Một cái nh́n trở lại
Trần
Độ
Đây
không phải là một luận văn, mà là một thiên bút kư
thổ lộ nỗi niềm của một người 76
tuổi đời, 58 tuổi Đảng. Tháng 9 này tôi tṛn
75 tuổi (1923-1998). Thấy cũng cần ghi lại
những suy nghĩ về cuộc sống và về sự
đời, mà lâu nay tâm tư lúc nào cũng bị xáo
trộn. Thế là gần hết thế kỷ 20 rồi.
Thế kỷ đă diễn ra những sự kiện
lớn làm xáo động cả sinh hoạt của nhân
loại :
*
Trước hết là chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914-1918), tiếp đến Cách mạng
Tháng Mười ở Nga.
*
Tiếp theo là sự h́nh thành một loạt nước xă
hội chủ nghĩa, h́nh thành một phe lớn trong hai
phe của thế giới, diễn ra cuộc đấu
tranh về hai hệ tư tưởng, kèm theo các mặt
đấu tranh khác (kể cả quân sự).
*
Một sự kiện quan trọng là cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật dẫn tới sự bùng nổ
thông tin toàn cầu và hoạt động của loài
người mở rộng ra không gian vũ trụ :
những chuyến thám hiểm, những vệ tinh, những
cuộc lên mặt trăng, sao Hỏa. Những vấn
đề loài người ra sống ngoài vũ trụ và
ở các hành tinh khác cũng đă được
đặt ra (di dân, du lịch).
*
Cuối cùng, sự kiện quan trọng nhất, là sự
xóa bỏ thế giới "xă hội chủ nghĩa
hiện thực", việc này làm đảo lộn hoàn
toàn các suy nghĩ, các mối quan hệ của loài
người giữa các nước.
* Riêng
ở nước ta, có một biến động hết
sức quan trọng: sau hơn 50 năm tranh đấu
dưới sự lănh đạo của Đảng
Cộng sản, nhân dân ta đă giành được
độc lập và thống nhất đất
nước, đưa cả nước Việt Nam
bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên
độc lập, ḥa b́nh, xây dựng và phát triển.
* Do
đó, cuộc sống và những suy nghĩ về cuộc
sống lúc đầu thế kỷ và lúc ở cuối
thế kỷ này hoàn toàn khác nhau. V́ thế kỷ 20 đem
lại cho loài người nhiều thắng lợi,
nhiều vẻ vang, nhưng cũng đem lại cho loài
người nhiều bài học vừa cay đắng,
vừa đau đớn.
***
Tôi
đă sống 75 năm trong 100 năm sôi động vừa
qua. Tôi đă trải và nghiệm ra nhiều điều,
nhiều lẽ. Những trải nghiệm này có nhiều
điều hay và tốt. Nhưng cũng có những
điều đau. Tôi ghi lại để tôi ngẫm cùng
tôi, nhưng những điều suy ngẫm ấy có
thể giúp ích cho con cháu sau này, cho dù chúng cũng có những
trải nghiệm của chúng. Trải nghiệm một
cuộc đời ngót nghét trăm năm không phải là ít,
lại càng không phải là sự trải nghiệm một
chiều. Nhưng trong những trải nghiệm trong chính
cuộc đời tôi làm tôi phải suy ngẫm và trăn
trở nhiều có lẽ có hai điều sâu sắc và
phức tạp nhất, có tính chất học thuyết và
nguyên lư. Đó là vấn đề "giai cấp" và
vấn đề "Đảng cộng sản".
I.
Về vấn đề giai cấp
Từ
những năm tuổi 14-15, c̣n đang thời học tṛ
cấp 2 (so với hiện nay), tôi và các bạn tôi
đều có một trạng thái tinh thần rất
giống nhau: chúng tôi rất sục sôi yêu nước,
rất căm phẫn trước t́nh h́nh mất
nước, t́nh h́nh dân t́nh đau khổ và sống đời
nô lệ. Những cụm từ "nước mất nhà
tan", "vong quốc", "hồn nước
non"... đều lay động dữ dội tâm
hồn chúng tôi. Chúng tôi thấy hết sức tự nhiên
coi ḿnh như đă là những phần tử của
một phong trào, một thiên hướng tư tưởng
"cứu nước". Mặt khác, hàng ngày, trong
đời sống bản thân, trong quan hệ họ hàng và
xóm giềng và rộng ra nữa, trong quan hệ hàng
tổng, hàng tỉnh, chúng tôi đều trông thấy, nghe
thấy biết bao nhiêu điều bất công, tủi
nhục và oan khuất. Chúng tôi đều là con nhà nghèo,
từ góc độ con nhà nghèo nh́n thấy t́nh h́nh xă hội
như thế th́ tâm tư càng đau khổ nhức
nhối. Nhưng chỉ biết đến thế, chứ
chưa giải thích được t́nh h́nh và t́m ra
phương hướng, chưa giải đáp
được những vấn đề được
đặt ra. Cho nên cũng chỉ lặng lẽ cùng nhau
đọc sách và mơ ước. Mơ ước
những năng lực phi thường, mơ ước
những phương sách lư tưởng và mơ ước
đến tương lai huy hoàng của dân tộc. Những
mơ ước ấy không thoát ra ngoài những
điều đă được viết trong các tiểu
thuyết, nhất là những tiểu thuyết lịch
sử Trung Quốc, mơ ước có những vị vua
anh minh, những tướng quân tài cao chí cả. Trong
trạng thái tâm hồn như vậy, chúng tôi gặp gỡ
và tiếp xúc với những ư tưởng mới của
chủ nghĩa Mác, trong đó nổi bật là vấn
đề giai cấp. Chúng tôi tiếp xúc với vấn
đề giai cấp như một sự bừng sáng
mạnh mẽ và rực rỡ trong tinh thần. Nhờ
chủ nghĩa Mác chúng tôi h́nh dung được những
nét lớn trong việc lư giải t́nh trạng xă hội, lư
giải hoàn cảnh mất nước của ḿnh, trên
cơ sở nhận thức: "phân rơ giai cấp".
Chúng tôi không c̣n căm thù chung chung "giặc Tây", ḷng
căm thù của chúng tôi hướng rơ rệt vào cái
gọi là đế quốc Pháp, mà đế quốc Pháp là
con đẻ của giai cấp tư sản Pháp và chủ
nghĩa tư bản Pháp. Đó là một ánh sáng lớn soi
rọi vào vấn đề giai cấp. Nh́n vào trong xă
hội nước nhà, chúng tôi không c̣n bối rối nhiều.
V́ chúng tôi đă nh́n rơ tất cả những bất công,
tủi nhục, oan khuất... của nhân dân trong xă hội
là kết quả tất nhiên của một xă hội có phân
chia giai cấp: giai cấp áp bức bóc lột và giai
cấp bị áp bức bóc lột. Cuộc đấu tranh
giữa hai giai cấp đó tác động mọi mặt
vào xă hội và là động lực thúc đẩy xă
hội tiến lên. Con đường đúng đắn
để giải phóng dân tộc, mang lại hạnh phúc
cho nhân dân là con đường "phải tiêu diệt cho
được giai cấp bóc lột", mà giai cấp
ấy giờ đây thể hiện rơ ở thế lực
của đế quốc Pháp và bè lũ tay sai (Việt
gian). Chúng tôi nh́n vấn đề như vậy từ
chỗ đứng và với tư cách người bị
áp bức bóc lột, thành ra nhận thức nói trên có
một ánh sáng và một sức mạnh đặc biệt.
Dưới ánh sáng của nhận thức về giai
cấp, mọi vấn đề, mọi quan hệ xă
hội, mọi hiện trạng xă hội đều có
thể lư giải. Chúng tôi sung sướng, chúng tôi cảm
thấy hạnh phúc như có được trong tay một
bảo bối quư giá để nh́n đời và
bước vào đời: đó là sự giác ngộ giai
cấp và ư thức giai cấp. Chúng tôi thực sự có ư
thức về vị trí giai cấp của chúng tôi. Chúng tôi
tôn trọng và thần tượng hóa vai tṛ của giai
cấp bị áp bức bóc lột: công nhân và nông dân, dân nghèo
vv... Chúng tôi nh́n những giai cấp bị áp bức với
cảm t́nh và niềm khâm phục. Họ là động
lực thay đổi cuộc sống ngột ngạt hiện
tại. Chúng tôi có một sức mạnh tinh thần
mới rất lớn, rất lớn. Càng đi sâu vào
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và quyết
liệt (trong chiến tranh), chúng tôi càng thấy rơ thêm, sâu
thêm và rộng thêm sức mạnh tinh thần đó. ư
thức của chúng tôi cũng có những biến chuyển
từ thấp đến cao. Trong những chuyển
biến đó, tôi chú ư đến những chuyển
biến sau đây:
- Từ
ư thức và t́nh cảm tự nhiên là "thương
người nghèo", chúng tôi đă tiến đến t́nh
cảm và ư thức tôn trọng những người lao
động (người nghèo), từ thương cảm
đến tôn trọng, đến nhận thức rơ
hơn vai tṛ cách mạng và năng lực cách mạng
của công nhân và nông dân. Đặc biệt trong chiến
tranh cách mạng, chúng tôi được chứng kiến vô
vàn thí dụ về tinh thần hy sinh cao cả và năng
lực chiến đấu dũng cảm bền bỉ
của những người nông dân, công nhân. Thành ngữ
"công nhân lănh đạo và nông dân là chủ lực"
cho cách mạng cứ hiển hiện rơ từng ngày, không
cần phải bàn căi. Nhu cầu cần bồi
dưỡng văn hóa, chính trị và năng lực lănh
đạo cho các đồng chí thành phần công nhân, nông dân
cũng hiển nhiên rơ ràng. Do đó cần phải có
những chính sách ưu tiên, tạo điều kiện cho
các đồng chí ấy tiến bộ cũng là
điều hiển nhiên và tất yếu.
- Sự
chuyển biến thái độ đối xử với
người nghèo diễn ra trong toàn xă hội. Tôi biết có
gia đ́nh một nhà trí thức cao cấp yêu nước
đi ra chiến khu kháng chiến. Gia đ́nh nhiều con nên
có hai người giúp việc: một vú già, một "con
sen" (con ở gái), hồi trước c̣n thêm một
"anh xe" (kéo xe) nữa. Khi ra chiến khu, hai
người nữ giúp việc cùng sống chung với gia
đ́nh nhà trí thức. Người vú già được coi
như người mẹ thứ hai của lũ trẻ,
c̣n cô gái th́ được coi như con gái lớn trong nhà.
Bà vú già khi mất được ma chay báo hiếu trọng
thể. Cô gái lớn được đựng vợ
gả chồng và được coi trọng đúng như
cô chị cả trong gia đ́nh. Sự chuyển biến cái
quan hệ xă hội này tốt đẹp biết bao nhiêu.
