiếng gào để che lấp cơn sợ hăi, một
cách tự trấn an tinh thần, một cách cầu lợi
thấp hèn, cái thấp hèn mà con người khó tránh khỏi
trong những cơn giông tố. Mẹ tôi kể rằng
trong đám dân làng có hai kẻ được liệt vào
loại cốt cán đă đấu tố bà nội tôi và cô
Tâm. Người thứ nhất là một gă du thủ du
thực, sống lang thang hết làng này sang làng kia.."
Tác giả đă
để gần hai trang để tả đủ
mọi tật xấu của gă này, y có cái tên rất đàn
bà là Ngọc Bích. Xong rồi tác giả để hơn ba
trang nói đến người thứ hai, một mụ
đàn bà góa tên Nần "da trắng nhây
nhẩy"lười biếng chuyên "ăn cắp
vặt":
"Hai nhân vật đó,
gă Bích và mụ Nần không ai trong làng không biết. Chẳng
hiểu v́ cớ ǵ, cậu tôi lại xếp vào đội
ngũ cốt cán của giai cấp nông dân. Chúng ngồi trên
hàng ghế danh dự, đập bàn quát:
- Mụ Tam, mày có biết
tao là ai không?
- Thưa có, ông là ông Bích.
- Con Tâm, con địa
chủ gian ác, mày có biết tao là ai không?
- Thưa có, bà là bà
Nần.
Bên tay trái bà nội tôi và
cô tôi, những người khác quỳ gối chờ
tới lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng
hô: Đả đảọ cất lên họ lại run
bần bật. Chỉ có cô Tâm không hề run rẩỵ
Mẹ tôi nói rằng cô có cặp mắt tượng trơ
trơ cùng thế gian. Lần đấu tố thứ hai
bà và cô tôi phải đứng dưới một cái hố
sâu chừng nửa thước. Đứng ở
dưới đo,con người có cảm giác ḿnh là
một sinh vật thấp hèn, tủi nhục, bị
đầy ải. Ngay những người đàn ông ĺ
lởm ở vào hoàn cảnh ấy cũng gục. Bà tôi
ốm nặng rồi chết. Chỉ cô tôi là thản nhiên.
Tôi hỏi mẹ:
- C̣n bố con th́ sao?
- Bố con không như cô
Tâm, bố con không chịu được nhục.
Mẹ tôi trả lời,
với một giọng buồn, chẳng ra chê trách, cũng
chẳng ra thán phục. Mẹ tôi kể rằng bố tôi
đă đau khổ ngay từ lần đầu tiên
cậu Chính tới nhà bà nội tôi, chỉ vào mặt ông mà
nói:
- Trước kia anh
với chị Quế là vợ chồng. Bây giờ anh là
kẻ thù giai cấp, không có quyền đi lại với
chị tôi. Nếu anh c̣n bén mảng tới nhà chị ấy,
tôi sẽ ra lệnh cho du kích bắt trói.
Cậu nói xong tiếng
trống cà rùng nổi lên, dinh tai nhức óc. Rồi
tiếng hô uy hiếp vọng vào:
- Kiên quyết đánh
đổ địa chủ Đỗ Thị Tam.
- Kiên quyết đánh
đổ.
Cậu Chính nh́n bố tôi
hất hàm:
- Nghe rơ chưa?
Bố tôi không trả
lời.
Cậu quát:
- Đội hỏi có
trả lời không?
Mặt bố tôi tái xanh,
mồ hôi vă đầy hai thái dương nhưng vẫn im
lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên:
- Bẩm thưa
đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận,
dù Đội không ra lệnh chúng con cũng không dám chơi
trèo.
Cậu Chính là đội
trưởng đội cải cách. Lúc ấy đội
cải cách là Thượng Đế, là Trời. Câu trả
lời của cô Tâm làm thỏa măn ḷng tự ái của
cậụ Cậu đi ra. Nhưng đội thiếu nhi
c̣n ở lại, hô khẩu hiệu, đánh trống
thị uy, và đồng thanh hát. Bài hát thế này:
"Cắt đứt là
cắt đứt
Dứt khoát là dứt khoát
Không vương vấn
giai cấp địa chủ."
Bài hát ấy mới
hợp với t́nh cảnh bố mẹ tôi làm sao.Dăm hôm
sau, vào một đêm mưa, cô Tâm thu xếp cho bố tôi
trốn khỏi làng:
- Đi đi, em không
chịu được nhục đâu. Muốn sống qua
lúc này, phải chịu nhục. Đừng lo ǵ cho chị
cả. Rồi trời khắc có mắt thôi.
Giá người khác như
thế, ắt bị truy lùng khốn khổ, nhưng
cậu Chính chỉ tra hỏi cô Tâm qua loa rồi lờ
đi. Cậu bảo mẹ tôi:
- Thằng ấy đi
khuất mắt càng tốt cho chi..
Trưa hôm sau, mẹ tôi vác
giỏ ra đồng móc cua, chờ cô Tâm đem quần áo
ra đầm giặt. Hai người nói chuyện với
nhau, một ngựi cúi gầm mặt xuống bờ
ruộng, giả bộ móc cua, một người vờ
đập quần áo:
- Cô Tâm, nhà tôi đi đâu
thế?
- Thưa bà nông dân, chúng con
không biết.
- Tôi xin cô, tôi có làm ǵ nên
tội đâu.
- Thưa bà con biết bà
là chị ruột Đội Chính. Đội là Trời,
bọn địa chủ chúng con là sâu bo..
- Trăm lạy cô, ngàn
lạy cô, đừng dày ṿ gan ruột tôi nữa. Chồng
tôi đi đâu?
- Chị đă có em
chị khỏi phải có chồng. Người nhà tôi không
chịu được nhục.
Tối hôm đó cậu
Chính hỏi mẹ tôi:
- Trưa nay chị
gặp con Tâm?
- Ai bảo cậu
thế.
- Anh em du kích theo dơị
- Tôi đi móc cua.
- Không ai đi móc cua
lại đứng măi một góc ruộng. Chị
đừng căi.
Hai ngựi im lặng
một lúc lâu rồi cậu bảo:
- V́ ba đời nhà ta làm
thuê bốc thuốc, không có một tấc đất nên tôi
mới được làm đội trưởng. Nếu
chị liên hệ với bọn địa chủ, có
đứa báo cáo lên cấp trên, sẽ ảnh hưởng
uy tín của tôi.
Mẹ tôi lại bật
khóc: - Tôi khổ quá.
Cậu Chính quát:
- Chị không
được nghĩ tới cá nhân ḿnh. Chị phải
nghĩ tới quyền lợi giai cấp..
Từ ngày đó mẹ tôi
càng ngày càng gầy rộc, hai hố mắt trũng sâu.
