Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

 

Tại sao ta biết những điều ta biết, và việc thực thi dân chủ

 

Phan Tùng Chính, tạp chí Thông Luận, Paris

Mục đích của bài này trước hết t́m xem tại sao chúng ta biết những điều chúng ta biết và sau đó t́m xem ảnh hưởng của câu trả lời câu hỏi này với việc thực thi dân chủ.

     Phần đầu của bài bàn về câu hỏi tại sao ta biết những điều ta biết. Phần này sẽ bàn đến những lí do để có thể biết một điều nào đó - điều biết này có thể do tự học hỏi hay do được giáo dục hay do môi trường xă hội - thật hay không thật, và về những lí do làm cho việc biết của chúng ta bị ảnh hưởng, trở thành không chính xác. Phần này dựa vào ư của Richard Dawkins.

     Phần tiếp theo bàn về ảnh hưởng của câu trả lời câu hỏi trên với việc thực thi dân chủ. Phần này bàn về ảnh hưởng của câu trả lời đó trong việc thảo luận, một phương cách để thực thi dân chủ, và đối với việc loại bỏ những thành kiến nguy hại làm thương tổn đến niềm tin, một điều kiện cần cho việc thảo luận.

 1. Tại sao ta biết những điều ta biết

      Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi tại sao ta lại biết những điều ta đang biết ? Thí dụ tại sao chúng ta biết những v́ tinh tú trông chỉ nhỏ như những đầu kim đan trên bầu trời, thực sự lại là những khối lửa tṛn khổng lồ y như mặt trời và ở rất xa chúng ta ? Và làm thế nào chúng ta lại biết trái đất là một quả cầu tṛn nhỏ hơn và quay quanh một trong những vị tinh tú ấy, đó là mặt trời ?

     Câu trả lời cho những câu hỏi ấy là : v́ đă được chứng minh như vậy, v́ có bằng chứng là như vậy. Có khi bằng chứng là việc chúng ta nh́n thấy (hoặc nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy, và vân vân) điều đó thực sự như vậy. Các phi hành gia đă đi ra ngoài trái đất khá xa và nh́n thấy tận mắt trái đất tṛn. Và đôi khi chúng ta cũng phải dùng cái ǵ đó để trợ giúp cho mắt của chúng ta một chút. Sao hôm nh́n bằng mắt thường trông giống một v́ sao sáng lấp lánh, nhưng nh́n với viễn vọng kính th́ điểm sáng ấy là một trái banh tuyệt đẹp. Đó là hành tinh mà ta gọi là Venus. Nếu chúng ta biết được một điều ǵ do chúng ta trực tiếp nh́n (hoặc nghe, sờ, và vân vân) th́ chúng ta nói là quan sát thấy.

     Thường thường không phải chỉ một quan sát là có ngay được một bằng chứng, mà phải nhiều quan sát mới có được một bằng chứng. Nếu có một vụ giết người th́ thường không có ai (trừ sát nhân và nạn nhân) quan sát thấy sự kiện xảy ra như thế nào. Cảnh sát có thể sẽ thực hiện nhiều loại quan sát khác nhau để t́m ra thủ phạm. Nếu dấu tay của một người nào đó giống dấu tay trên cán dao th́ đó là một bằng chứng ông ta đă dùng con dao này. Đó chưa phải là bằng chứng quyết định ông ta đă sát nhân. Nhưng kết hợp với các bằng chứng khác th́ có lẽ đúng là ông ta đă sát nhân. Một thám tử có thể nghĩ ra một số quan sát và thấy rằng những quan sát này ăn khớp và phù hợp hoàn toàn với nhau như người này và người kia đă thực hiện việc sát nhân.

     Các nhà khoa học - muốn nói là các chuyên viên t́m sự thật trên thế giới xung quanh chúng ta và trong vũ trụ - thường làm việc như các nhà thám tử. Họ cố gắng đoán xem cái này hợp với cái kia như thế nào (họ gọi là một giả định hay một giả thuyết). Và họ tự nói : nếu cái này đúng th́ chúng ta phải nh́n thấy như thế này như thế kia. Đó là điều kiện đầu tiên. Thí dụ chúng ta giả sử rằng trái đất tṛn, chúng ta có thể tiên đoán là một người đi theo cùng một hướng nhất định trên trái đất sẽ đi đến vị trí khởi hành ban đầu. Nếu một bác sĩ nói rằng một người nào đó bị lên sởi th́ không phải ông ta chỉ cần coi người đó một lần là biết người đó bị lên sởi. Ông ta coi người đó và đặt giả thuyết : có lẽ người này bị lên sởi. Và ông ta tự nghĩ : nếu người này lên sởi th́ phải nh́n thấy cái này cái kia và ông ta bắt đầu quan sát kĩ lưỡng những giả định ấy : lấy mắt quan sát xem có các vết đỏ ở trên da không, lấy tay sờ xem trán có nóng sốt không và lấy tai nghe xem phổi có thở kḥ khè như những người bị lên sởi không. Sau đó ông ta mới quyết định và nói : "Định bệnh của tôi là đứa bé này bị lên sởi". Đôi khi bác sĩ c̣n cần những khám nghiệm khác, thí dụ thử máu hay chụp h́nh quang tuyến X. Nhờ đó ông ta có thêm nhiều quan sát hơn bên cạnh những quan sát ông đă thấy bằng mắt, tay và tai.