Nó là kết quả tinh thần của Cách mạng Tháng Tám.
Sự tiếp nhận ư thức giai cấp trong chúng tôi
cũng nẩy sinh vấn đề t́nh cảm: t́nh cảm
giai cấp. Mọi t́nh cảm đều xoay quanh khái
niệm giai cấp, phù hợp với ư thức giai cấp
được coi là tốt đẹp, cái ǵ không phù
hợp với t́nh cảm ấy th́ không thể chấp
nhận. Điều được coi như cao cả và
thiêng liêng là "t́nh thương yêu giai cấp". Các
thứ t́nh cảm khác như t́nh yêu, t́nh bạn, t́nh gia
đ́nh, t́nh họ hàng... đều phải lấy t́nh
thương yêu giai cấp làm cơ sở và phải
phụ thuộc vào nó. Những người thuộc giai
cấp không phải nông dân, công nhân, mà tự nguyện
nhận ư thức giai cấp, nhận lập trường
giai cấp công nông là của ḿnh, th́ được khen
ngợi, được biểu dương,
được người ta lặng lẽ trao tặng
một cái như là một danh hiệu tốt đẹp:
những người biết "đầu hàng giai
cấp", biết bỏ bóng tối t́m ra ánh sáng.
Điều này tác động cả vào quan niệm thẩm
mỹ. Trong chiến tranh chúng tôi sống ở nông thôn
nhiều, thực ḷng chúng tôi thấy vẻ chất phác và
vóc dáng khỏe mạnh của thôn nữ là đẹp.
Mỗi khi về sống lại ở thành phố, thời
gian đầu chúng tôi thường dè dặt và xa lánh các cô
gái thành thị "áo ve sầu, đầu súp-lơ"
với những dáng vẻ ẻo lả mượt mà, mà
chúng tôi cho là không đẹp. Định kiến ấy
cũng tồn tại một thời gian. Rồi nữa,
chúng tôi đă từng sống nhiều chục năm trong
một trạng thái tinh thần hứng khởi, cao
thượng và trong sạch. Trạng thái tinh thần này
phổ biến trong đa số nhân dân, nó là nền
tảng cho những mối quan hệ, đặc biệt
quan hệ giữa người và người rất
tốt đẹp: giữa cán bộ và nhân dân, giữa quân
đội và nhân dân, giữa cấp trên và cấp
dưới... T́nh trạng đó kéo dài suốt từ
trước năm 1945 đến 1975. Thế mà tại sao
đến bây giờ, rất nhiều người, ít
nhất là theo tôi thấy được và nghe
được, đều than tiếc những
điều tốt đẹp của mấy chục
năm quá khứ. Những mối quan hệ nói trên cứ
dần dần có sự biến đổi. Trong chiến
tranh, sự biến đổi không rơ lắm, nhưng
từ sau khi sự nghiệp cách mạng giành độc
lập và thống nhất đất nước đă hoàn
thành, th́ sự biến đổi ấy càng rơ rệt và
nhanh chóng. Nó đă diễn ra một sự "biến
dạng". Nó đă biến dạng thế nào, từ cái
ǵ trở thành cái ǵ và tại sao? Qua sự suy ngẫm
về diễn biến ư thức của bản thân, qua
sự nhớ lại các hành xử của ḿnh và của
người khác mà ḿnh thấy được, qua sự
quan sát và nghe được chuyện từ nhiều
nguồn, tóm lại là qua sự trải và sự nghiệm
của bản thân, tôi thấy được mấy
điểm:
1.
Trước hết hăy so sánh hai bức tranh : ngày xưa
(trước 1945 và trước 1954,1975) và ngày nay (những
năm 1990). Hai bức tranh biểu hiện hai thời
kỳ, hai t́nh trạng, từ đó xuất hiện
một "ước mơ giật lùi": "bao
giờ cho đến ngày xưa?"
Ngày
xưa, khi những ư tưởng về giai cấp và
đấu tranh giai cấp được lan truyền
đă làm bùng lên trong ḷng mọi người một ánh sáng
và tạo nên một sức mạnh tinh thần, thúc
đẩy tinh thần yêu nước và cứu nước
của toàn thể nhân dân. Tất cả những cái đó trở
thành một chất keo tinh thần gắn bó mọi
người lại với nhau trong một tinh thần
đoàn kết đấu tranh trong sáng và đơn
giản, nhằm một mục tiêu lớn và rất rơ
rệt: giải phóng đất nước, giải phóng
nhân dân lao động khỏi nô lệ, khỏi áp bức.
Chủ nghĩa Mác-Lê đă giác ngộ mọi người
một cơ sở lư lẽ như sau: xă hội có nghèo
đói, bất công là do có sự áp bức bóc lột của
giai cấp thống trị cầm quyền, do có sự
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Muốn "đổi đời" (giải
phóng những người bị áp bức bóc lột) phải
đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, vừa
lấy lại đất nước độc lập,
vừa xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế
độ tư hữu về tư liệu sản
xuất. Như thế mới có một xă hội vừa
độc lập vừa công bằng dân chủ, chính
quyền thực sự về tay nhân dân. Những
điều đó đă nhân lên bội phần tinh thần
cứu nước và tinh thần xây dựng xây dựng
một đất nước độc lập, tự do,
hạnh phúc. Tinh thần đấu tranh cách mạng nhờ
sự giác ngộ đó được nhân cao lên nhiều
lần. Lúc đó Đảng cộng sản (nói cho rơ
hơn là những người cộng sản) ḥa ḿnh trong
nhân dân, nhân dân t́m đến những người cộng
sản như t́m đến những người thân.
Họ là những người vừa hướng dẫn
đấu tranh vừa là những người cần
được che chở bảo vệ và cứu giúp
(về cả ăn, mặc, cũng như nơi ở an
toàn). Trong nhiều hồi kư viết về nhà tù Sơn La,
các tác giả miêu tả lại những h́nh ảnh rất
cảm động, khi tù chính trị (những người
cộng sản) bị đày từ Hỏa Ḷ (Hà Nội)
lên Sơn La đi qua Suối Rút. Nhân dân Chợ Bờ,
Suối Rút đă đón tiếp, chào mời và tự
nguyện giúp đỡ từ bát cháo, điếu thuốc,
cái chiếu, chỗ nằm. Cho nên, lúc ấy Đảng
ở trong dân, Đảng với dân là một. Dân đi t́m
Đảng, Đảng cũng đi t́m dân như t́m
những người có ân có nghĩa.
Ngày nay
Cách mạng đă thắng lợi: đất nước
đă thống nhất và độc lập. Chính quyền
đă về tay nhân dân. Và những người cộng
sản là người thay mặt nhân dân nắm giữ chính
quyền. Từ chỗ nhận thức như vậy
tất cả những chức vụ quan trọng từ
cấp cơ sở đến cấp toàn quốc
đều phải do các đảng viên cộng sản
nắm giữ. Tất cả những người cộng
sản này phải có mức thu nhập và mức sống
cao (từ nhà ở, phương tiện đi lại,
phương tiện sinh hoạt) để đảm
bảo sức khỏe và có điều kiện tốt
để làm việc cho dân cho nước. Gia đ́nh các
vị này, con cái các vị cũng phải được
bảo đảm điều kiện thuận lợi trong
đời sống từ việc học hành, chữa
bệnh. Phải cho các cháu học hành đầy đủ
để có đủ năng lực nối tiếp
truyền thống của cha anh mà giữ vững chính
quyền nhân dân. Như thế là xuất hiện một tầng
lớp người (chưa gọi là một giai cấp)
làm việc trong những chức vụ cai trị, chủ
yếu là những đảng viên Đảng cộng
sản. Chức vụ càng cao th́ càng phải do những
đảng viên quan trọng (cao cấp) nắm giữ.
Vậy là Đảng với dân đă tách thành hai: một
số người (chủ yếu là của Đảng)
làm việc cai trị dân. Mà đă cai trị th́ phải có
chức, đă có chức là có quyền, đă có quyền
ắt có lợi. Quyền lực lớn th́ có lợi
lớn. Đảng đâu c̣n "ḥa trong dân, cùng với dân
là một" như trước.
Trên danh
nghĩa, chính quyền của Đảng khi làm việc ǵ
cũng là thay mặt dân và nhân danh dân, v́ lợi ích của
dân (chính quyền do dân, v́ dân, của dân). Thế mà dân
hiện nay đi t́m Đảng là đi t́m những ông bí
thư, chủ tịch, bộ trưởng, đại
biểu Quốc Hội, ủy viên Trung ương,
để khiếu nại tố cáo, kêu oan và cầu xin
sự cứu giúp. Có những ông đảng viên già
(nhưng không có chức vụ ǵ, th́ cũng như là dân)
xếp các đơn kêu xin của ḿnh vào một cái túi
nặng hàng chục ki lô, đi lại các cấp các ngành
hàng chục năm trời mà vấn đề của ông
ấy vẫn không được giải quyết (v́ nó phức
tạp quá). Khi ông già này c̣n trẻ bắt đầu giác
ngộ và hăng say đấu tranh ông ấy không thể
tưởng tượng nổi t́nh cảnh ông ấy lúc
về già. Không những Đảng với dân đă là hai,
mà ngay trong Đảng cũng thành hai. Một Đảng
gồm những người không có chức vụ hoặc
chức vụ thấp. Một Đảng gồm những
người có chức vụ cao và quyền lực,
quyền lợi cao. Hàng triệu chiến sĩ và nhân dân khi
hy sinh đều không nghĩ rằng một kết quả
quan trọng của sự hy sinh của họ lại là
t́nh trạng thế này. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đă
phải thốt lên: Trọn tuổi xuân ta hiến dâng
cuồng nhiệt Lại đúc nên chính cỗ máy này! Và
hễ ai muốn nêu vấn đề để t́m ra
phương thức lănh đạo và tổ chức
của Đảng trong điều kiện mới cho có
hiệu lực và quan hệ tốt đẹp "như
ngày xưa" th́ lập tức cũng bị bộ máy
tư tưởng gán cho tội "phủ nhận
Đảng" và bộ máy công an coi là có tội "làm
hại đến an ninh quốc gia", cho người
theo dơi, canh giữ, giám sát và bỏ tù.
Kẻ
viết những ḍng này trong năm 1998, từ 25 tháng 7 vào
ngôi nhà của con trai út số nhà 116/ 33 Hoàng Hoa Thám,
phường 12, quận Tân B́nh, thành phố Hồ Chí Minh.
ở đó dự định cho đến hết tháng 10.
Trong hơn 100 ngày đó, trước ngôi nhà này luôn luôn
từ sáng đến tối, mỗi ngày đều có
từ một đến ba nhân viên an ninh mặc
thường phục, hóa trang làm người chữa xe
đạp, lái xe ôm, lái xe tắc xi... coi chừng, giám sát,
ghi chép, và cả chụp ảnh nữa. Khi kẻ này đi
chơi ở Huế cũng có những nhân viên an ninh từ
Hà Nội bay vào Huế ở cùng khách sạn để theo
dơi những người quen đến thăm kẻ này.