Đêm đêm mẹ tôi thờ thẫn ra vườn,
đến từng gốc khế, từng bụi mống
rồng, từng gốc ổi, từng gốc sung th́
thầm.Người làng xầm x́ là mẹ tôi mắc
bệnh tâm thần. Cậu Chính giận lắm:
- Người làng x́ xào bàn
tán. Họ bảo chị c̣n thương tiếc thằng
địa chủ Tốn. Rằng v́ thế mà chị
dở điên dở dại, suốt ngày nói chuyện
một ḿnh.
- .
Một đêm tháng
chạp, mẹ cuốn bọc quần áo rời khỏi
làng. Cậu Chính cho ngựi ḍ xét không ai biết. Tra hỏi
cô Tâm cô một mực bảo rằng không liên quan..Nửa
năm trôi qua cậu Chính và đội cải cách rút
khỏi làng.
.Lúc ấy mẹ tôi
về, thất thểu như bóng ma. Làn da hồng mịn
màng năm xưa đă sạm. Những nếp nhăn
mờ in trên hai g̣ má và sơn căn, giữa hai tràng mày cong
vút. Đêm ấy cḥm xóm kéo sang thăm hỏi. Mẹ tôi
ngồi ṿng tay ôm gối, nước mắt thánh thót
rơi. Thói thường, người làng hay tọc
mạch. Họ nhất thiết ḍ t́m điều muốn
biết. Nhưng dạo ấy, họ không cật vấn
mẹ tôi. Phần v́ thương, phần bị hút vào
cuộc xáo động mớị Đội sửa sai
về làng."
Trong đợt sửa sai
mẹ Hằng bị nông dân hỏi tội thay cho
người em đă chạy thoát. Nhưng nhờ có cô Tâm
bênh vực chở che nên.
"Cơn điên của
đám đông dịu xuống. Cán bộ sửa sai tới
trấn an. Người ta ra về. Cô Tâm gọi mẹ tôi
mở cửa. Hai người đàn bà ôm nhau khóc.." (tr.
17-29)
"Lúc ấy ngay ở
phố huyện, băi cỏ lớn trước vốn là sân
quần ngựa cũng đă biến thành trường
đấu. Địa chủ lớn, cường hào ác bá
điển h́nh trong các xă được đưa lên
đấu tố và đem ra trước ṭa án của nông
dân xét xử. Suốt đêm lửa đuốc cháy rần
rật, khói tỏa ngút trời. Suốt đêm tiếng
trống tiếng kèn, tiếng hô, tiếng la hét của
đám đông vang đô.ng. Đội du kích đi tuần
tra, lưỡi lê giương sáng quắc. Các đội
viên du kích súng lăm lăm chĩa về phía trước
trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mắt
họ cũng sáng quắc như lưỡi lê v́ tinh
thần cảnh giác, nh́n như lục soát đám bộ
hành. "Không để bọn địa chủ lọt
lưới".Khẩu hiệu kẻ ngang dọc trên
đường, bằng đủ loại chữ. Bất
cứ người nào bị họ gọi tới cũng
run như cầy sấy, trước những ánh mắt
hừng hực căm hờn một sự căm hờn
rất an nhiên không cần căn đế và lư trí.."
(trang 55)
".Cô tôi khoanh tay
trước ngực, bắt chéo chân lại rồi kể:
- Hồi cải cách, cô
biết đấy, ngôi nhà này chia làm đôi, một nửa
cho thằng Bích, một nửa cho con mụ Nần. Chúng
đuổi tôi ra cái lều của thằng mơ, kề
với đ́nh làng. Trong tay chỉ có ba sào ruộng xấu,
trâu không, ḅ không, cày bừa không. Ḅn được vài
chục bạc đưa cả cho chú Tốn. Nhiều
đêm không ngủ, tôi ngồi nh́n đám ruộng trắng,
nước mắt ứa hai hàng. Giá cứ đâm
đầu xuống giếng làng là rảnh chuyện. Mà
duyên nghiệp ma quỷ đưa đón, ngày nào cũng
dăm sáu bận đi qua cái giếng trước cửa
đ́nh. Nước trong leo lẻo cứ như mời
gọi. Soi măi bóng xuống mặt nước, tôi lại
nghĩ: "Chết th́ khỏe xác, nhưng mà hèn. Những
kẻ bức hại ḿnh, nhăn răng cười
trước mộ ... Phải sống để nh́n ngày
tận mạt của chúng.. Phải sống để xoay
ván cờ với Trời già." (Trang 70)
Chữ hiếu của
người cộng sản duy vật:
".Chợt mẹ tôi
bật kêu:
- Sao cậu chẳng hỏi
ǵ giỗ tết thày u thế? Bao nhiêu năm. Cậu Chính
thở dài:
- Ối dào, chị khéo
đa sư.. Thày u chết lâu rồi c̣n hỏi làm ǵ?
Mẹ tôi khóc dấm
dứt:
- Nhưng mà là thày u
của ḿnh. Chết hay sống cũng vậy. Thày u chỉ
có cậu là người nối dơi.
Cậu Chính gắt:
- Chị ăn nói lạ,
thời buổi này là thời duy vật, không ai c̣n nghĩ
vớ vẩn như chi.. Chết là hết..
Cán bộ ra nước
ngoài chỉ lo buôn bán:
Trong thời gian Hằng
làm lao động xuất khẩu ở Liên Xô, cậu nàng
đă sang đó hai lần. Lần nào cũng gọi cháu lên
nhờ việc buôn bán kiếm tư tiền c̣m. Có lần c̣n
đi làm mướn cho những sinh viên trẻ khiến cho
bọn này khinh khi. Hăy đọc vài đoạn đối
đáp giữa hai cậu cháu:
".Tôi nói: "Cậu
khe khẽ thôi. Có phải ở nhà ḿnh đâu?"
Cậu há miệng:
"Ờ ờ."
.Qua gian sảnh chúng tôi
thấy hai phụ nữ đang ngồi đan áo. Cậu
bảo:
- Cháu giỏi tiếng Nga,
bán được mấy cái áo len cánh dơi cho các cô này th́
tốt.
-.Cậu ở một
ḿnh?
- Ờ, tiêu chuẩn
của cậu. Ngẫm nghĩ tí chút cậu nói thêm: Ở
một ḿnh là tiện nhất.
Nói xong cậu đưa
mắt liếc ra ngoài cửa sổ. Nơi đó những
mái nhà thành phố hiện lên trong làn ánh sáng trắng như
sữa của b́nh minh. Cậu ngó nghiêng lần nữa,
vẻ yên tâm. Lúc đó cậu nói:
- Cháu đem giải
quyết mớ hàng nàỵ
Rồi quỳ xuống,
cậu lôi chiếc túi du lịch nhét trong ngăn
dưới cùng của chiếc tủ gỗ ra:
- Hàng mợ chuẩn
bị đầy đủ lắm cơ.