     Cách mà các nhà khoa học sử dụng các bằng chứng để biết về thế giới c̣n thông minh hơn và phức tạp hơn việc tôi có thể giải thích ngắn gọn trong bài này. Nhưng bây giờ tôi không muốn nói thêm về các bằng chứng, luôn luôn là những lí do xác đáng để chúng ta có thể tin một cái ǵ đó, mà tôi muốn cảnh giác về ba lí do sai lầm đă làm cho chúng ta tin. Đó là truyền thống, uy quyền và mặc khải (revelation).

Tin v́ lư do truyền thống

     Tôi bắt đầu với lí do truyền thống. Một vài tháng trước đây tôi đă coi trên TiVi một cuộc thảo luận của khoảng 50 em. Các em này được mời v́ các em được giáo dục theo các tôn giáo khác nhau. Một số em được giáo dục theo Thiên Chúa giáo, các em khác theo Do Thái giáo, Hồi giáo hoặc Ấn Độ giáo. Người đàn ông điều khiển chương tŕnh cầm ống nói đi ngang qua tất cả các em và hỏi các em về những điều các em tin. Các câu trả lời của các em cho thấy đúng như điều tôi muốn ám chỉ về truyền thống. Các em lập lại theo cùng một điệu những ǵ bố mẹ và ông bà đă nói là thật dù những cái ấy không dựa vào bằng chứng nào. Các em nói : "Chúng tôi, tín đồ Ấn Độ giáo, tin điều này và điều kia" hay "Chúng tôi, những người Hồi giáo, tin như thế này thế nọ" và "Chúng tôi, những người Ki-tô giáo, tin điều ấy không giống như vậy".

     Các em tin tất cả khác nhau, như vậy các em không thể đều có lí cả. Người điều khiển chương tŕnh không tỏ ra kinh ngạc chút nào và hoàn toàn không thấy khó khăn để cho các em trao đổi với nhau về những khác biệt ấy. Nhưng với tôi th́ khác. Tôi muốn biết về nguồn gốc của những tin tưởng ấy. Và đó là truyền thống. Truyền thống bao gồm việc cha mẹ trao truyền những điều ḿnh tin tưởng cho con cái. Rồi đến lần chúng, chúng lại trao truyền cho con cái chúng và vân vân. Hoặc qua những sách vở mà người ta đă lưu truyền cho nhau hàng nhiều thế kỉ. Những tin tưởng truyền thống thường không dựa vào cơ sở nào. Có lẽ chúng được người nào đó nghĩ ra vào một thời điểm nào đó như các truyện về Thor và Zeus. Nhưng sau khi chúng đă trải qua một vài thế kỉ th́ chúng bắt đầu trở thành đặc biệt chỉ v́ chúng cổ xưa. Con người thường tin nhiều điều với lí do đơn giản là người ta đă tin những điều đó nhiều thế kỉ rồi. Đó là truyền thống.

     Một vấn đề liên quan đến truyền thống là một câu truyện vào lúc nghĩ ra, có thể thật hoặc không thật, sẽ trở thành không c̣n khác biệt nữa nếu nó càng có gốc gác xa xưa. Mà trong thực tế một câu truyện không thật sẽ không thể trở thành thật v́ nó được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

     Ở Âu châu nhiều người cho ḿnh là tín đồ Thiên Chúa giáo. Nhưng trong khối Thiên Chúa giáo này lại có nhiều phái. Chúng ta có Thiên Chúa giáo La Mă, Tin Lành Calvin, Tin Lành Luther, Anh giáo, Chính Thống giáo Nga và c̣n nhiều trào lưu khác nữa. Và trong những trào lưu này người ta cũng tin hơi khác nhau. Do Thái giáo và Hồi giáo lại c̣n khác nữa và trong các tôn giáo này cũng có những khuynh hướng khác nhau. Những điều người ta tin không khác nhau bao nhiêu nhưng người ta đánh nhau sống chết v́ những khác biệt nhỏ nhoi này. Có lẽ người ta nghĩ người ta có những lí do chính đáng - bằng chứng - để tin những điều ấy. Nhưng trong thực tế những niềm tin của họ khác biệt nhau chỉ v́ đặt cơ sở trên những truyền thống khác biệt.