Rất
nhiều triết gia Đông và Tây, từ cổ chí kim,
đều thừa nhận rằng trên đời này không
có sự vật, hiện tượng nào đứng im, nó
luôn luôn chuyển động và biến hóa. V́ vậy sự
chuyển động và biến hóa (hoặc biến
dạng) của xă hội và của Đảng là
điều rất tất nhiên, chỉ có điều ta
phải xem sự biến dạng đó có kết quả ra
sao, tốt hay xấu? T́nh h́nh xă hội và con người
trong thời chống Pháp khác với thời chống
Mỹ. Thời chống Mỹ nước ta có hai miền
nên cũng có nhiều vấn đề Đảng và dân
phải giải quyết, phức tạp và khó khăn
hơn thời chống Pháp, nhưng tŕnh độ tư
tưởng và tổ chức của Đảng, của
dân đă cao hơn, làm việc hiệu quả tốt
hơn. Tuy vậy, cũng có một số mặt kém đi:
trong quân đội hiện tượng đào ngũ (B
quay) xuất hiện, quan hệ quân dân không tốt hơn,
những vụ kỷ luật về vi phạm đến
quyền lợi của dân cũng nhiều hơn. Sự
chuyển động và biến dạng kể trên là sự
chuyển động và biến dạng lớn nhất,
quan trọng nhất, bao trùm nhất. Chính nó chi phối các
sự chuyển động và biến dạng bộ
phận nối tiếp sau. Mỗi sự vật sự
việc đều có hai mặt: một mặt phải
(tích cực), một mặt trái (tiêu cực). Trong chuyển
động và biến hóa cả hai mặt đều
chuyển động và biến hóa khác nhau, khi th́ tiến
lên, khi th́ thụt lùi.
2. Về
ư thức giai cấp. Từ chỗ có ư thức
thương yêu tôn trọng, tin cậy những
người ngèo khổ bị bóc lột (là công nhân và nông
dân), đánh giá cao khả năng cách mạng của họ,
ư thức này dần trở thành cực đoan, đi
tới chỗ không tin cậy các thành phần khác, chỉ
đề cao công nông. Sự tuyệt đối hóa
những ưu điểm cách mạng của công nông đă
dẫn tới chỗ đánh giá thấp khả năng cách
mạng của các tầng lớp khác. Có một dạo
đă xuất hiện những từ khinh miệt gọi
cánh học sinh và những người thuộc tầng
lớp trung lưu là "tạch tạch sè" (tiểu
tư sản), và những người này cũng vui vẻ
tự gọi ḿnh như thế. Y' thức này đă
được chính thức công khai thể hiện trong cái
gọi là " đường lối công nông về công tác
cán bộ". Chính kẻ viết những ḍng này cũng
đă từng thuyết giảng nhiều lần về
đường lối này và phê phán một cách đầy
thuyết phục những hiện tượng vi phạm
đường lối công nông.
Trong khi
ấy, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng có
hai hiện tượng rơ rệt: một là, tinh thần
dũng cảm chiến đấu và hy sinh rất quyết
liệt của các cán bộ và chiến sĩ xuất thân
từ công nông, số này chiếm đa số. Mặt khác,
phần lớn các đồng chí lănh đạo ở
cấp cao nhất đều không phải xuất thân
từ công nông, mà xuất thân từ những tầng
lớp trung lưu hoặc tầng lớp trên của xă
hội. Các đồng chí đó là những chiến sĩ
cách mạng trung kiên, có một ưu thế mà những
người xuất thân công nông không có, đó là tŕnh
độ học thức cao, ngoại ngữ giỏi.
Nhưng t́nh h́nh này không được coi là thí dụ
của một khả năng cách mạng của những
người thuộc tầng lớp phi công nông. Vấn
đề đường lối công nông dẫn
đến một số hiện tượng gọi là
"thành phần chủ nghĩa", và "chủ
nghĩa lư lịch". Hiện tượng này dẫn đến
những định kiến, phân biệt đối
xử, bỏ qua và lăng phí nhiều khả năng cách
mạng, bỏ qua nhiều tài năng, làm cho nhiều tài
năng bị thui chột, tổn thương đến
tinh thần đoàn kết dân tộc để đấu
tranhgiành độc lập. Đường lối này và
"chủ nghĩa thành phần" tác động vào
mọi mặt sinh hoạt của xă hội, làm tổn
thương tính công bằng xă hội và tổn
thương chính sách xóa bỏ hận thù trong quá khứ
để đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng
đất nước. Càng trong hoàn cảnh thắng
lợi lớn và trong ḥa b́nh xây dựng th́ tổn
thương và tai hại do "chủ nghĩa thành phần"
thể hiện thành chính sách của Đảng càng to
lớn và không ǵ bù đắp được. Sự tai
hại không chỉ tác động đến những thành
phần lớp trên mà c̣n tác động đến toàn dân
kể cả công nông. Hiện tượng nhiều
người bỏ nước ra đi sau đại
thắng 1975 là sự rạn nứt không chối căi
được của khối đoàn kết toàn dân. Có
nhiều người tuy bỏ nước ra đi,
nhưng trong ḷng vẫn có cảm t́nh với cách mạng.
Họ phải ra đi, bởi v́ nếu họ ở
lại th́ họ không có cách ǵ sinh sống, trong khi tài
sản của họ cũng không c̣n. Họ ra đi c̣n kéo
theo hậu quả là hàng trăm lao động và gia đ́nh
mà trước đây bị họ "bóc lột", nay
không c̣n đường sinh sống. Như thế là có
những người ra đi là bị buộc phải ra
đi, chứ họ chẳng chống ai, chẳng thù ai.
Những người này và cả những người
mất việc đều thấy có một sự "khó
hiểu" trong chính sách của cách mạng, mà không ai
giải thích được cả.
3.
Mỗi triết thuyết đều có cái lư của nó.
Nhưng cứ giản lược hóa nó, rồi nhấn
mạnh vai tṛ của nó quá mức cần thiết th́
tất sẽ dẫn đến hậu quả tai hại
khôn lường. Tôi nay đă ngoài 70 tuổi, nhờ
đọc thêm được một số sách, nghe thêm
được nhiều ư kiến, cũng mới nhận
ra được điều này. Vấn đề ư
thức giai cấp cũng thế thôi. Từ chỗ
tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp trong
sự bộn bề của đời sống con
người và xă hội sẽ đi tới chỗ nguy
hiểm do giải quyết nhiều vấn đề không
c̣n chừng mực của nó nữa. Một hệ quả
quan trọng của chủ nghĩa thành phần là vấn
đề chuyên chính vô sản. Tôi đă trải qua nhiều
lần sinh hoạt ở Trung ương (Đảng) các
khóa, và tôi nhớ là nhiều lần Trung ương đă
thảo luận vấn đề này. Nhưng quả
thật sự thảo luận đă không đi đến
được sự lư giải rơ ràng và nó dừng lại
ở chỗ thỏa thuận với nhau và trở thành
tư tưởng chỉ đạo cho đến bây
giờ, là:
*
Phải chuyên chính với kẻ thù (giai cấp) và dân
chủ với nhân dân lao động.
*
Phải có bộ máy mạnh để chuyên chính với
kẻ thù.
* V́
chế độ ta là một chế độ dân chủ,
cho nên sự thực hiện chuyên chính chỉ nói trong
nội bộ, chứ không công khai nói ra làm ǵ!
Như
vậy là cứ làm mà không nói, trong một phương châm
hành động cũng không nói ra là: "nói một đàng,
làm một nẻo". Như vậy đây là trường
hợp làm mà không nói. Có trường hợp khác th́ lại
cứ nói, nói càng nhiều càng tốt, nhưng chỉ
cần nói thôi, chứ không làm. Điều này làm cho nhân dân
gặp rất nhiều điều khó hiểu. Điều
đó trở thành một đặc điểm của
chính quyền cộng sản. Mà không phải chỉ có
kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản mới
nhận xét thế. Có nhiều người bạn trung
thực của phong trào cộng sản, nhiều lư
thuyết gia thế giới, cũng nhận xét như
thế. Những dẫn chứng cho nhận xét trên đây
có rất nhiều trong sinh hoạt hàng ngày của xă hội
ta. Khi có sự thảo luận, tôi phải t́m hiểu
vấn đề, do vậy tôi đă t́m đọc Lênin
trong những đoạn ông nói về chuyên chính vô sản.
Về khái niệm này Lênin có nói ở nhiều chỗ,
nhưng nội dung không giống nhau. Tôi nhớ có hai
loại ư khác nhau:
(a) Có
chỗ Lênin cho rằng đó là chính quyền cách mạng
của giai cấp vô sản, nó có nhiệm vụ xóa bỏ
và triệt tiêu mọi tồn tích của chính quyền
cũ (tư sản) vừa bị đánh đổ. Cho nên
chuyên chính vô sản không dùng và không dựa vào bất cứ
pháp luật nào của chính quyền cũ, mà chỉ hành
động v́ lợi ích của cách mạng, v́ lợi ích
của giai cấp vô sản.
(b) Có chỗ
th́ Lênin nói rằng: chuyên chính vô sản là dân chủ vô
sản. Mà dân chủ vô sản th́ cao hơn dân chủ tư
sản. V́ vậy chuyên chính vô sản không bao giờ coi
đàn áp là quan trọng, thậm chí coi đàn áp là chủ
yếu cũng không chấp nhận được.
Phải coi trọng sự tổ chức và giáo dục.
Do không
có điều kiện để t́m và trích nguyên văn,
nhưng tôi bảo đảm là tôi đă nhớ đúng hai
tinh thần đó. Nghĩa là: thực hiện chuyên chính vô
sản là thực hiện một cuộc đấu tranh
giai cấp quyết liệt để xóa sạch mọi
tàn dư của chính quyền cũ vừa bị đánh
đổ theo ư (a) nói trên. Đó là chuyên chính vô sản trong
hoàn cảnh mới giai cấp vô sản mới giành
được chính quyền. Nhưng đến khi ta đă
xây dựng được chính quyền rồi th́ chính
quyền mới này phải là một chính quyền dân
chủ cao hơn hẳn chính quyền tư sản. Chính
quyền dân chủ mới này quản lư xă hội bằng
tổ chức và giáo dục chứ không phải bằng
đàn áp, bằng bạo lực. V́ vậy mà lâu nay trong lư
thuyết mới có sự đề cập tới việc
xây dựng một "nhà nước pháp quyền" và
quản lư xă hội bằng một hệ thống luật
pháp ăn nhập cả với các thông lệ luật pháp
quốc tế. Một nhà nước dân chủ giữa các
nhà nước dân chủ của thế giới. Hay
biết bao! Và ta sẽ có dịp tỏ rơ tính ưu việt
của nền dân chủ vô sản.