Kéo phécmơtuya roạt
một tiếng, cậu sắp sửa lôi các thứ hàng
xếp bên trong ra. Tôi vội nói: "Từ từ đă
cậu" Cậu bảo: "Nhưng lát nữa cậu
c̣n phải họp đoàn, c̣n làm việc với bạn.
Tôi bảo: "Chẳng
đi đâu mà vộị Ở đây người ta không
thức dậy sớm như bên ḿnh.
Cậu băn khoăn:
"Nhưng nhỡ . tay phiên dịch nó sang."
- Chẳng sang
người ta cũng thừa biết.
- Hằng ... Cậu quát
lên, mặt tái mét. Mày nói ǵ thế?
Tôi đáp: "Cháu nói
thật." Cậu gằn giọng: "Cháu với
chắt, đồ mất dạy."
Tôi lặng im. Cậu hùng
hổ đi tới trước cửa sổ, vén tấm
rèm lên, chẳng hiểu cậu t́m thấy ǵ trong khung
cảnh của thành phố sớm mai yên tĩnh. Hai tay
chống nạnh, đôi vai nhô lên, chắc cậu đang
trút những hơi thở dài, bực bộĩ. Lát sau
cậu quay vào, giọng hiền từ hơn:
- Thôi. Nhưng lẽ ra,
cháu cũng không nên nói thế.
Tôi lặng im, không đáp.
Cậu khẽ nói:
- Hằng này, cậu không
muốn nhờ người khác, hoặc họ d́m giá,
hoặc họ thóc mách đồn thổi. Cháu giúp
cậụ
Tôi bỗng thấy
mệt mỏịTủi cực chăng? Khóc chăng?
Nước mắt đă cạn. Tôi nh́n cậu nói khe
khẽ:
- Đáng lẽ cậu nên
thông báo cho cháu t́nh h́nh gia đ́nh, sức khỏe mẹ cháu
ra sao? Đáng lẽ cậu nên cho cháu một chén chè
(nước trà) .Cháu từ hàng ngh́n cây số tới đây.
Cậu đứng
ngẩn ra rồi ờ ờ.những tiếng vô
nghĩạ" (trang 172-174)
C̣n đây là ư nghĩ
của Hằng về các đồng chí của cậu nàng,
các đoàn viên trong đoàn công tác nước ngoài do ông ta
cầm đầu:
"Các người khác
vừa nghe (Chính thuyết tŕnh) vừa nặn trứng cá
hoặc găi mụn ruồi. Người nào cũng có vẻ
bồn chồn. Chắc chắn họ đang tính cách nào
bán hàng hóa nhanh nhất và nhờ ai mua được
nhiều hàng hóa nhất.Cậu Chính đang cao giọng nói:
- Tôi yêu cầu các
đồng chí nêu cao tinh thần gương mẫu trên
đất nước bạn. Tất cả phải có ư
thức tổ chức.." (trang 175)
Đó là nói về
chuyến công tác đầu của Chính. Lần thứ hai
cậu Chính vừa tới thủ đô Liên Xô
được mấy ngày liền đánh điện cho
Hằng từ tỉnh lẻ vượt hàng ngàn cây số
đến gặp cậu gấp v́ cậu ốm. Mặc
dù đang ốm Hằng cũng cố đến với
cậu. Không dè thấy cậu vẫn khỏe mạnh
đang làm bếp mướn cho một toán sinh viên. Nàng tính
quay về không thèm gặp. Nhưng lỡ chuyến xe buưt
cuối cùng trong ngày, không thể ra ga xe lửa
được. Nên đành vào gặp cậụ Hăy nghe
những sinh viên nói xấu người đầu bếp
Chính của họ:
"- Lần trước
ông ấy cũng làm cháy cái áo thun của tôi. Hàng Ư hẳn
hoi. Hôm nhờ cắt khẩu hiệu cũng không cắt
nổi. Ông anh tôi cùng học trong trường anh bảo ông
ấy lên lớp toàn ngủ gật. Nhưng về tới
nhà, nhanh như cắt đi lùng mua hàng căng tin. Thứ
nào quư ông ấy mua được trước tiên. Có
lẽ khả năng vĩ đại nhất trong con
người ông ta là khả năng đầu bếp...
Phải, nhờ khả năng ấy ông ta chiếm
được ḷng cấp trên, nhờ được ḷng
cấp trên ông ấy nhảy lên cấp lănh đạo."
(Trang 222)
Cái đạo đức
giả của cấp lănh đạo:
"Cậu Chính đáp: -
Thời chúng tôi không ai nghe những thứ nhạc nhẽo
trụy lạc như vậỵ
"Tiếng chàng lăng
tử đối lại:
- Ở cùng số nhà
với bố mẹ tôi có một ông phó giám đốc,
cỡ tuổi gần như ông. Ông ấy được
tiếng là nghiêm nghi.. Mở miệng là nói lời giáo huấn.
Đầu óc toàn nghĩ chuyện cao cả. Nào là tinh
thần cách mạng, nào là ư thức tổ chức, nào là
nghĩa vụ quốc tế và nghĩa vụ công dân.
Số nhà tôi ở gồm sáu hộ, 27 nhân khẩu lớn
nhỏ, không ai có bộ mặt quyền uy như ông
ấỵ Ông ấy có hai đứa con gái và một
đứa cháu ngoại. Bà vợ kém ông ta vài tuổi, hai
ngày một lượt leo lên xe (ôtô) con đi chợ,
mắt chẳng bao giờ ngó xuống đám láng giềng.
Rồi bỗng một hôm chúng tôi đi đá bóng buổi
trưa về, cả lũ tắm truồng lông nhông ngoài
sân. Nghe có tiếng kêu trong nhà tắm công cô.ng. Một
đứa giật cửa, nhưng cửa gài chặt. Mà
tiếng kêu ú ớ bên trong cứ vẳng ra. Lũ chúng tôi
bèn công kênh nhau , ghé mắt qua lỗ thông hơi sát nóc nhà
tắm, nh́n vàọ Ông phó giám đốc
tôn kính đang ở trong
đó, trần như nhộng trên một con bé 14
tuổị Con bé ấy vẫn ú ớ kêu, c̣n ông ta vẫn
tiếp tục làm việc. Lũ mất dậy chúng tôi
thoạt đầu thích chí cười rinh rích. Hết
thằng nọ tới thằng kia, đổi nhau xem tṛ
vui. Nhưng con bé giẫy dụa măi, chắc nó đau. Ông ta
bịt chặt miệng nó lại không thể kêu to...