     Bây giờ chúng ta thử xem một điểm của truyền thống ấy. Những người Công giáo La Mă tin là Đức Bà Maria, mẹ của Chúa Giê-su, thật đặc biệt đến nỗi không bị chết mà lại lên trời cả hồn lẫn xác. Các truyền thống Thiên Chúa giáo khác không đồng ư điểm này. Họ nói Đức Bà Maria đă chết như tất cả những người khác. Các tôn giáo khác không quan tâm đến Bà và không gọi Bà là "Nữ Vương Trên Trời" như những người Công giáo. Truyền thống nói rằng Đức Bà Maria cả hồn và xác lên trời có chưa lâu lắm. Kinh thánh không nói ǵ về thời điểm hoặc cách thức Đức Bà đă chết. Người đàn bà khốn khó ấy rất ít được nhắc đến trong kinh thánh. Niềm tin xác của Đức Bà lên trời mới chỉ bắt đầu hiện hữu vào khoảng sáu thế kỉ sau thời của Chúa Giê-su. Đầu tiên đó chỉ là một truyện tưởng tượng thông thường cũng giống như truyện tưởng tượng về công chúa Bạch Tuyết. Nhưng theo ḍng thời gian của nhiều thế kỉ th́ câu truyện này trở thành truyền thống và người ta bắt đầu tin là thật v́ nó đă được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống càng lâu đời th́ càng nhiều người tin truyền thống ấy là thật. Cuối cùng truyện ấy mới chỉ được người Công giáo công nhận chính thức thành một tín điều gần đây thôi, vào năm 1950. Nhưng câu truyện vào năm 1950 cũng không thật hơn câu truyện lúc mới được nghĩ ra, 6 thế kỉ sau ngày Đức Bà Maria mất.

     Vào cuối bài này tôi sẽ trở lại khái niệm truyền thống và bàn dưới khía cạnh khác. Nhưng trước hết tôi c̣n phải bàn về hai lí do sai lầm khác đă khiến chúng ta tin. Đó là uy quyền và mặc khải.

Tin v́ lư do uy quyền

     Tin dựa vào uy quyền có nghĩa là tin một điều ǵ đó v́ một nhân vật quan trọng đă nói chúng ta phải tin. Trong giáo hội Công giáo La Mă, giáo hoàng là người quan trọng nhất. Người ta tin ngài có lí chỉ bởi v́ ngài là giáo hoàng. Trong một chi nhánh của Hồi giáo th́ những người đàn ông già có bộ râu rậm rạp được gọi là ayatollah là những người quan trọng. Nhiều tín đồ Hồi giáo ở trên toàn thế giới sẵn sàng giết người chỉ v́ các vị ayatollah ở một  nước xa xôi nào đó đă nói họ phải làm điều đó.

     Khi tôi nói những người Công giáo La Mă chỉ mới được nghe vào năm 1950 là họ phải tin xác của Đức Bà Maria đă lên trời, tôi muốn nói giáo hoàng đă nói vào năm 1950 là người ta phải tin điều ấy. Chấm hết. Giáo hoàng đă nói rằng điều đó đúng tức là điều đó phải đúng. Có lẽ trong cuộc đời của giáo hoàng, ngài đă nói một số điều đúng mà cũng có một số điều không đúng. Không có những lí do xác đáng nào để biện hộ cho việc tại sao chúng ta phải tin tất cả những ǵ giáo hoàng đă nói chỉ v́ ngài là giáo hoàng đang khi chúng ta không cần phải tin những phát biểu của tất cả những người khác. Giáo hoàng hiện tại đă ra chỉ thị cho các tín hữu không được hạn chế sinh đẻ theo các phương pháp nhân tạo. Nhưng nếu mọi người đều tuân phục ngài một cách nô lệ như ngài muốn th́ sẽ xảy ra không biết bao nhiêu nạn đói kém khủng khiếp, dịch hạch và chiến tranh là hậu quả của nạn nhân măn.

     Dĩ nhiên trong khoa học chúng ta thường không thể chính mắt nh́n thấy điều ǵ đó đúng và chúng ta phải tin vào lời một người nào đó. Thí dụ tôi chưa bao giờ chính mắt nh́n thấy bằng chứng tốc độ vận hành của ánh sáng là 300.000 cây số một giây, nhưng tôi tin điều đó đúng v́ tôi đă đọc thấy trong sách. Như vậy, h́nh như tôi đă chấp nhận một điều ǵ đó dựa vào uy quyền của người đă viết quyển sách ấy. Nhưng trên thực tế tôi có nhiều cơ sở để chấp nhận điều đó đúng v́ người viết sách đă nh́n thấy bằng chứng và v́ mọi người muốn nh́n bằng chứng này đều được tự do để tham khảo kho tàng bằng chứng ấy. Điều đó làm cho việc tin này thành đáng tin. Nhưng ngay cả các linh mục cũng không cho thấy là có một bằng chứng nào đó để xác quyết chuyện Đức Bà Maria đă lên trời cả hồn lẫn xác.