Tôi
đă từng biết, từng gặp những đồng
chí luôn luôn biểu thị khí thế đấu tranh giai
cấp quyết liệt, ḥ hét tiêu diệt mọi kẻ
thù. Quan niệm "kẻ thù giai cấp" đă ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt
động của các cơ quan pháp luật. Hầu hết
những người làm việc trong các cơ quan pháp
luật đều cho rằng hễ ai mà đă phạm
luật, hoặc bị nghi ngờ là có vi phạm
đều phải coi là kẻ thù của cách mạng và các
đồng chí đó đều đối xử với
đối tượng ấy như đối với
kẻ thù: từ cách nh́n khi gặp gỡ, tiếp xúc, cách
hỏi cung, cách dẫn đi, cách cho ăn cho uống... Tôi
đă được đọc một số hồi kư
của một số người bị bắt và bị
tù, nghe lời kể trực tiếp hoặc gián tiếp
của thân nhân những người bị tù. Những
người bị tù trong chế độ ta không được
đối xử như một người "nhân
dân", như bất kỳ một công dân nào, mà như
một kẻ thù. Số người được
đối xử đặc biệt cũng có, nhưng ít
ỏi. Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong
thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù
cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc
đi thăm tù: trước đi thăm chồng, nay (sau
năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn
tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai
cuộc đi thăm ấy: tù nhân thời nay cực
hơn thời đế quốc. Trưóc nhận xét
thẳng thắn của chị, tôi buồn rầu nghĩ
rằng ta đă công bố nhiều chính sách hay, cũng
đă có một số việc làm tốt được
tuyên truyền rộng răi. Chẳng lẽ ta không có cách ǵ xóa
bỏ được ấn tượng nặng nề
của tinh thần thù địch hay sao?
4.
Sự nhấn mạnh quá mức cần thiết về ư
thức giai cấp hay tính giai cấp c̣n có một hệ
quả tai hại và ngày càng tai hại cho xă hội. Gần
đây Đảng có đề ra khẩu hiệu liên
kết công nông với trí thức, mà có người phấn
khởi đă gọi tắt là liên kết "công nông
trí". Một số trí thức đă hoan nghênh và coi đó
là dấu hiệu tốt của con mắt Đảng khi
nh́n vào trí thức.
Nhưng
công thức này vẫn đặt trên nền tảng là công
nông. Trí thức chỉ được coi như một
bộ phận không thể không có. Cái "ư thức giai
cấp" coi thường và không tin cậy đối
với trí thức xuất phát từ quan điểm cho
rằng khả năng cách mạng của trí thức quá
thấp, nhất là trong đấu tranh bạo lực.
Điều này là rơ và hiển nhiên. Nhưng ngoài ra cái nh́n
về trí thức c̣n hao hàm ư nghĩa: trí thức thuộc
tầng lớp trên, tầng lớp bóc lột. H́nh ảnh
của họ là những người không thể tin
cậy, những người cần phải cảnh giác,
nhất là trí thức văn nghệ sĩ. Một bậc
đàn anh của tôi đă có lúc ân cần thân mật dặn
tôi: "Mày phải cẩn thận, văn nghệ sĩ nó
hay xỏ xiên lắm đấy!" Tài năng không có ư
thức để chọn chỗ đầu thai. Cho nên
những tài năng có không chọn chỗ đầu thai vào
công nông là chuyện b́nh thường. Nh́n lại lịch
sử ta thấy những nhân vật lẫy lừng
của cuối thế kỷ thứ XIV đầu thế
kỷ XX của ta đều xuất thân từ các gia
đ́nh khoa bảng hoặc bản thân là trí thức, kể
cả Hồ Chí Minh. Cái nguyên lư đấu tranh giai cấp
là động lực phát triển xă hội không thể khi
nào cũng đúng với mọi thời đại và
mọi dân tộc được. Nhưng những con
người tài giỏi, có trí thức đóng vai tṛ
quyết định số phận của đất
nước và của dân tộc th́ h́nh như rất
đúng với Việt Nam, cả trong lịch sử xa
cũng như lịch sử gần. Thời đại
nào, dân tộc nào cũng nổi bật lên vấn
đề người tài, và cũng chỉ có người
tài mới để lại được những giá trị
và ấn tượng tốt đẹp cho các đời
sau. Tôi thấy h́nh như cái ư thức công nông không có khả
năng thấy rơ được vấn đề này. Và
khi ai đó đề cập đến vấn đề
mà ư thức giai cấp buộc phải lên tiếng th́ y
như rằng có những người tŕnh bầy như
thể các tài năng đều của công nông, đều
từ công nông mà ra, đều phải dựa vào công nông
mới phát triển được.
Tôi th́
tôi thấy ngược lại. "ư thức giai
cấp" công nông không thể nhận biết
được hai nguyên lư đơn giản mà tôi học
được ở các nhà khoa học, đó là: a/ Tài
năng là của hiếm. b/ Tài năng là của tất
cả nhân dân. V́ vậy phải đối xử với
tài năng như là của hiếm, và của hiếm đó
là tài sản quư của tất cả mọi người.
Ngày xưa, vua chúa c̣n có khi tha tội hoặc xóa tội cho
những người tài. Nhưng "ư thức giai
cấp" th́ không. Từ "ư thức giai cấp" quá
mạnh dẫn đó nhận thức cứng nhắc và
mơ hồ chung quanh vấn đề "đức"
và "tài". Khi nêu lên quan hệ "đức" và
"tài" th́ cho rằng "đức" phải là
gốc. Hơn nữa, khái niệm "đức"
được nói đến chỉ với ngụ ư
về một số phẩm chất đặc trưng
của công nông. "Đức" chỉ là yêu quư và tích
cực lao động (chân tay), không tham ô, hủ hóa, mà ít có
gắn đức với những phẩm chất khác
như trung thực, khiêm tốn, nhân ái, thương
người, làm việc có hiệu quả. V́ vậy
rất khó t́m đúng người đặt đúng
việc. Năm 1978, trong cuộc gặp gỡ giữa
đồng chí Nguyễn Văn Linh với các văn
nghệ sĩ, một nhà lư luận văn học đă
phải thốt lên: "văn nghệ sĩ bị khinh bỉ
sâu sắc". C̣n nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện
th́ phàn nàn: "Có những thành kiến như những
bản án, mà là án chung thân, treo lơ lửng trên đầu
một số văn nghệ sĩ ".
Tôi, th́
tôi thấy rơ: "Cái ư thức giai cấp trong xă hội ta
có những đặc điểm sau:
* Không có
khả năng và phương pháp để phân biệt tài
năng, v́ nó không cần đến tài năng, không muốn
có tài năng.
* Không có
khả năng và không biết sử dụng tài năng, v́
nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng
không chịu ngoan ngoăn phục tùng.
* Nó
lại càng không có khả năng phân biệt tài năng
thật và tài năng giả. Nó chỉ thích nghe những
điều xuôi chiều và xu nịnh. Nó không thể
chịu được những cái độc đáo và
không dung tha sự độc lập.
Có
những hiện tượng tác phẩm được
giải thưởng nhưng không ai muốn đọc,
muốn xem. Ngược lại, một số tác phẩm
càng bị cấm, càng nhiều người t́m đọc.
Tôi cho đây là một điều cần nghiêm túc xem xét,
chứ không phải chuyện nói đùa chơi. Đáng
buồn là như vậy. Nó (cái ư thức giai cấp)
mất luôn cả khả năng phân biệt và nhận
biết những lẽ phải thông thường. Có
một hiện tượng hết sức nguy hại cho
vận mệnh của dân tộc và quốc gia. Đó là
hiện tượng học giả, bằng giả,
học hàm, học vị mua được bằng
tiền. Những tác động nào đă đẻ ra t́nh
trạng đó? Đó có phải là chính sách văn hóa của
nhà nước công nhân không? Có cần phải có những
chính sách hạn chế được cái giả mà
khuyến khích được cái thật không? Riêng một
người, hoặc một nhóm ai đó, th́ không thể
nghĩ ra cái chính sách ấy được. Khuyến khích
nghĩ sâu, khuyến khích nói thẳng th́ sẽ không
thiếu ǵ giải pháp chính sách. Nhưng khổ nỗi,
với cái ư thức giai cấp xơ cứng th́ không sao làm
được.
Gần
đây, và cả hiện nay, có một từ
được lưu hành một cách bán chính thức. Đó
là từ kẻ sĩ hoặc sĩ phu. Không biết ông trí
thức, tác giả một số bài luận văn kư tên Hà
Sĩ Phu có ư muốn bộc lộ nỗi ḷng mà cất cao
giọng hỏi: "C̣n ai là sĩ phu nữa hay không? Sĩ
phu thời nay là ai và họ ở đâu rồi?". Tôi
thấy hiện tượng lưu hành từ kẻ sĩ
và sĩ phu là một sự phản ứng tế nhị
nhưng dữ dội của giới trí thức
trước t́nh h́nh bị đánh giá không đúng. Hai từ
ấy có tác dụng giúp người ta phân biệt và
nhận mặt kẻ giả và người thật.
Kẻ sĩ hay bậc sĩ phu có ngụ ư chỉ
người hiểu sâu, học rộng (trí thức),
nhưng lại là người trung thực và khảng khái,
dám nói và nói thẳng. Như vậy từ kẻ sĩ có
ngụ ư kêu gọi mọi người trí thức dù cao dù
thấp, hăy xứng đáng là một kẻ sĩ, xứng
đáng là một sĩ phu mà làm tṛn trách nhiệm với
đời như các bậc sĩ phu tiền bối. Nó
cũng có ngụ ư lời tâm huyết của tầng
lớp trí thức nói với giới lănh đạo và
quản lư: "Hăy để cho kẻ sĩ tự do
nghĩ và tự do nói lời của ḿnh". Mà lời
của kẻ sĩ (thật) th́ thường khác với
lời chính thống. Đó là dấu hiệu tốt để
phân biệt thật giả. Mà hiện nay thật giả
bị trộn lẫn, khó phân. Cần khắc phục cái
"ư thức giai cấp quá mức cần thiết",
cần đánh giá lại vai tṛ của trí thức, của
kẻ sĩ trong sự phát triển của đất
nước. Càng nhiều kẻ sĩ góp lời và thi
thố tài năng th́ đất nước càng có
điều kiện phát triển và mới phát triển
được. Điều này không hề làm giảm vai tṛ
của Đảng cộng sản, mà trái lại, nó làm rơ
thêm, sáng thêm đôi mắt và tấm ḷng của Đảng
đối với đất nước, đối
với kẻ sĩ. Đó mới là chính trị sáng
suốt. Y thức công nông đúng đắn là phải tôn
trọng và biết ơn giới trí thức (kẻ sĩ)
là những người phát minh, sáng chế, tạo
điều kiện cho công nhân sản xuất ra những
giá trị vật chất ngày càng cao và cũng chính họ
sản xuất ra những giá trị tinh thần cho xă
hội rất cần thiết cho sự sinh tồn của
một xă hội văn minh. Không thể để cho
sự biến dạng ư thức giai cấp này kéo dài thêm
nữa!!!