Rồi lát sau chàng lăng tử
hắng giọng nói tiếp:
- Thế đấy ông
Chính a..Cái lăo hiếp dâm ấy không tới sàn nhảy bao
giờ. Chắc chắn cũng răn dạy công nhân xí
nghiệp của hắn rằng nhảy nhót là trụy
lạc, rằng thế hệ của hắn không bao
giờ tham dự những tṛ vui hư hỏng như
thế, rằng cuộc đời hắn chỉ là
để phục vụ cách mạng cao cả cho tới
hơi thở cuối cùng. Hắn cũng cùng quan niệm và
sở thích như ông. Nói thế tôi không muốn
xúc phạm ông. Tôi biết
ông không phải là kẻ hám gáị Nhưng những
người như ông và hắn có ǵ rất giống nhau..
Chính những người
như hắn hoặc như ông đă ra lệnh săn
đuổi chúng tôi trên đường phố, cắt
quần loe khi các ông không mặc quần loe, cắt quần
tuưp khi các ông không mặc quần túyp. Phẩm cách con
người được các ông định khuôn bằng
chiều rộng của ống quần. Nếu các ông mặc
quần ống 23 th́ 18 triệu thanh niên chúng tôi phải
mặc ống quần cỡ 23. Chật hay rộng hơn
đều làphản Đảng, phản quốc..
.Tôi lớn lên và dần
dần tôi chứng nghiệm rằng những con
người từng có lúc khống chế chúng tôi như lăo
phó giám đốc kia hoàn toàn không giống... Ho. là những
diễn viên đại tài. (3) Họ định ra bao nhiêu
niêm luật khắt khe. Nhưng trong bóng đêm, họ
sống cuộc sống nhầy nhụa không đạo lư
và luật tắc. (trang 224-226)
(Anh ta hỏi Hằng) Cô
biết ông cậu của cô gọi cô lên Matxcơva làm ǵ
không?
Tôi không đáp, nh́n anh
chờ đợi. Anh nói tiếp:
- Ông ta chuẩn bị
đóng ḥm gửi biển. Việc ấy cần phải
giỏi tiếng Nga và giỏi chi tiền. Cả hai thứ
ông ta đều kém. Chàng lăng tử ngừng lại, suy
ngẫm hồi lâu rồi tiếp:
- Đám người
như thế, tôi soi kính lúp vào tận ruột ho.. Nhưng
dù sao tôi cũng không thể hiểu được, với
một cô gái mảnh khảnh yếu ớt như cô . (trang
232)
Khi mọi người
đi khỏi hai cậu cháu nói với nhau:
Tôi hỏi: - Cậu
gọi cháu lên đây có việc ǵ?
Cậu gật đầu
ờ ờ. Rồi bước tới gần tôi cậu
nói:
- Cậu sắp về,
chỉ hai tuần nữa thôị Cháu c̣n ở lại lâu,
cháu c̣n khả năng làm kinh tế. Cậu muốn nhờ
cháu giúp cậu.
Tôi im lặng cậu
tiếp:
- Khi đi mẹ mày
dặn: Khó khăn ǵ đă có con Hằng. Cháu giỏi
ngữ. Cậu chẳng biết tiếng tăm.
Tôi vẫn ngồi im,
cậu hắng giọng, lại tiếp:
- Hàng họ cậu
cũng đă chuẩn bị ḥm ḥm. Nhưng gay go nhất là
khoản cước.
Tôi lại muốn
nằm, tôi muốn kết thúc nhanh chóng. Tôi rút nắm
tiền dưới gối:
- Đây cậu cầm
lấỵ" (tr.234)
Trao tiền cho ông cậu
tham lam mà bủn xỉn xong Hằng "trùm kín chăn
để khỏi nh́n thấy cậu." Nàng nhớ
lại dĩ văng, lúc mà nàng nghe lời mẹ đến báo
tin cho cậu mợ biết mẹ nàng mới bị "xe
chẹt" cụt chân. Câu mà cậu nàng nói c̣n văng
vảng đâu đây:
- Thế c̣n may. Hôm qua
ở đường Triệu Việt Vương có
thằng bé 15 tuổi bị xe chẹt cưa cụt cả
hai chân. Không chịu chấp hành luật lệ giao thông.
Sống mà vô tổ chức, vô kỷ luật th́ thế nào
cũng chết, chẳng sớm th́ muộn." (trang 235)
Thật là giọng
lưỡi của những kẻ vô t́nh vô nghĩa. Nghe cháu
nói chị bị xe cán cụt một chân mà lại tỉnh
bơ, không có một lời chia buồn an ủi, c̣n lên
mặt đạo đức giả. Tổ chức
với chả kỷ luật. Anh ta há chẳng biết chính
v́ mẹ nàng bị cụt chân không c̣n làm ǵ ra tiền
nữa nên nàng mới phải bỏ học đi lao
động xuất khẩu t́m kế sinh nhai sao. Và chắc
anh ta đă quên việc người chị hiền lành
đă nhịn ăn, giấu con và chị chồng, đem
bán sợi giây chuyền cô Tâm cho Hằng để mua
thức ăn bồi
dưỡng cho gia đ́nh anh ta. Thử xem lại cảnh
gia đ́nh Chính vào cái thời ấy:
".Nói xong, nó (thằng
Tuấn, con của Chính, M.V.) cúi xuống chọc đũa
vào đĩa nhộng rang hành. Chợt thằng bé em kêu ré
lên. Nhanh như cắt, mẹ nó trở đầu
đũa gơ lên đầu con:
- Tuấn, làm cái ǵ thế
ha??
Hóa ra thằng bé gắp
nhầm thức ăn của đứa em, không biết
cố t́nh hay vô ư. Bị đánh, nó giơ tay xoa đầu,
không dám kêu. Mẹ tôi cúi mặt xuống. Đĩa
nhộng, lúc ấy tôi mới để ư, gạt làm ba
phần, mỗi phần chừng 15, 16 con. Ngoài đĩa
nhộng có một đĩa rau muống luộc, và một
chiếc chén nhỏ, loại chén dùng đựng
nước mắm hay múc chè, đựng thịt nạc
dăm. Chắc chắn đó là phần bồi
dưỡng cho cậu Chính." (tr 104-105)
Nhưng bữa cơm nhà
của người chị làm nghề buôn thúng bán bưng
nào có khá ǵ cho cam: Trên "chiếc mâm đồng sứt
vành" cũng chỉ có "bát dưa cải xanh, với
đĩa nhộng rang hành. Hoặc bát tương dầm
cà với con cá khô nướng. Mùa hè qua mùa đông, năm
này qua năm khác, thức ăn dường như không
đổi." (trang 37)
Trở lại cậu
chuyện giữa Hằng và anh chàng lăng tử:
"Tôi lắc
đầu:
- Dầu sao tôi cũng
không thể hiểu. Hôm qua sự việc đă diễn ra
đúng như anh dự đoán.