Tin v́ lư do mặc khải

     Lí do sai lầm thứ ba để chúng ta tin một điều ǵ, đó là mặc khải. Nếu chúng ta hỏi giáo hoàng lúc ấy vào năm 1950 là làm thế nào ngài biết Đức Bà lên trời cả xác th́ có lẽ ngài sẽ nói là ngài đă được mặc khải điều đó. Là ngài đă ở trong pḥng một ḿnh và cầu nguyện để xin soi sáng. Là ngài đă tự suy nghiệm kĩ lưỡng và dần dà tự thâm tâm ngài càng ngày càng thấy chắc chắn về sự việc này. Khi các người theo một tôn giáo nào đó có cảm giác một điều ǵ đó đúng, dù không có một bằng chứng nào th́ người ta gọi cảm giác ấy là mặc khải. Không phải chỉ có các giáo hoàng mới xác quyết các ngài nhận được mặc khải, mà nhiều người theo đạo khác cũng xác quyết họ được mặc khải. Đó là một trong những lí do quan trọng nhất để người ta tin những sự việc mà người ta tin. Nhưng đó có phải là lí do đúng không ?

     Già sử tôi nói với bạn rằng con chó Vện của bạn đă chết. Có lẽ bạn sẽ rất buồn và hỏi : "Anh có biết chắc chắn không ? Làm sao anh biết ? Và việc đó xảy ra như thế nào?". Và giả sử tôi lại nói : "Sự thực tôi không biết chắc chắn con chó Vện chết. Tôi không có bằng chứng nhưng tôi có linh cảm nó chết". Có lẽ bạn sẽ hơi giận tôi v́ tôi đă làm cho bạn hoảng sợ bởi v́ bạn biết linh cảm tự nó không phải là lí do xác đáng để tin con chó chết. Bạn muốn thấy hoặc nghe được bằng chứng. Chúng ta, ai cũng có lần có linh cảm về một cái ǵ đó, đôi khi linh cảm đó đúng với thực tế nhưng đôi khi sai. Chúng ta có thể nói trong mọi trường hợp, rằng mọi người có thể có những linh cảm trái nghịch nhau. Nhưng làm sao chúng ta có thể quy định ai có linh cảm đúng ? Cách độc nhất để chúng ta có thể biết chắc chắn con chó có chết không, là chúng ta nh́n thấy nó chết hoặc nghe thấy tim nó không c̣n đập nữa hoặc nghe ai đă thấy bằng chứng hoặc nghe nó chết.

     Đôi khi người ta nói rằng chúng ta phải tin những ǵ chúng ta cảm nhận ở sâu trong nội tâm của chúng ta v́ nếu làm khác chúng ta sẽ không bao giờ có thể tin tưởng vào những ư tưởng như "vợ tôi yêu tôi". Nhưng đó không phải lí do xác đáng. Có thể có khá nhiều bằng chứng về việc một người nào đó yêu chúng ta. Nếu chúng ta ở bên một người nào đó yêu chúng ta, chúng ta sẽ thấy vô số việc nho nhỏ, các loại bằng chứng nho nhỏ. Đó chẳng phải chỉ là cảm nhận trong nội tâm như cảm nhận mà vị linh mục gọi là mặc khải. Ở thế giới bên ngoài có những sự việc xác định cảm nhận nội tâm. Thí dụ một ánh mắt hoặc một giọng nói nhẹ nhàng, những cử chỉ dịu dàng mà người nào đó dành cho chúng ta. Đó là tất cả những mẩu bằng chứng thật.

     Trong cuộc sống vợ chồng, khi có một người có một cảm nhận thật mạnh là người kia yêu người khác hơn ḿnh và họ tin thật như vậy dù không có bằng chứng th́ có lẽ họ sẽ đi đến một kết cục sai lầm. Có những người tin tưởng rằng một tài tử nổi tiếng yêu họ trong khi tài tử này chưa bao giờ gặp họ. Những người tin tưởng theo kiểu này là những người có tinh thần bệnh hoạn. Những điều mà chúng ta cảm nhận phải được xác quyết bằng những bằng chứng nếu không phải như vậy th́ chúng ta không thể tin được.