5- Có
một điều lạ là để giải quyết các
vấn đề của một dân tộc, một xă
hội, phải có sự hiểu biết kỹ và sâu
của xă hội đó, dân tộc đó. Đến nay, Cách
mạng Tháng Tám 1945 đă được hơn 50 năm,
thắng lợi, thống nhất độc lập dân
tộc đă được hơn 25 năm, mà chưa có
một ư kiến nào đề ra việc phân tích xă hội
ta hiện nay, tuy nhiều người vẫn thấy ḿnh
đứng trên lập trường giai cấp rất
vững vàng. Riêng tôi, tôi nghĩ lập trường
phải phù hợp với thực tiễn đời
sống cụ thể, chứ không thể chỉ dựa
vào kinh điển và những thứ "kinh điển"
cần có dấu hỏi. H́nh như hiện nay, khi phân tích
xă hội Việt Nam về giai cấp vẫn c̣n những ư
kiến từ trước Cách mạng Tháng Tám, khi
đồng chí Trường Chinh c̣n là tổng bí thư.
Bằng chứng là cho đến nay có người vẫn
c̣n sử dụng những ư kiến phân tích giai cấp
của xă hội ngày đó. C̣n ngày nay, giai cấp nông dân
đang biến động thế nào, trong nông thôn xuất
hiện thêm những tầng lớp nào? Tâm lư và nguyện
vọng của nông dân hiện nay ra sao? Công nhân đang phát
triển thế nào ? Có bao nhiêu thứ công nhân ? Bao nhiêu
tầng lớp nông dân ? ư kiến cho rằng tất cả
công nhân viên, cán bộ các cơ quan nhà nước
đều thuộc giai cấp công nhân có thỏa đáng không
? Những người làm thuê cho các doanh nghiệp tư
nhân, liên doanh với nước ngoài có hoàn toàn giống
như công nhân các doanh nghiệp nhà nước không ? Có
thể hiện nay có những lớp người không
thể quy là nông dân hoặc công nhân ? Dân nghèo thành thị có
phải là một giai cấp không ? Có cần phải
thừa nhận có một lớp người làm các
nghề tự do như nhà báo, thầy thuốc, văn
nghệ sĩ..., và những người đó có phải là
nhân dân lao động hay không ? Rơ ràng hiện nay xuất
hiện nhiều nhóm xă hội khác nhau ở nông thôn cũng
như ở thành thị. Ta cần phân tích và miêu tả nó
như thế nào để làm nền tảng cho ư thức
giai cấp hiện nay cho thật phù hợp. Không làm
việc này mà chỉ ḥ hét lập trường quan
điểm để rồi có người chê là giáo
điều, bảo thủ th́ lại giận. Tóm lại,
phải thể hiện rơ sự tôn trọng lư thuyết
giai cấp của Mác-Lênin ở vấn đề này
một cách thiết thực như vậy. Đảng
cần tập trung tinh lực, thời gian, trí tuệ, và
tiền của vào những công việc nghiên cứu mà
kết quả của nó đem lại điều kiện
tốt đẹp cho sự lănh đạo chính trị
của Đảng, nâng cao chất lượng lănh
đạo của Đảng.
***
Chủ
nghĩa Mác-Lê về vấn đề giai cấp gồm
nhiều vấn đề sâu rộng. Có thể có nhiều
cách diễn giải tốt hơn (tôi không nói đúng
hơn, v́ có nhiều cách giải thích đúng và cái ǵ là
đúng nhất là điều chưa thể có câu trả
lời). Tôi đă được biết những ư
kiến thảo luận chung quanh vấn đề giai
cấp vô sản và sức mạnh của giai cấp vô
sản quốc tế. Có ư kiến cho rằng cái lư
thuyết của Mác dẫn Mác đến chỗ Mác
phải có kết luận như vậy. Chứ thực ra
xă hội loài người đang biến động, và
sự biến động này chắc chắn không khớp
với những tiên đoán của Mác. Thật là mênh mông.
Tôi chỉ dám đứng ở ngoài ngơ mà nh́n vào thôi. Tôi không
đủ sức diễn giải được. Nhưng
những ǵ tôi đă trải qua và nghiệm thấy, tôi
thấy rơ trong xă hội ta có một sự hiểu biết
vấn đề này quá giản lược và trong quá tŕnh
vận dụng sự hiểu biết ấy vào cuộc
sống th́ có nhiều biến dạng. Những biến dạng
đều sinh ra những tai hại trong quan hệ xă
hội và chính sách. Tôi cũng là người góp phần vào
sự biến dạng đó. Nay tôi viết bài bút kư này
với tinh thần phê b́nh rất thành thật, tôi mong có
thể t́m được một bài học chung cho
đời. Giờ đây, tôi thấy rất rơ là nếu
chỉ biết chủ nghĩa Mác thôi th́ chưa đủ,
dù cho nó có hay đến bao nhiêu đi nữa, th́ vẫn
cứ cần phải đọc thêm để có
được những hiểu biết về các học
thuyết, các triết học khác, của cả
phương Đông lẫn phương Tây.
II.
Chung quanh việc Đảng
Tôi
được kết nạp vào Đảng cộng
sản hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1940, lúc
tôi 17 tuổi. Lần thứ hai vào năm 1943, trong nhà tù
Sơn La. Lúc ấy tôi được chi bộ nhà tù Sơn
La kết nạp lại, sau khi theo dơi, thử thách. Anh Lê
Đức Thọ là người giới thiệu tôi
để kết nạp. Từ bấy đến nay
đă 58 năm, trải qua nhiều sự kiện lịch
sử khác nhau:
*
Những năm tháng vận động quần chúng bí
mật để xây dựng lực lượng tổng
khởi nghĩa, giành chính quyền.
*
Những năm tháng kháng chiến chống Pháp với
những chiến dịch và kết thúc bằng chiến
dịch lớn Điện Biên Phủ.
*
Những năm tháng đất nước bị chia
cắt, tôi sống trong hoàn cảnh ḥa b́nh ở miền
Bắc với những sự kiện: cải cách ruộng
đất, hợp tác hóa nông nghiệp, quân đội
học tập và tập luyện.
* Tôi
lại được tham gia kháng chiến ở miền
Nam khoảng 10 năm (1965-1974).
*
Rồi tôi lại được sống trong thắng
lợi và ḥa b́nh, tiếp xúc nhiều với văn nghệ
sĩ, học tập được nhiều ở
giới trí thức văn hóa, văn nghệ.
*
Suốt từ năm 1960 đến năm 1992 tôi liên
tục là ủy viên trung ương Đảng 4 khóa.
Do
đó, tôi tự cho rằng tôi có đủ điều
kiện để nhận biết sự biến
động, sự chuyển biến vận mệnh
của Đảng, và có thể có một nhận xét về
những sự chuyển biến đó.
Rơ ràng,
Đảng từ những năm 1940 chỉ có mấy ngh́n
đảng viên, nhưng Đảng có ảnh hưởng
rất lớn và rất rộng trong nhân dân. Nhân dân ai
cũng biết có Đảng cộng sản. Hướng
về Đảng cộng sản. Những lời kêu
gọi và ư kiến lănh đạo của Đảng
đều hết sức đơn giản, dễ
hiểu, nhưng đều lay động ḷng người
sâu sắc (cả trực tiếp lẫn gián tiếp).
Đảng đă có nhiều ư kiến lănh đạo
đưa đất nước vượt qua
được nhiều thử thách và bước ngoặt
hiểm nguy, đi tới thắng lợi ngày nay:
độc lập, thống nhất đất
nước.
Có
một nhận xét của không ít người là mỗi khi
Đảng gắn với nhân dân, gắn với dân
tộc, suy nghĩ và hành động phù hợp với suy
nghĩ và nguyện vọng của nhân dân th́ Đảng
thắng lợi rất vẻ vang. Ngược lại, khi
Đảng làm theo, học tập theo một
"Đảng anh em" nào đó, mà kinh nghiệm du
nhập không phù hợp với hoàn cảnh dân tộc và
đất nước th́ đều có những bài học
cay đắng. Cuộc cải cách ruộng đất và
một số vụ trấn áp trong Đảng đă
để lại nhiều vết thương sâu và chác c̣n
hậu quả lâu dài nếu không có cách nào thanh toán đi
được. Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam là một lịch sử thắng lợi vẻ
vang. Nhưng không phải chỉ có thắng lợi vẻ
vang, mà có những lúc, những việc, gây tổn thất
và đau xót trong Đảng và nhất là trong nhân dân. Có
những sự kiện mà có lẽ hàng trăm năm sau
những nhà làm sử sẽ đánh giá lại. Khoảng
cách thời gian có thể cho ta cái nh́n khách quan hơn và
đúng đắn hơn. Không thể nóng vội hơn
được. Nhưng không thể v́ thế mà đi
đến chỗ coi Đảng cộng sản chỉ là
một lực lượng tàn bạo, chỉ có đàn áp và
làm hại nhân dân, làm hại dân tộc, cần phải
đánh đổ và thay bằng lực lượng khác.
Cách nh́n nhận như thế là của những đầu
óc thù địch, thiên lệch, không thể chấp nhận
được.
Thực
tế hiện nay không có lực lượng nào thay thế
được Đảng cộng sản. Lịch sử
của Đảng gắn liền với lịch sử
dân tộc. Ai nh́n lịch sử dân tộc mà tách khỏi
lịch sử Đảng cộng sản là không
được. Đến nay có thể thấy h́nh ảnh
Đảng cộng sản là h́nh ảnh một cây cổ
thụ xum xuê, thân h́nh lực lưỡng, gốc rễ sâu
chắc. V́ Đảng có đă hơn hai triệu
đảng viên. Đảng có những tổ chức
quần chúng: công, nông, thanh, phụ, bao gồm nhiều
chục triệu hội viên tích cực ủng hộ
Đảng và sẵn sàng nghe theo Đảng.
Nhưng
cũng có thể có một nhận xét là Đảng ngày nay
tuy đông và mạnh như thế, nhưng nhân dân nói chung
không gần Đảng hơn mà lại xa hơn. Ḷng tin
đối với Đảng giảm sút nghiêm trọng,
nếu không muốn nói là ḷng tin ấy đă mất
hẳn. V́ vậy có thể nói tuy cây Đảng bây giờ
to lớn xum xuê về số lượng, nhưng thân cây và
gốc cây có mang các bệnh hoạn nào đó mà chưa
được chẩn đoán đúng để chữa
trị.