Chàng lăng tử đưa
tay kéo món tóc x̣a xuống mắt tôi lên, rồi nói:
- Người ta nên
hiểu hết mọi sự trên đời này cô bé ạ,
dù cho là sự thực đau buồn. Ông cậu của cô
giống như một loạt người tôi từng
gặp. Họ là những kẻ đă hao phí gần hết
đời sống của ḿnh vào việc vẽ nên một
thiên đường giữa trần ai, nhưng trí khôn
ngắn ngủi của họ lại không đủ
để hiểu thiên đường ấy ra sao và con
đường nào đưa tới nó.V́ thế khi
biết công việc ấy hăo huyền th́ họ hối
hả t́m kiếm những miếng ăn thực, nhặt
nhạnh những hạt ngũ cốc thực trên mặt
đất bùn lầỵ Họ làm việc ấy bất
kể bằng cách nào.Ho. là tấn thảm kịch cho chính
họ, là tấn thảm kịch cho chúng ta." (tr. 240)
Tranh căi xung quanh cuốn
"Tiểu Thuyết Vô Đề" cũng là Khải
Hoàn Môn.
Trong buổi ra mắt sách
tại Paris Dương Thu Hương đă nói về
cuốn tiểu thuyết này như sau:
"Tôi đă gặp
những chàng trai đă chết khi bị mất cả
bộ phận sinh dục cũng như tay chân.Và trong phút
cuối cùng th́ họ rất là thèm khát một cái hôn. Những
chàng trai mà tôi chứng kiến trong những binh trạm. Và
tất cả những khát vọng của con người,
những khát vọng mà không có phương tiện thực
hiện ấy nó đă trở nên như một món nợ
trong tôi. V́ thế tôi muốn nói rằng là sau bất cứ
Khải Hoàn Môn nào th́ cũng có rất nhiều máu. Và tôi
viết cuốn sách này như để trả nợ
những hồn ma nó cứ ám ảnh tôị Tôi đă
viết cuốn đó năm 1991 trong 2 tháng bởi v́ trong
khoảng thời gian tôi ước tính là họ bắt tôi,
cho nên tôi phải hoàn thành thật là nhanh. Và sau khi tôi hoàn
thành xong tôi gửi ngay sang Pháp cho bà mẹ đỡ
đầu của tôi để bà gửi cho ông Phan Huy
Đường, rồi tôi nghỉ mấy ngày là tôi bị
bắt."
Trong khi nhà văn của
chúng ta nằm tù trong trại Thanh Liệt gần Hà-nội
th́ đứa con tinh thần của bà cũng long đong
ở bên Pháp. Thoạt tiên người ta thấy quảng
cáo trên báo Quê Mẹ của ông Vơ Văn Ái yêu cầu
độc giả đón xem Khải Hoàn Môn của nhà
văn Dương Thu Hương. Nhưng rồi
người đọc lại thấy trên tờ Quê Mẹ
số 118 tháng 11 năm 1991 bỏ mất trang b́a sau là
nơi xuất hiện lời giới thiệu tác phẩm
trên với độc giả. Lúc đó là thời gian tranh
tụng về tác quyền giữa ông Vơ Văn Ái và ông Phan
Huy Đường qua nhà Xuất Bản "Des Femmes.".
Ông Đường là người đă được tác
giả ủy quyền cho in cuốn Những Thiên
Đường Mù và đă giao cho nhà Xuất Bản Des
Femmes thực hiện sau khi dịch ra tiếng Pháp là
"Les Paradis Aveugles". Riêng vế cuốn Khải Hoàn Môn
hay "Tiểu Thuyết Vô Đề" th́ ông Phan Huy
Đường lẫn ông Vơ Văn Ái chẳng ai có
được giấy ủy quyền trực tiếp
của nhà văn. Nhưng ông Vơ Văn Ái có được
nguyên văn bản viết tay của tác giả, c̣n ông Phan
Huy Đường th́ theo ông Vơ Văn Ái chỉ có bản
đánh máy, so với nguyên bản viết tay có chỗ thêm
bớt thay đổi, sai sót khá nhiềụ Nhưng v́ ông
Đường đă được tác giả ủy quyền
in cuốn trước, nên có lư nghĩ rằng quyền in
cuốn này cũng thuộc về ḿnh.
V́ nắm được
bản gốc, nên ông Vơ Văn Ái nghĩ ăn chắc.
Hơn nữa ông c̣n có giấy ủy quyền của
người bác (có chỗ gọi là chú có lúc gọi là
bố nuôi) của tác giả tên Ngô Văn Quỳnh ở
Sannois, ngoại ô Paris, và ông bác này th́ đă được
tác giả báo tin là đă gửi giấy ủy quyền cho
ông. (Giấy ủy quyền này đă lọt vào tay công an. V́
vậy không ai có giấy ủy quyền của tác giả).
Ngoài ra, tuy ông Ái có giấy ủy quyền của hai ông
Nguyễn Gia Bảo và Nguyễn Xuân Nam ở Mỹ do hai ông
này có giấy ủy quyền của tác giả. Chính tác
giả sau này có xác nhận đúng là có ủy quyền cho
hai ông v́ là bạn của bố nuôi, và do bố nuôi yêu
cầu bà ủy quyền cho hai ông để họ có cơ
sở đ̣i những nhà xuất bản ở Mỹ
trả tiền trước tác.
Nhưng cuối cùng nhà
xuất bản "Des Femmes" đă thắng. Nói tóm
tắt th́ như vậy chứ thực ra sự việc
lôi thôi rắc rối hơn nhiềụ
Qua những bài báo
đăng trên Quê Mẹ của ông Vơ Văn Ái và tờ
Diễn Đàn của Nguyễn Ngọc Giao, và những
lời phát biểu của các ông Từ Mẫn Vơ Thắng
Tiết, Phan Huy Đường, Nguyễn Ngọc Giao, Vơ
Văn Ái và Bà Thụy Khuê khi trả lời cuộc
phỏng vấn của cố kư giả Chử Bá Anh vào
cuối tháng 11 năm 1991,
th́ sự việc có thể diễn tiến như sau:
Một Việt kiều
đă được tác giả nhờ mang bản thảo
viết tay của cuốn sách từ Việt Nam sang Pháp trao
cho ông bác của DTH để lo việc xuất bản, nói
là đă gửi giấy ủy quyền theo một
đường khác. Nhưng chẳng may giấy ủy
quyền này lọt vào tay công an. Khi nhận được
bản thảo th́ cũng là lúc được tin nhà văn
bị bắt. Ông bác v́ có quen ông Vơ Văn Ái, lại cũng
biết ông Ái là chủ tịch tổ chức tranh
đấu cho nhân quyền Việt Nam nên ngỏ ư với
ông Ái nên in gấp cuốn sách để thế giới
biết mà can thiệp cho Hà-nội đừng làm hại cô
cháu. V́ vậy mà ông Ái có được bản gốc và xúc
tiến việc xuất bản. Nhưng v́ ông bác cũng
biết trước kia ông Phan Huy Đường đă
dịch cuốn Những Thiên Đường Mù ra Pháp
văn, nên ông đánh máy sao lại gủi bản sao cho ông
Phan Huy
Đường
để dịch và lo phần Pháp văn. Khi Ông
Đường thấy Quê Mẹ quảng cáo th́ bảo nhà
xuất bản Des Femmes đứng ra kiện, theo thủ
tục khẩn cấp. Nhưng luật sư của ông Ái
trưng được bản thảo gốc, nên ṭa tuyên
bố vô thẩm quyền và chuyển lên ṭa trên quyết
định. Trước khi ṭa trên xử th́ vừa kịp
lúc nhà văn được tha và cử luật sư tŕnh
lên ṭa giấy của tác giả hủy bỏ tất ả
các giấy ủy quyền khác, trừ giấy của ông
Phan Huy ường. Như vậy là ông Đường và
nhà xuất bản Des emmes thắng kiện ở Pháp.