     Những sự việc chúng ta cảm nhận thấy cũng có giá trị trong khoa học, nhưng chỉ để giúp chúng ta có ư tưởng về sự việc ấy và phải được kiểm chứng bằng việc đi t́m bằng chứng. Một nhà khoa học có thể có một nghi ngờ, một ư tưởng do cảm nhận. Tự nó chưa phải là lí do xác đáng để tin mà cảm nhận ấy chỉ có thể là một lí do xác đáng để dành thời giờ cho một thí nghiệm nào đó hoặc để theo một hướng nào đó mà t́m ra những bằng chứng. Những nhà điều tra thường sử dụng cảm nhận của họ khi họ đi t́m ư tưởng. Nhưng những cảm nhận ấy không có giá trị cho tới khi chúng được xác quyết bằng những bằng chứng.

     Tôi đă hứa tôi sẽ c̣n trở lại bàn về khái niệm truyền thống và tôi sẽ bàn về hiện tượng này dưới một cách tiếp cận khác. Đặc biệt tôi muốn cố gắng giải thích tại sao truyền thống lại quan trọng như vậy với chúng ta. Với tất cả thú vật th́ chúng (do một tiến tŕnh mà ta gọi là tiến hoá) chỉ có thể sống c̣n trong những hoàn cảnh mà đồng loại của chúng sống. Sư tử sống ở bên nhau để có thể tồn tại trên những khu vực ở Phi châu. Những con tôm hùm sống ở sông có thể sống sót ở nước ngọt đang khi những con tôm hùm sống ở biển chỉ có thể sống sót ở nước mặn. Con người cũng là những con vật và chúng ta ở bên nhau để chúng ta có thể tồn tại được trong một môi trường với những người khác. Chúng ta, con người, không cần phải dự trữ thức ăn cho riêng ḿnh bằng cách đi săn như những con sư tử hay con tôm. B́nh thường chúng ta mua thức ăn ở những người khác và những người này lại đi mua của những người khác nữa. Chúng ta "bơi" trong một "biển người". Và giống như cá có mang để có thể sống dưới nước, con người cần có bộ óc để biết cách liên hệ với những người khác. Như biển có đầy nước muối, biển người cũng có nhiều việc khó khăn mà chúng ta phải học. Thí dụ như ngôn ngữ.

     Bạn nói tiếng Anh c̣n bạn gái của bạn nói tiếng Đức. Cả hai bạn đều nói thứ ngôn ngữ thích hợp với biển người mà các bạn bơi lội. Ngôn ngữ được trao truyền như một truyền thống. Không có cách nào khác hơn. Ở nước Anh, con chó Vện là a dog. Ở nước Đức, nó là ein Hund. Không từ nào trong hai từ này đúng hơn hay thật hơn từ kia. Cả hai từ đều được trao truyền từ bố mẹ cho con một cách thật đơn giản. Và để lo cho con cái có thể bơi lội thoải mái trong biển người vây quanh chúng, chúng phải học ngôn ngữ của đất nước chúng và bên cạnh đó c̣n phải học nhiều loại sự việc khác nhau về dân tộc chúng. Điều này có nghĩa là chúng, như tờ giấy thấm, phải hút một số lượng lớn các thông tin truyền thống. (Chúng ta nhớ là thông tin truyền thống là những sự việc được trao truyền từ bố mẹ cho con cái và rồi lại được trao truyền từ con cái cho con chúng và cứ như vậy tiếp nối). Bộ óc của trẻ em rất say mê những thông tin truyền thống được trao truyền nhưng chúng ta không thể mong chờ một đứa trẻ phân biệt được thông tin truyền thống được trao truyền tốt và hữu dụng như các từ của ngôn ngữ với thông tin truyền thống xấu và vô nghĩa như tin phù thủy, quỷ và các trinh nữ bất tử.

     Thật đáng tiếc nhưng không thể tránh được là có những em, không biết ǵ khác ngoài việc say sưa những thông tin truyền thống được trao truyền, thường có khuynh hướng tin tất cả những ǵ mà người lớn kể cho chúng bất kể là đúng và tốt hay không đúng và vô nghĩa. Nhiều điều mà người lớn kể cho con cái họ là thật và dựa vào những bằng chứng và nếu những điều kể ấy không thật th́ ít nhất cũng phải có ư nghĩa. Nhưng không có ǵ ngăn cản các em tin những điều không thật, ngớ ngẩn hay là xấu nữa. Và các em này sẽ làm ǵ khi các em này trưởng thành ? Dĩ nhiên các em này lại trao truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Bằng cách này một điều ǵ đó gắn liền với niềm tin - dù hoàn toàn không thật và cũng không bao giờ có lí do nào để tin - lại luôn luôn được trao truyền tiếp.

     Điều ấy có xảy ra như vậy với các tôn giáo không ? Hoặc bây giờ chúng ta nói về niềm tin vào Chúa hay các thần, niềm tin vào thiên đàng, niềm tin là Đức bà Maria không chết, Chúa Giê-su không có cha là loài người, niềm tin là lời cầu nguyện sẽ được lắng nghe, rằng rượu nho sẽ trở thành máu th́ không có một niềm tin nào trong những niềm tin này có bằng chứng. Thế nhưng hàng triệu người lại tin như vậy. Có lẽ v́ họ đă được kể cho nghe lúc họ c̣n quá nhỏ nên dễ dàng tin bất cứ cái ǵ.