Ngay
từ khi gia nhập Đảng, tôi đă thấm nhuần
những nguyên lư về việc xây dựng một
Đảng kiểu mới - một đảng chiến
đấu, là đội quân tiên phong và đội quân
chiến đấu của giai cấp công nhân. Đảng
cộng sản vừa là của giai cấp công nhân, vừa
là của toàn dân tộc. Đảng cộng sản là
một đảng kiểu mới so với những
đảng chính trị trước năm 1930, trong đó
có Quốc Dân Đảng của anh hùng Nguyễn Thái
Học. Những đảng ấy không thiếu tinh
thần yêu nước và đức hy sinh, nhưng có
nhiều nhược điểm về tổ chức
đảng, không thể trở thành một sức mạnh
lớn đưa cách mạng tới thành công. Đảng
cộng sản là một đảng chiến đấu,
cho nên mỗi đảng viên phải là một chiến
sĩ, một người cách mạng chuyên nghiệp.
Điều đó vừa là vinh dự lớn vừa là trách
nhiệm nặng nề. Ngày nay Đảng đang lănh đạo
sự nghiệp phát triển đất nước và lănh
đạo một bộ máy nhà nước và một bộ
máy xă hội khổng lồ. Việc thảo luận và phân
tích tính chất chính trị của Đảng có một ư
nghĩa to lớn. Không thể cho rằng tính chất
của Đảng vẫn y nguyên như những năm
trước năm 1945 và trong hai cuộc chiến tranh
được. Nếu cứ giữ cái quán tính trong suy
ngẫm từ mấy chục năm cho đến bây
giờ để xử lư các vấn đề hiện
tại về xây dựng Đảng th́ chắc chắn
sẽ có sai lầm, hoặc ít nhất là không có hiệu
quả.
Nguyên
tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ
bản của Đảng cộng sản. Nguyên tắc này
làm nên sức mạnh của Đảng. Nó có những
nguyên tắc chính yếu như sau:
*
Thiểu số phục tùng đa số.
*
Cấp dưới phục tùng cấp trên.
* Toàn
Đảng phục tùng Đại hội và Ban chấp hành
trung ương.
Tất
cả đều xoay quanh chữ "phục tùng".
Sự phục tùng này đáp ứng yêu cầu thống
nhất ư chí, thống nhất tư tưởng và
thống nhất hành động. Sự thống nhất
này tạo nên sức mạnh to lớn. V́ vậy sự
phục tùng này phải là vô điều kiện. Trong
mấy chục năm tôi là người thực hiện
sự phục tùng này rất tự nguyện và luôn phấn
khởi. Tôi cũng là người đ̣i hỏi cấp
dưới phục tùng vô điều kiện. Sự
phục tùng vô điều kiện này trong chiến tranh
tạo nên một sự thông suốt tốt đẹp
trong sự chỉ đạo và chỉ huy và mỗi ư
tưởng chỉ đạo lập tức biến thành
sức mạnh hành động trong toàn đơn vị,
hay toàn Đảng. V́ vậy, nguyên tắc này không thể
chấp nhận bất cứ một sự phản
đối nào, một sự phê phán nào, thậm chí một
sự nhận xét nào. Và như thế ư kiến cấp trên
bao giờ cũng đúng, luôn luôn đúng, và chỉ có
đúng mà thôi! Điều này có hệ quả tất
yếu của nó là sinh hoạt trong Đảng về
thực chất chỉ là sự quán triệt và phục tùng
ư kiến cấp trên.
Trong
chiến tranh, do điều kiện đất nước
và điều kiện xă hội có những đặc thù
của nó, nguyên tắc nói trên là chấp nhận
được. Nhưng ngày nay, khi t́nh h́nh đất
nước và xă hội đă biến đổi, hoàn toàn
khác xa hoàn cảnh thời chiến, do vậy khi sự quán
triệt nói trên gặp phải những nội dung mơ
hồ và cũ kỹ th́ sinh hoạt trong Đảng không
thể có chất lượng được. Có ǵ buồn
hơn khi giá trị một ư kiến không phụ thuộc
vào chất lượng ư kiến đó mà phụ thuộc
vào người phát biểu ư kiến đó là ai, thuộc
cấp bậc nào, và ư kiến đó phục tùng ư kiến
nào. Một nhà trí thức văn hóa nói với tôi nhận xét
của ḿnh một cách thẳng thắn như sau: " Hôm
trước anh chưa là ủy viên trung ương th́ anh
không biết cái ǵ hết. Hôm nay anh đă là ủy viên trung
ương rồi th́ anh biết rất nhiều, rất
nhiều người phải hỏi anh, xin ư kiến anh, và
thế là tự nhiên anh cũng có rất nhiều ư kiến
chỉ đạo để mà phân phát, anh buộc phải có
nhiều ư kiến để mà cho". Tôi thấm cái câu
ấy lắm, càng ngày càng thấm thía. Nhiều phen tôi
rất ngượng và tự xấu hổ với ḿnh v́
những lời khen tặng, về những ư kiến
"rất sâu sắc", "sáng rơ" của ḿnh.
Thực
hiện điều nói trên th́ tự nhiên nảy sinh mặt
trái của nó. Mặt trái này lại tiếp tục phát
triển và ta thấy những kết quả tất
yếu như sau: Một t́nh trạng bao cấp về
tư duy, tư tưởng (như một văn nghệ
sĩ quá cố đă nói). Mỗi người đều
không phải là một chủ thể tư duy, v́ đă có
cấp trên tư duy hộ, v́ cấp trên bao giờ cũng
đúng, cấp dưới chỉ cần chờ ư kiến
chỉ đạo, hết ư kiến này cấp trên lại
cấp cho ư kiến khác. Cấp dưới có tư duy th́
chỉ là tư duy để chấp hành. Mọi ư nghĩa
sáng tạo trong tư duy hầu như bị triệt tiêu.
Các văn nghệ sĩ chân chính thẩy đều bất
b́nh và không chấp nhận sự bao cấp về tư duy
và tư tưởng. V́ mọi người chỉ cần
nghĩ và nói theo một khuôn, một kiểu, một câu là
được rồi, là dễ sống hơn rồi, th́
c̣n cần ǵ đến văn học nghệ thuật
nữa. T́nh trạng này mâu thuẫn với t́nh trạng b́nh
thường của cuộc sống. V́ cuộc sống
vốn có bản chất sinh động và phong phú. Hiện
nay, cả người trẻ lẫn người già
đều ngấy đến tận cổ những
cuộc họp có những diễn văn nhắc đi
nhắc lại nhiều lần một số khẩu
hiệu cũ kỹ. T́nh trạng này làm tệ liệt
mọi sự sinh động và hào hứng trong sinh
hoạt. Trước đây, trong cách mạng và chiến
tranh, mỗi lần hội họp nhau lại là có những
vấn đề mới phải giải quyết, nhiệm
vụ mới phải hoàn thành. Ngày nay không có điều
đó nữa.
T́nh
trạng nói trên tất yếu dễ đến một câu
trả lời tiêu cực (một cách không thể tránh
được câu hỏi: "Đảng là ai?",
mỗi khi người ta nói "ư Đảng" là
thế này, "chủ trương của Đảng"
là thế nọ, "Đảng muốn" như
vậy... Trong thực tế câu trả lời hiển nhiên
là: Đảng là một nhóm người quan trọng trong
cấp ủy và tập trung hơn nữa, là ông Bí thư.
Việc ǵ mà ông Bí thư hoặc một nhóm người
trong cấp ủy muốn, tức là Đảng muốn.
Chẳng lẽ nói cái ǵ của Đảng cũng có nghĩa
là có ư kiến của hơn hai triệu đảng viên ?!
Mỗi đảng viên b́nh thường phải làm theo ư
kiến và mệnh lệnh của Đảng thể
hiện qua các nghị quyết, và không được
tự coi ḿnh là Đảng. Nhưng v́ là tập trung dân
chủ, cho nên vai tṛ của bí thư và cấp ủy
tất nhiên là quan trọng, không thể khác được.
Thế mà ở một số cấp có một số
đồng chí bất cứ lúc nào cũng nói năng và hành
động như thể các đồng chí ấy thay
mặt Đảng và nhân danh Đảng. Vậy
Đảng là các đồng chí ấy rồi c̣n ǵ,
"lôgích" quá rồi c̣n ǵ?! C̣n phải Đảng là ai
làm ǵ nữa!
- T́nh
trạng nói trên cũng đưa tới một hệ
quả hiển nhiên là sùng bái cá nhân. Sùng bái cá nhân không
phải chỉ là một tệ nạn tạm thời và
của riêng Đảng cộng sản Liên Xô. Nó là kết
quả tất yếu của tập trung dân chủ. V́ bí
thư và một số đồng chí chủ chốt là quan
trọng nên hàng ngày phải đề cao vai tṛ của các
đồng chí ấy, phải ca ngợi các đồng chí
ấy, phải coi từng câu nói của các đồng chí
ấy như ánh sáng soi đường, phải trích
dẫn những câu ấy để thêm sức nặng cho
các văn kiện. Phải bảo vệ uy tín cho các
đồng chí ấy, phải khôn khéo dập tắt
những nhận xét có hại cho các đồng chí ấy.
Cũng v́ lẽ đó mà một cán bộ quan trọng
về tư tưởng - văn hóa của Đảng
đă phê phán việc các báo đưa tin về chuyện
đời tư của tổng thống Mỹ. Cán bộ
này lo cho tổng thống Mỹ mất uy tín hơn cả
nhân dân Mỹ, v́ nhân dân Mỹ được thông báo
nhiều chi tiết gấp trăm lần báo chí ta.
Chuyện cứ như đùa mà có thật. Nói về vai tṛ
của các đồng chí lănh đạo chủ chốt, ai
cũng thừa nhận nó có sự cần thiết thực
sự trong cuộc sống, nhưng nếu chỉ biết
có thế mà không cần có những cơ chế giới
hạn nó th́ mặt trái của nó tất yếu phải
dẫn tới chỗ làm hư hỏng cán bộ, và tai
hại hơn nữa là nó mang lại nhiều điều
khốn khó cho đảng viên thường và nhân dân.
-
Tập trung dân chủ trong Đảng đă có những
điều khúc mắc, thế mà lại đem nó áp
dụng cho toàn xă hội th́ c̣n khúc mắc ghê gớm
đến chừng nào ? Trong khi đó th́ chúng ta đang
nhằm tới mục tiêu là một xă hội công bằng
và văn minh, cũng tức là một xă hội có tự do
và dân chủ. Cái tập trung dân chủ sống trên nền tảng
tâm lư tiểu nông và tâm lư tôn ti trật tự của xă
hội phong kiến th́ lại càng có sự biến dạng
và phát triển mặt trái nhiều hơn. Ngay trong thời
gian hai cuộc kháng chiến, những lời kêu ca về
tệ nạn cấp bậc cũng không ít. Tệ nạn
quá lệ thuộc vào cấp bậc lại c̣n phát triển
mạnh mẽ hơn nữa trong môi trường bộ máy
nhà nước nằm trong tay Đảng.