Nhưng trước khi ngă ngũ như ậy th́ cuốn
sách đă được bà Thụy Khuê đề tựa và
ủi sang Mỹ cho ông Vơ Thắng Tiết, tục gọi
thày Từ Mẫn, iám đốc nhà xuất bản Văn
Nghệ ở Quận Cam, California n hành. Ông Tiết cho
biết ông thấy có người nhờ in, ại nghĩ
sách chắc bán chạy nên cứ in rồi sẽ trả tác
uyền cho người nhờ in để người
này, bà Thụy Khuê, ửi cho tác giả. Ông nói ông đă in
1500 cuốn và chỉ nửa ăm đă bán gần hết
(chỉ c̣n lại 200 cuốn). Ông cũng ói ông đang thu
tiền và sẽ trả bản quyền là 1000 đô la.
Khi c̣n ở trong tù không
biết bằng cách nào tác giả có được cuốn
sách in ở Mỹ và bà đă không bằng ḷng vi lời
đề tựa của bà Thụy Khuê mà bà tưởng
lầm à một người đàn ông. V́ thế có bản
tự bạch dài gần 10 trang đánh máy, đề ngày 12
tháng 8 năm 1991 về cuốn Tiểu Thuyết Vô
Đề.
Bài tự bạch này
đă châm ng̣i cho một loạt phản ứng dữ
dội. Trong số những người lên tiếng
trả lời những luận điệu có vẻ xúc phạm
những người quốc gia nói chung của Dương
Thu Hương, người ta thấy trước tiên có bà
Thụy Khuê - dĩ nhiên, v́ bản tự bạch nhắm
vào cá nhân bà tước tiên - ông Nguyễn Ngọc Ngạn,
lúc ấy là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại, các nhà văn Bùi Bích Hà và Nhật Tiến.
Thụy Khuê hơi lấy
làm buồn v́ DTH đă phủ nhận thiện chí của bà
muốn làm lợi cho một nhà văn đối kháng. Có
chỗ bà đă dùng tới hai chữ "xuyên tạc"
để nói về thái độ của DTH. Câu sau đây
có thể tóm tắt nhận định của Thụy Khuê
về bài tự bạch:
"Ngôn ngữ văn
học là một con dao hai lưỡi. Nếu "Tiểu
Thuyết Vô Đề" - qua sự kiểm nghiệm
lại dĩ văng - giải tỏa được một
số vấn đề trong sự chia rẽ sâu xa của
dân tộc và có một giá trị nhân bản cao, th́ bài
"tự bạch" về "Tiểu Thuyết Vô
Đề" với những tố cáo "tội ác"
đối phương, giới hạn mọi giải
tỏa chia rẽ và triệt tiêu giá trị nhân bản."
Nhà văn Nguyễn
Ngọc Ngạn th́ mở đầu bài báo 15 cột
của ông bằng nhận định của ông Nguyễn
Hưng Quốc mà ông cho là một nhận xét khá rơ nét về
các tác phẩm phản kháng trong nước nói chung như
sau:
"Văn chương
đổi mới ở trong nước và văn
chương đấu tranh ở hải ngoại có
những điểm giống nhau và những điểm
khác nhau. Giống nhau ở chỗ cả hai đều phê
phán những khuyết điểm của chế
độ. Nhưng khác nhau ở động cơ phê phán và
nhất là ở biện pháp giải quyết vấn
đề. Người cầm bút hải ngoại, nói chung,
muốn thay một cái áo mới. Trong khi người
cầm bút ở quê nhà chỉ
muốn vá lại cái áo
rách nát. Nếu chỉ nh́n thấy những điểm
giống nhau mà bỏ qua đi những điểm khác
biệt, người ta sẽ xếp hai ḍng văn chương
đó vào một loại, từ đó dẫn đến
chủ trương hợp lưu mà gần đây chúng ta
thấy xuất hiện tại hải ngoại."
Chủ tịch văn bút
Việt Nam hải ngoại đă trích lại 16 đoạn
văn trong bài tự bạch để chứng minh
rằng tác giả đă không tôn trọng "chân lư và công
bằng" như bà ta tự hào, cũng chỉ v́:
("Nhưng tiếc thay!) Đó lại là thứ chân lư nh́n
từ một góc cạnh chủ quan, cho nên những
giọt nước mắt bà nhỏ ra, v́ xót thương
dân tộc, đọc kỹ lại, th́ đôi khi chỉ
thấy là những điệp khúc quen thuộc,
đồng
điệu với
những lời than thở của các cấp lănh
đạo hiện nay trong nước."
Ngày 8 tháng 3 năm 1992 nhà
văn Bùi Bích Hà cho công bố bức thư ngỏ gửi
Dương Thu Hương với những lời lẽ
tâm t́nh, ôn ḥa, cởi mở. Bà gọi DTH là chi.. Bà không
giấu t́nh cảm tốt đẹp của ḿnh dành cho
một nhà văn nữ và một tác giả có tác phẩm
Những Thiên Đường Mù được nhiều
người đọc; chính bà chỉ có 5 giờ mỗi
ngày để ngủ mà cũng cố dành ra 1 giờ
để đọc. Nhất là v́ Dương Thu
Hương đă "sống hầu hết thanh xuân
đời ḿnh trong chiến hào, địa đạo hay
núi sâu rừng cao, cận kề nỗi chết, vẫn có
điều ǵ làm cho nỗi ḷng người đàn bà
được êm đềm sinh con đẻ cái trong tôi
cứ vừa đau đớn xót xa, vừa mến yêu trân
trọng." V́ vậy mà có bức thư này mặc dù bà
không biết liệu có tránh khỏi hồi âm chua chát như
Thụy Khuê không.