     Nhiều triệu người khác lại tin khác hơn v́ họ được nghe kể những sự việc khác khi họ c̣n trẻ. Những trẻ em Hồi giáo được nghe những sự việc khác hơn những trẻ em Thiên chúa giáo nhưng cả hai đều lớn lên trong sự tin tưởng trọn vẹn là ḿnh đúng và những người khác không đúng. Và trong thế giới Thiên chúa giáo, những người Công giáo La mă tin nhiều sự việc khác hơn Tin Lành Calvin, Tin Lành Luther, vân vân. Và tất cả đều hoàn toàn tin tưởng là ḿnh đúng và những người khác không. Những người này tin các sự việc khác nhau v́ những lí do cũng giống như tại sao bạn nói tiếng Anh c̣n bạn gái của bạn nói tiếng Đức. Hoàn toàn thích hợp khi ở bên Anh nói tiếng Anh c̣n ở bên Đức nói tiếng Đức, nhưng không thể có việc các tôn giáo lại đúng ở nước này mà không đúng ở nước khác. Đó là chưa nói tới ngay trong các tôn giáo cũng có những chân lí trái nghịch nhau. Không thể có chuyện như thế này là Đức Bà Maria sống ở Cộng ḥa Ái Nhĩ Lan Công giáo c̣n chết ở Bắc Ái Nhĩ Lan Tin Lành.

     Xem như vậy th́ truyền thống có khi có tác động tốt nhưng có khi lại đưa đến một mối nguy rất lớn. Đó là nó ngăn cản chúng ta tiếp nhận nhưng thông tin không giống như chúng ta đă biết qua truyền thống.

     Trước t́nh trạng có những điều được thông tin dựa vào bằng chứng, lẫn lộn với những điều được thông tin dựa vào niềm tin ở truyền thống, ở uy quyền hay ở mặc khải, chúng ta phải làm ǵ ?

     Rất đơn giản. Nếu có ai kể cho chúng ta một điều ǵ có vẻ quan trọng chúng ta có thể tự suy nghĩ : "Điều này người kể biết được do có bằng chứng hay chỉ do dựa vào niềm tin ở truyền thống, ở uy quyền và ở mặc khải ?". Hoặc có người kể cho chúng ta một sự kiện ǵ mà họ nói là đúng th́ chúng ta có thể hỏi : "Có những bằng chứng nào để xác quyết sự kiện này ?". Và nếu chúng ta không có được câu trả lời thoả đáng th́ theo tôi nghĩ, chúng ta phải xem xét lại và suy nghĩ thật kĩ trước khi chúng ta tin vào lời nói mà chúng ta đă nghe.

 

2. Ảnh hưởng của câu trả lời với việc thực thi dân chủ

     Như chúng ta biết dân chủ là phương pháp để giúp những con người khác biệt nhau có thể sống chung và làm chung với nhau mà vẫn bảo vệ được sự khác biệt của nhau. Nội dung của dân chủ là các quy định chung như luật chơi, luật pháp và khế ước.

     V́ sự khác biệt nên mỗi người đều có những tiêu chuẩn riêng và khác nhau về đủ loại chẳng hạn như về quyền tự do, về công minh, về b́nh đẳng. Thí dụ về quyền tự do. Một nguyên tắc sơ đẳng của việc hành xử quyền tự do là "Tôi được hành xử quyền tự do của tôi tới khi việc hành xử quyền tự do của tôi vi phạm quyền tự do của người khác". Nhưng thế nào là vi phạm quyền tự do của người khác ? Mỗi người đều có những tiêu chuẩn riêng về việc vi phạm quyền tự do của người khác. V́ vậy chúng ta cần phải có một quy định chung về việc thế nào là vi phạm quyền tự do của người khác. Quy định chung này phải được áp dụng cho mọi người, không trừ một ai. Khi cần phải phán quyết về việc vi phạm quyền tự do, tất cả đều dựa vào quy định này để phê phán. Như vậy là có công minh, có b́nh đẳng. Một lí do nữa về việc cần có những quy định chung là chúng ta chỉ thực sự hành xử dân chủ khi chúng ta biết đề ra những quy định chung để sống và làm việc với nhau. Nói cách khác nếu chúng ta không biết xây dựng những quy định chung để sống và làm việc với nhau th́ chúng ta chưa phải là những người biết thực thi dân chủ. Ngoài ra, để sống và làm việc chung với nhau đ̣i hỏi phải có sự tin tưởng nhau. Trong dân chủ, sự tin tưởng nhau chủ yếu dựa vào những quy định chung. Những kiểu tin tưởng dựa vào cảm tính rất nguy hiểm cho việc thực thi dân chủ bởi v́ nó dễ gây ra xích mích và đưa đến độc tài. Đó cũng là lí do đ̣i hỏi phải có những quy định chung cụ thể nếu muốn thực sự thực thi dân chủ.