-
Nhiều ư kiến cho rằng sở dĩ có tham nhũng là
v́ có "một bộ phận (nhỏ) thoái hóa và biến
chất". Tôi cho là không phải. Sở dĩ có tham
nhũng và càng chống lại càng tràn lan là v́ thể
chế của ta tạo ra điều kiện cho những
người có quyền lực, dù nhỏ, cũng có thể
dựa vào quyền lực đó mà mưu lợi cho ḿnh. Ta
thiếu một cơ chế có "phanh hăm" những
người có quyền lực, thiếu sự giám sát
những người có quyền lực đó, cho nên không
thể chống tham nhũng được.
-
Vấn đề trên đây lại có liên quan tới quan
niệm về luật pháp. ở Việt Nam có một
nhận thức phổ biến là: luật pháp làm ra chủ
yếu để cho dân, dân phải chấp hành. Trong các
nguyên nhân của t́nh trạng tiêu cực hoặc các tệ
nạn thông thường người ta hay nói đến
nguyên nhân là sự hiểu biết luật pháp của dân c̣n
thấp. Tôi thấy cần phải nhận thức
ngược lại. Luật pháp làm ra để cho các
cơ quan nhà nước. Người nhà nước
phải là người hiểu biết đầy
đủ về luật pháp và chấp hành nghiêm chỉnh
các điều luật pháp quy định. ở
nước ta, h́nh như các cơ quan và người
của các cơ quan nhà nước được châm chước
về luật pháp và hay tuỳ tiện vận dụng các
điều luật đă được quy định.
ở các nước dân chủ (mà ta thường miệt
thị gọi là dân chủ tư sản) người ta
sống khác, ở đó thực sự có sự b́nh
đẳng của mọi người trước
luật pháp. Tổng thống cũng phải ra khai
trước các thẩm phán, thề trước luật
pháp, nếu khai man, nói dối, có thể bị luận
tội và phế truất. ở nước ta cũng có
nhiều văn bản ghi rơ "Mọi công dân đều
b́nh đẳng trước luật pháp". Nhưng đó
là nói để mà nói, trong thực tế lại không như
vậy.
- Tôi có
đọc cuốn "Hoàng Việt Luật Lệ",
cuốn sách giới thiệu luật Gia Long. Trong bộ
luật Gia Long có những khoản quy định h́nh
phạt, kể cả h́nh phạt cho quan ṭa ra án phạt sai
(nhẹ quá hoặc nặng quá), tức là luật bắt
cả người xử sai cũng phải chịu
phạt, với những h́nh phạt được quy
định rơ. Đủ thấy trong lịch sử
nước ta đă từng có những điều luật
tiến bộ, đầy tính nhân văn. H́nh như ít có ai
chú ư tới điểm này.
- Nói tóm
lại, tập trung dân chủ có có nhiều ưu
điểm trong đấu tranh cách mạng và trong chiến
tranh. Nhưng cứ kéo dài măi th́ nó sẽ phát triển
biến dạng từ mặt trái của nó về phía
bệnh hoạn. Sự biến dạng ấy dẫn
đến những hệ quả tai hại lớn:
tạo nên một chế độ tập trung quan liêu,
triệt tiêu dân chủ, triệt tiêu tính tích cực sáng
tạo của các chủ thể cá nhân, tạo điều kiện
cho sự phát triển đặc quyền, đặc
lợi, và đó là nguyên nhân dẫn đến tệ
nạn tham nhũng.
-
Mỗi nguyên tắc đều có ư nghĩa tích cực trong
môi trường của t́nh thế và giai đoạn. Không
có nguyên tắc hoặc nguyên lư nào luôn luôn đúng và măi măi
đúng. Nhu cầu phân tích và thảo luận lại vấn
đề tập trung dân chủ là cần thiết. Đó
không phải là yêu cầu "phủ nhận" hay
"phản động" như có một số kẻ
dốt nát thường nói. Không ai tán thành dân chủ vô chính
phủ, nhưng cũng không ai chịu được
sự tập trung quan liêu. Tôi rất ngán những
người nói lăng nhăng về vấn đề này.
***
Về
phương thức lănh đạo Đảng. Ta hăy
xem lại phương thức "lănh đạo toàn
diện, tuyệt đối, triệt để",
cả về tư tưởng và tổ chức, xem
phương thức ấy phát sinh thế nào và trong
điều kiện nào ? Tôi nhớ lại th́ phương
thức ấy ta học của Đảng cộng sản
Trung Quốc. Đảng cộng sản Trung Quốc nêu lên
phương thức đó, nhấn mạnh tới việc
Đảng xây dựng và lănh đạo lực
lượng vũ trang. Đảng phải trực
tiếp nắm chặt lực lượng vũ trang cách
mạng, không thể để cho một lực
lượng chính trị nào có ảnh hưởng trong các
lực lượng vũ trang cách mạng mà Đảng
cộng sản xây dựng và lănh đạo.
Tuy
từ năm 1945, khi chính phủ ban sắc lệnh 71
về xây dựng lực lượng quân đội
quốc gia, tôi đă tích cực đóng góp vào việc
đấu tranh cho chế độ công tác chính uỷ trong
quân đội, nhưng tôi chỉ mới nhận thức
sơ lược và đơn giản là quân đội th́
phải có công tác chính trị, thế thôi. Đó là nhờ
đọc được về điều đó trong vài
cuốn sách mỏng mà anh Văn (đồng chí Vơ Nguyên Giáp)
trao cho tôi. Măi tới năm 1950, tôi được làm
việc trực tiếp với quân giải phóng nhân dân Trung
Hoa ở chiến dịch biên giới, và sau đó nhiều
năm làm việc với các đồng chí cố vấn
Trung Quốc, nhận thức của tôi mới
được bồi bổ và nâng cao thêm. Viết
đến đây, tôi thấy cần phải nói rằng
bất luận là thế nào, tôi cũng vẫn biết
ơn Đảng cộng sản Trung Quốc, giải phóng
quân Trung Quốc trong sự nâng cao nhận thức quân
sự và chính trị. Như vậy rơ ràng là phương
thức (hay nguyên tắc) lănh đạo này đă phát sinh
trong việc lănh đạo quân đội. Nó đă tồn
tại và phát triển suốt trong hàng chục năm
chiến tranh. Mà trong chiến tranh th́ lănh đạo
chiến tranh và lănh đạo quân đội cũng là
một mà thôi.
Từ
phương thức này mà Đảng trở thành
Đảng của quyền lực tối cao. Đảng
ta vẫn phê phán và chống lại ách "Đảng
trị", nhưng trong thực tiễn th́ Đảng
thực hành triệt để nhất sự Đảng
trị. Đảng là nơi quyền lực tối cao, mà
nơi thay mặt Đảng và nhân danh Đảng là
Bộ Chính trị và một số nhỏ đồng chí
trong Bộ Chính trị. Bộ Chính trị quyết
định mọi việc của chính phủ, của Quốc
Hội, phê duyệt mọi việc của các tổ
chức xă hội, quyết định tất cả nhân
sự của tất cả các cơ quan, kể cả
cơ quan dân cử. Chẳng thế mà trong dân gian có câu
"Đảng cử, dân bầu". ấy là v́
Đảng đă thực hành nguyên tắc lănh đạo
tuyệt đối cả về tư tưởng và tổ
chức. Cho nên các cơ quan của Đảng, đặc
biệt là các cơ quan tuyên huấn và tổ chức,
mới trở thành cơ quan quyền lực đứng
trên toàn xă hội. Cơ quan tuyên huấn trước đây
chỉ làm việc tuyên truyền và huấn luyện trong
Đảng, tạo điều kiện cho các đảng
viên hoạt động trong nhân dân, th́ nay là cơ quan tư
tưởng - văn hóa nắm và chi phối toàn bộ các
tổ chức thông tin, báo chí, các tổ chức văn
nghệ. T́nh h́nh này đă xóa bỏ nhiều điều
trong Hiến pháp, mà Hiến pháp ở nước ta th́
đă được chính Đảng cộng sản,
chứ không phải ai khác, chỉ đạo và quyết
định trước khi đưa ra Quốc Hội.
Vậy th́ rơ ràng ta không có dân chủ. Tuy thế, vẫn có
người nói rằng nhân dân ta hơn 90 % đi bầu
Quốc Hội, ứng cử viên và đại biểu
Quốc Hội đi gặp gỡ cử tri trước
và sau khi họp Quốc Hội... rồi lớn tiếng
tự hào: Liệu trên thế giới này có nơi nào dân
chủ bằng Việt Nam ???
Khi tôi
hoạt động ở Quốc Hội, tôi có dịp
thấy rơ ḷng dân. Đoàn đại biểu của Uỷ
ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội do tôi làm
chủ nhiệm khi đi các địa phương
thường được giới thiệu rất trang
trọng. Cán bộ giúp việc chúng tôi ở Văn pḥng
Quốc Hội khi đến các địa phương
thường rất tự hào và tự tin giới thiệu
tôi với chức danh ủy viên Ban chấp hành trung
ương Đảng. Khi tôi hết nhiệm kỳ khóa VI
của Đảng, không c̣n ở trong Trung ương
nữa, th́ khi công tác các đồng chí giúp việc hết
sức băn khoăn là trong đoàn không có ủy viên trung
ương th́ liệu địa phương có thèm
tiếp hay không? Thế có nghĩa là người ta mặc
nhiên thừa nhận chế độ Đảng trị.
Tôi
thấy ḷng dân thế này: khi chúng tôi tiếp xúc với
cử tri, được người ta giới thiệu
với các chức danh: chủ tịch, chủ nhiệm,
ủy viên... th́ cử tọa vỗ tay lẹt đẹt,
tỏ vẻ lịch sự một cách lạnh lùng.
Nhưng khi trong đoàn chúng tôi có những văn nghệ
sĩ có tác phẩm nổi tiếng, tôi tranh thủ giới
thiệu bổ sung: đây là tác giả "Điêu Tàn",
đây là tác giả "Băo Biển", tác giả
"Nổi Gió", tác giả "Nổi Lửa Lên Em"
và nói đùa rằng trong đoàn chúng tôi toàn những gió, băo
và lửa th́ cử tri tỏ rơ một nhiệt t́nh hết
sức nồng nàn, và những đại biểu đó
được mọi người đón tiếp, t́m
gặp về sau rất lâu. Mới thấy là nhân dân
biết rất rơ giá trị của từng đại
biểu, họ rất hoan nghênh và yêu mến những
người mang đến cho họ một giá trị nào
đó, chứ c̣n chức vụ chỉ làm cho họ ngán
ngại mà thôi. Phải đáp ứng trúng ḷng dân mới
gọi là dân chủ, gọi là để dân làm chủ. C̣n
chỉ hô khẩu hiệu và cổ động rầm
rộ cái gọi là xă hội hóa, coi đó là để dân
làm chủ th́ hiệu quả ắt ngược lại.