Sau khi nhắc lại
mồ chôn tập thể ở Huế hồi Tết
Mậu Thân và vụ trẻ con bị V.C.tàn sát ở bến
Bặch Đằng, Bùi Bích Hà hỏi DTH: "Sao chị
không đủ can đảm, sự lương thiện và
công bằng để nh́n nhận rằng câu chuyện
"chống Mỹ cứu nước theo truyền
thống của người Việt" chỉ là chiêu bài
tháu cáy nhằm du nhập cái chủ thuyết độc
hại, vô đạo vào đất nước gấm hoa
của chúng ta và làm ung thối nó?"
Nhắc lại lời
của Dương Thu Hương cho ḿnh là kẻ
"đi giữa hai làn đạn" Bùi Bích Hà kết
thúc bài báo 9 cột như sau: "Đi giữa hai làn đạn
là một thách đố dũng cảm, nhưng giữ
thăng bằng trên đường giây lại là xảo
thuật của người làm xiếc mua vui để
đổi lấy cơm áo và những tràng pháo tay phù
phiếm."
Riêng nhà văn Nhật
Tiến thuộc nhóm Hợp Lưu của hoạ sĩ
Nguyễn Khánh Tường th́ cố dung ḥa hai lập
trường của DTH và Thụy Khuê, nói là cả hai đều
đang "đi giữa hai làn đạn." Cuối cùng
người ta thấy trên báo Diễn Đàn, hậu thân
của tờ Đoàn Kết ở Paris, do ông Nguyễn
Ngọc Giao làm tổng biên tập có bức thư của
DTH xin lỗi Thụy Khuê.
Trong số những nhà
văn khác lên tiếng về bài Tự Bạch của DTH
tôi xin dài ḍng hơn một chút về bà Nguyễn Việt
Nữ, tác giả "Dương Thu Hương Và Con Hùm
Ngủ" (hay "Yêu Và Bị Yêu"). Nguyễn Việt
Nữ là bút hiệu của nữ luật sư Nguyễn
Thị Kim Anh, chủ biên bán nguyệt san Đại Dân
Tộc. Lấy bút hiệu đó có lẽ bà muốn tự
nhắc nhở ḿnh (và độc giả người
Việt nữa, phải không tác giả) luôn luôn hăy nhớ
ḿnh là con dân Việt Nam. Mở đầu cuốn sách, bà
đă nói với Mẹ Việt Nam thay v́ nói với
độc giả. Cuốn sách hơn bốn trăm trang
của bà có mục đích đối thoại với hai
người phụ nữ là DTH và Phùng Thị Lệ Lư (Le
Ly Hayslip) về cuộc chiến tranh Việt Nam mà bà cho
rằng người khởi đầu là phía cộng
sản; miền Nam chỉ tự vệ; và sau này (1965) quân
tác chiến Mỹ rầm rộ vào cũng v́ trước
đó cộng quân đă "xẻ dọc Trường
Sơn đem quân toan chiếm miền Nam."
Bà đă dựa vào bài
tự bạch của DTH gửi Thụy Khuê, và cuốn
"When Heaven and Earth changed places" (Khi Trời Đất
Đổi Ngôi) được đạo diễn Oliver
Stone đem lên màn ảnh lớn với tựa đề "Heaven
and Earth" (Trời và Đất). Lối viết của
bà đúng là văn phong của một người đă
từng hành nghề luật sư trước 1975. Bà đă
ví DTH với Trần Duy tác giả bài "Người
Khổng Lồ (không tim)". Bà gọi cả hai là
người "khổng lồ có tim", nhưng trách
cả hai người đi cầu cứu ngọc hoàng Các
Mác thành ra loài người dưới dương gian
cứ không sao hết được nước mắt.
Trong khuôn khổ
chương này tôi không dám đi sâu vào tác phẩm của
Nguyễn Việt Nữ, mà chỉ xin trưng dẫn
một vài đoạn vắn nhằm giới thiệu
với bạn đọc. Tác phẩm này xuất bản
năm 1993 và đă tái bản năm 1996. Tác giả đă
đích thân đem nó sang thủ đô của Liên Xô cũ
để giới thiệu với kiều bào ở đó
phần đông là những người đă từng
sống trong vùng cộng sản, làm việc cho cộng
sản. Sách của bà đă được giới thiệu
và trích đọc trên đài Tiếng Nói Tự Do, hậu
thân của Đài Irina, phát thanh từ Mặc Tư Khoa.
Để thâu tóm những
lời phê b́nh của bà đối với bài tự
bạch của DTH, tôi chỉ xin trưng dẫn 3
đoạn sau đây:
"Vấn đề
"không thường t́nh" cần bàn ở đây là
"những trí thức lớn đó (4) đă t́m
đến với chủ nghĩa cộng sản, rồi đă
giă biệt chủ nghĩa cộng sản."
C̣n DTH th́ khẳng
định là: "tôi không từ bỏ đội ngũ
những người cộng sản để chạy sang
hàng ngũ những người chống cộng".
"Lời tuyên bố khí
khái này bộc lộ tinh thần kẻ sĩ của họ
Dương, đồng thời nó cũng chứng tỏ
cái ṿng luẩn quẩn, lúng túng chung của người
cộng sản." (5)
"Chính tôi trước
đây cũng rất ghét những lời đao to búa
lớn của những người chống cộng
"cực đoan", nhưng nay tôi thấy với
những người nhẹ dạ, khờ khạo về
chính trị như tôi, (6) cần phải có những
tiếng chuông cảnh tỉnh vang dội th́ mới làm tôi
hết mê muội được.
"Đúng vậy, ngày
nay mọi sự đă hiển hiện. Bản tự
bạch của Dương Thu Hương đă
"bạch" rơ rằng nữ sĩ này, một trong
những kiện tướng của "nhóm văn
nghệ phản kháng trong nước" chỉ trích
đảng để "duy tŕ sự thống trị
của đảng", trong khi kinh nghiệm xương máu
đă cho Nguyễn Chí Thiện quả quyết rằng:
Đảng tắt
thở th́ đời mới thở.
Đảng c̣n kia, bát
phở hóa ra mơ." (7)
"Tôi viết bài này
với ḷng tin rằng Bùi Tín, Dương Thu Hương và
những người cộng sản lương thiện
khác là những Người Khổng Lồ Có Tim, đều
có thiện chí t́m một giải pháp cho dân tộc, nhưng
v́ "trọn đời bị trói buộc bởi sợi
giây ư thức hệ trái chiều", nên những
người này cứ loay hoay như kiến ḅ miệng
chén." (8)
Trước khi kết
thúc chương này, chúng tôi xin lưu ư độc giả
đến một vài chi tiết về tác giả
Dương Thu Hương và hoàn cảnh xuất xứ
của bài tự bạch đă nói đến ở
những trang trên. Cha bà là thợ may, đi theo kháng chiến
khi bà mới lên hai. Bà hăng hái lên đường
vượt trường sơn "chống Mỹ,
cứu nước theo truyền thống dân tộc" lúc
bà 18 tuổi nghĩa là vào cuối năm 1964 hay đầu
năm 1965. Cuộc cải cách ruộng đất
đẫm máu ở miền Bắc xảy ra khi bà mới
tám, chín tuổi. Trong cuốn Những Thiên Đường
Mù bà đă miêu tả sự tàn bạo của những
cuộc đấu tố. Lập trường của bà
trong cuốn sách này là lập trường chống CCRĐ
do đảng chủ trương không thể nghi ngờ.