     Các tổ chức người Việt thường bàn rất nhiều về dân chủ nhưng chỉ bàn suông. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần có ư muốn thực thi dân chủ và soạn thảo một nội quy sinh hoạt hay một quy ước sinh hoạt tổng quát là đă thực thi dân chủ. Sau đó chỉ cần nói và hô hào về dân chủ là có dân chủ. Họ không nghĩ nội quy hay quy ước chỉ là một bản văn nền tảng có tính tổng quát để quy chiếu vào đó mà soạn thảo những quy định cụ thể rơ ràng về từng vấn đề. Chẳng hạn như quy định về việc thảo luận, về việc phân công, về nhiệm vụ của mỗi người : làm ǵ và chỉ được làm tới đâu vân vân. Càng có những quy định cụ thể và rơ ràng về từng vấn đề và mọi người đều tuân theo nghiêm túc những quy định này th́ càng có ít mâu thuẫn và bất măn. Nhưng họ đă không bàn đến những quy định cụ thể của việc làm chung. Bởi vậy các tổ chức người Việt đă không phát triển và lớn mạnh được để có thể làm những công việc to lớn có kết quả. Và nhiều tổ chức c̣n bị tan ră v́ lí do này và v́ thế lại bị mang tiếng là sa lông.

     Ở đây tôi không nói tới các tổ chức bịp bợm được lập ra chỉ để lấy danh hoặc các tổ chức được lập ra để chạy trốn mặc cảm chẳng hạn như "mặc cảm ta không làm ǵ". Họ sợ bàn đến những quy định cụ thể về việc làm chung. Bởi v́ khi đă có những quy định ấy mà họ lại không làm hoặc làm không được th́ bộ mặt thật hám danh, ngu dốt hoặc chỉ muốn nói mà không muốn làm của họ bị lộ ra.

     Nhưng làm thế nào để đi đến một quy định chung ? Thưa, đó chính là thảo luận. Thảo luận để có thể đưa ra được những đề nghị cụ thể, hợp t́nh, hợp lí và phù hợp với thực tế về những quy định cần phải có. Sau đó biểu quyết chọn một trong những đề nghị này để đem ra thi hành.

     Nhưng có một câu hỏi cụ thể được đặt ra là phải thảo luận thế nào để có được những quy định cụ thể, hợp t́nh, hợp lí và phù hợp với thực tế ? Mỗi người chúng ta được giáo dục trong những truyền thống khác nhau và v́ vậy có những cảm nhận khác nhau cũng như tin vào những uy quyền khác nhau. Vậy phải làm sao để có thể thảo luận với nhau và đi đến những quy định mà mọi người đều có thể đồng ư ? Cách tốt nhất là việc thảo luận phải được dựa vào những sự kiện thật và đúng có nghĩa là những sự kiện có bằng chứng cụ thể. Không thể dựa vào những sự kiện tưởng tượng. Bởi v́ ai cũng có thể tưởng tượng ra đuợc muôn vàn sự kiện mà những sự kiện tưởng tượng này lại rất khác biệt nhau tuỳ theo đương sự được giáo dục theo truyền thống nào. Cho nên để có thể đi đến đồng thuận cụ thể và thực tiễn th́ chỉ có một cách là thảo luận với những lí lẽ và dữ kiện dựa vào những bằng chứng cụ thể mà ai cũng có thể tự kiểm chứng được.

     Trong phần bàn về "Tại sao ta biết những điều ta biết?" chúng ta đă thấy tin theo truyền thống, uy quyền và mặc khải là đầu mối của nhiều cách suy nghĩ khác biệt và là nguồn gốc của rất nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới. Mà thực thi dân chủ là muốn đạt đến những thoả thuận v́ vậy cách tốt nhất là thảo luận với những lí lẽ và sự kiện dựa vào bằng chứng cụ thể. Nói cách khác trong thảo luận, cách suy nghĩ dựa vào bằng chứng cụ thể là cách tốt nhất để giảm bớt sự khác biệt và giúp đi đến những đồng thuận.

     Bây giờ chúng ta lại bàn về ảnh hưởng của cách suy nghĩ tin vào truyền thống, uy quyền và mặc khải đối với việc gây ra các thành kiến và đối với việc làm giảm bớt các thành kiến.

     Như chúng ta biết thành kiến luôn luôn là chuớng ngại ngăn cản con người tin nhau và ngồi lại với nhau. Nhưng thành kiến do đâu mà có ? Thành kiến có, do những thông tin chúng ta tiếp nhận. Khi tiếp nhận những thông tin không tốt về một người nào đó, làm cho trong đầu chúng ta có ấn tượng không tốt về người này tức là chúng ta có thành kiến với người ấy. Từ thành kiến này chúng ta cảm thấy không thích nói chuyện và hợp tác với họ.

     Nhưng những thông tin chúng ta tiếp nhận đó có thể đúng hoặc sai. Như chúng ta biết những thông tin chúng ta tiếp nhận từ những nguồn dựa vào truyền thống, uy quyền hoặc do cảm nhận thường sai. Những thí dụ về việc thông tin dựa vào truyền thống, uy quyền và mặc khải trong số người Việt có rất nhiều. Sau đây chỉ nêu ra vài thí dụ cụ thể về thông tin dựa vào truyền thống, uy quyền hoặc cảm nhận đối với việc gây ra những thành kiến.

     Có một số người Việt Nam được giáo dục trong truyền thống ghét đạo Công giáo thường nh́n những người công giáo như những người phản quốc, chỉ nghĩ đến La Mă và làm tay sai cho ngoại bang. Ngoài ra họ c̣n xem những người Công giáo này là những người luôn luôn chỉ thấy có ḿnh đúng nên không biết tôn trọng những người có tư tưởng và lối sống khác. Do truyền thống giáo dục này họ có thành kiến không tốt về những người Công giáo. Nên khi phải gặp hoặc phải làm việc chung với những người Công giáo, họ có thái độ thủ thế và không tin tưởng những người Công giáo này.

     Lại có một số người khác không có thói quen suy nghĩ độc lập nên luôn luôn tin vào những điều mà một người có uy tín nào đó nói (hoặc bạn bè nói). Từ đó họ có thành kiến. Thí dụ họ nghe một người có uy tín nói về một cá nhân nào đó không tốt và làm tay sai cho cộng sản. Họ không thắc mắc về những bằng chứng. Do đó họ tin ngay và có thành kiến về cá nhân ấy. V́ vậy họ tránh xa cá nhân này.

     Cũng có những người khi gặp một người nào đó lần đầu tiên thấy người ta không niềm nở vồn vă với ḿnh v́ vậy có cảm giác người này không tốt và từ đó nghĩ là người này không tốt. Họ không cần kiểm chứng cảm giác này bằng bằng chứng. Và do đó họ có thành kiến về người này và không thích gặp và làm việc chung với người này.

     Giả sử chúng ta có thói quen xét lại những điều chúng ta được giáo dục, được nghe và được thấy dựa vào bằng chứng, có lẽ chúng ta đă bỏ bớt được rất nhiều điều tin tưởng không đúng và v́ vậy cũng bớt đi được rất nhiều thành kiến.

     Chẳng hạn việc những người Công giáo chỉ nghĩ đến La Mă và làm tay sai cho ngoại bang. Nếu chúng ta xét lại vấn đề này dựa vào bằng chứng chúng ta sẽ thấy chỉ có một số người nào đó đặt quyền lợi La mă trên quyền lợi đất nước. C̣n đại đa số những người theo đạo Công giáo rất yêu nước, biết đặt quyền lợi đất nước trên hết. Khái quát hóa một sự việc của một vài cá nhân luôn luôn làm cho chúng ta có những nhận thức sai. Trong tập thể nào cũng có những người xấu. Không phải chỉ có những người công giáo mới làm tay sai cho ngoại bang. Lịch sử đă cho thấy có nhiều người không công giáo đă làm tay sai cho ngoại bang v́ quyền lợi riêng tư.

     Nếu khi chúng ta nghe một người nào đó có uy tín (hay bạn bè của ta) nói về một sự kiện nào đó mà chúng ta luôn luôn hỏi bằng chứng th́ chắc là chúng ta cũng bớt được rất nhiều thông tin sai. Và từ đó cũng bớt đi rất nhiều thành kiến.

     Nếu chúng ta xét lại một người nào đó mà v́ dựa vào cảm giác, chúng ta đă phê phán họ không tốt, bằng những bằng chứng th́ có lẽ chúng ta sẽ thấy họ không giống như chúng ta nghĩ và nhiều khi chúng ta lại có thêm một người bạn mới.

     Tóm lại nếu chúng ta luôn luôn kiểm chứng những thông tin nhận được bằng những bằng chứng cụ thể, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều thông tin không đúng sự thật. Nhờ đó cũng sẽ bớt được rất nhiều trường hợp ông nói gà bà nói vịt trong việc thảo luận. Và kết quả là việc thực thi dân chủ sẽ dễ dàng trở thành hiện thực.

 

Phan Tùng Chính (Dracten, Ḥa Lan)

 

Trở về trang chính