Câu chuyện giữa bà
với "Việt kiều" bác sĩ Bùi Duy Tâm mang
đầy bí ẩn. Bà th́ quả quyết đi chơi
với ông chỉ để t́m đáp số cho một bài
toán nào đó. Ông th́ thổ lộ hai người chỉ có
ôm nhau chứ không làm ǵ hơn, và về đến Mỹ
thấy Hương Mỹ (9) lại nhớ đến
Hương Việt Nam. Nhưng tướng Quang Pḥng, nguyên
cục phó cục phản gián cộng sản th́ nói với
giới văn nghệ sĩ là có được cuốn
video quay cảnh hai ngựi "làm t́nh trên cạn,
dưới nước, và trong khách sạn". Bà DTH
hiện sống độc thân v́ đă ly dị chồng.
Có người bảo bà có dan díu với một vài nhà
văn cộng sản nổi tiếng. Chính bà bảo ông
Nguyễn Văn Linh gọi bà là "con đĩ chống
đảng". Trong thư viết cho bác sĩ Tâm bà
lại nói bà mắc chứng "lănh cảm", bị
bệnh "táo bón ái t́nh". Bà cũng tố bác sĩ Tâm
là "agent double" (gián
điệp nhị trùng), chứ không phải chỉ là
chỉ điểm của Dương Thông (Cục phó
cục phản gián, một nhân vật quyền uy và mánh
lới,) Bác sĩ Bùi Duy Tâm lại có dính líu với cựu
đại tá cộng sản Bùi Tín mà có người nói
đă từng có lúc được nói đến như là
thủ tướng tương lai của một Việt
Nam hậu cộng sản.
Một điểm
nữa rất đáng chú ư là bài tự bạch đă
được viết ở trong tù. Dù bà có sĩ khí
đến đâu, ai dám chắc bà đă không bị áp
lực hay mua chuộc. Bà tố cáo tướng Quang Pḥng
đă vu khống bà làm t́nh với bác sĩ Bùi Duy Tâm và c̣n
bảo bà là con rơi của ông Vơ Văn Ái. Khi ra khỏi tù
bà đă mắng ông Vơ Văn Ái là kẻ sống ở
thủ đô ánh sáng mà xử sự chẳng quang minh chính
đại chút nào.
Các nhà văn nhà thơ
thường được người đời cho là
hay lăng mạn, đa t́nh, mặc dầu chỉ đúng cho
một số ít. Có lẽ Dương Thu Hương đă
bị vướng mắc vào trong một vụ gián
điệp chính trị nào đó v́ người ta tưởng
bà thuộc loại nhà văn đa t́nh và muốn lợi
dụng bà cho những mục tiêu gián điệp, chính tri..
Nếu đó là sự thực, th́ tất cả những
lời phê b́nh, chỉ trích bà căn cứ duy nhất vào bài
tự bạch không có giá trị thực tiễn. Các nhà
văn được nêu danh tánh ở trên, theo thiển
kiến, chắc cũng hiểu như vậỵ Nhưng
tất cả đều muốn nhân bài tự bạch này
nói không phải riêng với Dương Thu Hương cho
bằng với những người cộng sản nói
chung.
Chú Thích:
(1) Kư giả Đoàn
Văn trong mục "sổ tay văn học" của
tờ Phụ Nữ Diễn Đàn, số 79 đă
thuật lại lời bà Bích Huyền mới từ Việt
Nam qua Mỹ năm 1990 cho biết ở Việt Nam nhà
văn nữ này bắt bồ với nhà văn Đỗ
Chu, cả hai đều đă có gia đ́nh con cái riêng.
Cũng có tin đồn ở Saigon rằng bài tham luận
nảy lửa mà DTH đọc tại đại hội
nhà văn đầu năm 1990 là do Nguyễn Đ́nh Thi gà
cho
v́ hai người cũng
có tư t́nh với nhaụ Có người c̣n nói một nhân
vật trong truyện của DTH chính là Nguyễn Đ́nh Thi.
(2) Cuốn sách c̣n có cái tên
khác là "Khải Hoàn Môn", được ông Phan Huy
Đường dịch ra Pháp văn là " Roman sans
titre". Bản Việt ngữ đă được nhà xb
Văn Nghệ xuất bản năm 1991, tại quận
Cam. Việc xuất bản cuốn sách đă gặp
nhiều trở ngại rắc rối do cái gọi là
vụ án văn nghệ, chính trị gây nên, giữa một
bên là ông Vơ Văn Ái, chủ nghiệm Quê Mẹ và một bên
là ông Phan Huy Đường, cả hai đều nói ḿnh
được tác giả chính thức ủy quyền.
(2bis) Duyên Anh có 4 cuốn
được dịch ra ngoại ngữ: "Một người
Nga ở Saigon" (Un Russe à Saigon), "Đồi Fanta"
(La Colline Fanta), "Người tù binh Mỹ" (Un Americain
au Vietnam", và "Sỏi Đá Ngậm Ngùi" (La
complainte des galets), đều do sư huynh Trần Văn
Nghiêm dịch. Cuốn Đồi Fanta c̣n được
dịch ra tiếng Ư, Tây Ban Nha, Anh và Đức.
(3) Các chương trên cho
thấy Hoàng Văn Chí, Vũ Thư Hiên đều đă
dẫn chứng cụ thể về cái tài đóng kịch
của ông Hồ. Ông Lư Phục Huy, bác sĩ riêng của Mao
Trạch Đông cũng nói về họ Mao tương
tự nơi trang 114 tác phẩm ông viết về cuộc
đời bí mật của họ Maọ
(4) André Gide và Arthur Koestler.
(5) Dương Thu
Hương và Con Hùm Ngủ, trang 210.
(6) Nguyễn Việt
Nữ kể rằng khi c̣n trẻ bà đă có lúc toan đi
theo Việt Minh v́ lầm tưởng ông Ngô Đ́nh Diệm
chủ trương chia cắt tổ quốc làm hai. Và khi
hết chiến tranh bà cũng hy vọng t́nh h́nh sẽ khá
hơn, nên đă tính ở lại.
(7) DTH và CHN trang 211.
(8) Ibid, trang 212.
(9) Khuê danh của bà bác
sĩ cũng là Hương (Đỗ Thị Hương).
(c̣n tiếp)