Càng xă hội hóa nhiều th́ dân càng phải đóng góp
nhiều hơn: nào là giáo dục,y tế, văn hóa, nào là
đền ơn đáp nghĩa, chống tệ nạn này
tệ nạn khác vv... Nước ta chưa thể coi là
nước có dân chủ, mà là một nước không dân
chủ. Phương thức lănh đạo toàn diện và
tuyệt đối đi ngược lại với xu
thế dân chủ hóa là nguyên nhân sâu xa của t́nh trạng
không có dân chủ.
Phương
châm toàn diện tuyệt đối ấy c̣n liên quan
tới một phương châm khác là phương châm
"chính trị là thống soái". Phương châm này do
Mao Trạch Đông đề xướng, Đảng ta
cũng tiếp nhận phương châm này một cách sâu
sắc. V́ yêu cầu giành thắng lợi cho cách mạng là
yêu cầu lớn và bức thiết, yêu cầu "tất
cả cho chiến thắng" của chiến tranh
cũng vậy. Mục tiêu của chiến tranh cách mạng
là mục tiêu chính trị, tất yếu chính trị là
cực kỳ quan trọng. Tất cả mọi hoạt
động đều phải nhằm vào mục tiêu
đó. Cái ǵ quan trọng đều có ư nghĩa chính
trị. Nhiệm vụ nào quan trọng, hành động nào
quan trọng đều là nhiệm vụ chính trị, hành
động chính trị hoặc hành động cách mạng.
Những điều đó đă là những nội dung giáo
dục và động viên rất lớn và là một sự
thật rơ ràng, được lịch sử ghi nhận.
Ngày nay lịch sử đă sang trang. Vậy mà cái
phương châm được áp dụng trong thời
chiến ấy vẫn không hề thay đổi. Tuy không có
sự xác nhận chính thức và công khai phương châm
"chính trị là thống soái" nhưng chỉ cần
theo dơi sinh hoạt xă hội những năm trước đây
cho đến bây giờ th́ thấy rành rành ư tưởng
tuyệt đối hóa chính trị, chính trị hóa mọi
sinh hoạt xă hội. Như vậy, mọi ngôn từ,
mọi hành xử đều phải tuân theo yêu cầu chính
trị, đáp ứng yêu cầu chính trị, chứ không
được tự nhiên, nhi nhiên nữa.
Gần
đây tôi có thời giờ được đọc ít
nhiều về những nguyên lư của tam giáo (Nho, Phật,
Lăo), th́ thấy ra một điều là cả ba đạo
đều chú trọng đến con người và
từng cá nhân con người, đều yêu cầu mỗi
người phải biết phục tùng, đều yêu
cầu mỗi người hoặc là phải diệt dục,
giác ngộ, từ bi, để thoát khỏi mọi nỗi
khổ của cuộc đời đặng đi tới
cơi Niết bàn, hoặc là phải tu tâm dưỡng tính
để trở thành người cao thượng, tử
tế (quân tử), hoặc là phải sống thuận theo
đạo trời, khiêm nhường và quên ḿnh (vô vi). C̣n
chủ nghĩa cộng sản th́ lại yêu cầu mỗi
người phải biết phục tùng và tuân theo chủ
nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản chống chủ
nghĩa cá nhân là hay, là đúng, nhưng đi đến
chỗ triệt tiêu vị thế của cá nhân, đ̣i
mỗi cá nhân phải quên ḿnh đi, chỉ lấy chủ
nghĩa làm lẽ sống của ḿnh, th́ không thể
được. Mỗi con người cá nhân vẫn
phải có cuộc sống riêng, có những nhu cầu, lo
toan và ràng buộc riêng, mà điều đó hàng ngày hàng
giờ chi phối tâm tưởng và cuộc sống riêng
của mỗi người. Mỗi người không
thể chỉ sống với lư tưởng và sống
bằng lư tưởng. Tôi cho rằng đáng lẽ
người cộng sản phải hiểu sâu sắc
điều này, phấn đấu xây dựng một xă
hội mà mỗi người đều có cuộc sống
tốt đẹp, được tự do và hạnh phúc.
Nhưng cuộc sống mà những người cộng
sản tạo nên lại chủ yếu nhằm để
bắt tất cả mọi người phải tin theo và
đáp ứng yêu cầu chính trị của Đảng,
chỉ hướng mọi người vào một mục
tiêu quan trọng là tin tưởng tuyệt đối và ra
sức củng cố, tăng cường vai tṛ lănh
đạo của Đảng, đẩy những
điều đó lên và thiêng liêng hóa chúng thành như
những tín điều của một tôn giáo. Trong khi
ấy th́ người cộng sản lại lớn
tiếng nhấn mạnh quyền tự do không tín
ngưỡng.
Cuộc
sống hàng ngày của mỗi người trong xă hội
hiện nay đầy ắp những yêu cầu chính
trị, một cuộc sống đầy ắp không khí
cổ động và khẩu hiệu. Tôi chẳng có
điều kiện đi đâu để xem thiên hạ
sống ra sao. Tôi chỉ biết chút ít ở một số
ít nước Đông Âu, nhưng tôi có cảm nhận
rằng ở Việt Nam con người sống không
được tự do thoải mái bằng dân các
nước châu Âu, cho dù là những châu Âu cộng sản. Xă
hội Việt Nam có quá nhiều hội họp, quá
nhiều đại hội, quá nhiều diễu hành, cờ
quạt, quá nhiều kỷ niệm, quá nhiều chào
mừng, quá nhiều diễn văn quan trọng và cả
những diễn văn đọc nhầm... Do đó có quá
nhiều sự biểu dương thành tích và quá ít sự
nh́n lại khó khăn và khuyết điểm. Trong hầu
hết các báo cáo ta đều thấy bao giờ khó khăn,
khuyết điểm cũng là số ít, cũng là bộ
phận nhỏ, cũng là tạm thời. Trong khi ấy th́
người ta vẫn nhắc tới một nguyên lư
dạy rằng phải tự phê b́nh nghiêm khắc mới
tiến bộ được. Cuộc sống đầy
rẫy những h́nh thức khoa trương, nó chứng
tỏ ta mắc bệnh h́nh thức chủ nghĩa quá
nặng. Cái ǵ cũng tô vẽ thành "ngày hội của
nhân dân". Thực ra, nhân dân phải miễn cưỡng
đáp ứng yêu cầu chính trị của Đảng,
thậm chí đến bầu cử Quốc Hội
người ta cũng đi bầu phắt đi cho xong. Có
trường hợp một người đi bầu
hộ hàng chục người, nhưng bộ máy tuyên
truyền bộ máy tuyên truyền của ta vẫn miêu
tả ra được là "ngày hội của nhân
dân", trong khi tâm trí mỗi người dân c̣n đang
bận rộn với ngàn nỗi lo toan và nhiều
người c̣n đang rên xiết v́ oan khổ. Và
người mà họ bỏ phiếu bầu có phải do
họ chọn đâu, họ có biết ǵ đâu.
Phương
châm tuyệt đối hóa chính trị c̣n nhiều nhánh
lắm, đó là sự chính trị hóa tất cả mọi
lĩnh vực:
- Chính
trị hóa khoa học. Nghiên cứu khoa học cũng
phải đáp ứng yêu cầu chính trị, đáp ứng
ư kiến chỉ đạo của đồng chí lănh
đạo.
- Chính
trị hóa luật pháp. Sự vận dụng luật pháp
vào việc kiểm sát và xét xử cũng phải đáp
ứng nhu càu chính trị và mức án là do Đảng
chỉ đạo, ṭa án chỉ diễn xuất (lănh
đạo tuyệt đối mà).
- Chính
trị hóa văn hóa văn nghệ. Cái này là tai hại
nhất. Tất cả các tổ chức và hoạt
động văn hóa văn nghệ đều phải là
công cụ, hoạt động tuyên truyền chính trị.
Không c̣n văn học nghệ thuật nữa. Khen hay chê và
trao giải thưởng cho tác phẩm cũng phải
đáp ứng yêu cầu chính trị và Đảng
thường coi việc đó là thành tựu văn
nghệ. Điều này tôi thấy đáng lo lắm. Văn
nghệ Việt nam đang trên đường hấp
hối. Văn nghệ không được độc
lập, không được tự do nẩy nở, th́
chỉ có chết. Chắc có người đọc
đến chỗ này sẽ lại la toáng lên rằng
Trần Độ hạ thấp vai tṛ lănh đạo
của Đảng. Kiểu cách lănh đạo "chính
trị hóa tất cả" đáng phủ nhận
thật. Nó mang lại bao nhiêu tổn thương cho
đời sống một dân tộc, mà với đời
sống của cả dân tộc ấy, Đảng
cộng sản lại là người phải chịu trách
nhiệm hoàn toàn.
- Giáo
dục cũng bị chính trị hóa. Có lúc, nhiều
người (trong đó có tôi) phải la lên rằng sự
dạy văn trong nhà trường không phải để
dạy văn, mà là dậy chính trị. Học sinh không
được học văn chương. Điểm này
đă và đang có sự sửa chữa, nhưng sự
sửa chữa đó cũng lại phải theo yêu cầu
chính trị.
- Kinh
tế cũng bị chính trị hóa nốt. Những
sản phẩm mang lại lợi ích cho dân th́ ít
được nói đến, ngành tuyên truyền chỉ nói
nhiều đến các sản phẩm đáp ứng yêu
cầu chính trị. Ta có quá nhiều công tŕnh và sản
phẩm mang danh hiệu này nọ, quá nhiều công tŕnh
sản phẩm được gắn biển ghi tên, quá
nhiều công tŕnh sản phẩm gắn liền với sự
"chào mừng" sự kiện này khác. Giá trị
của các công tŕnh không ở giá trị sử dụng
của nó mà ở chỗ nó có hoàn thành đúng hạn và có
kịp chào mừng hay không?? Nghe nói có nơi đạt
số lượng lớn trong việc xây dựng "nhà
t́nh nghĩa" đền ơn các bà mẹ anh hùng và gia
đ́nh liệt sĩ, được "trên" khen
ngợi, biểu dương, nhưng những ngôi nhà xây
dựng vội vàng đó chưa kịp sử dụng hoặc
mới vừa sử dụng th́ đă sụp đổ
hoặc hư hỏng. Có người chép miệng phàn nàn,
cho đó là tệ nạn, là hậu quả của tham
nhũng, th́ có người khác an ủi rằng: chuyện
đó là thường, bây giờ đâu chả thế!
Thế th́ phát triển kinh tế làm sao đây?!
Tôi
đă nhiều lần gặp một câu hỏi không trả
lời được, đó là: "Cứ thế này th́
đất nước ḿnh đi đến đâu?". Câu
hỏi này có cả trong những người già và cả
trong những người trẻ tuổi. Có những lúc tôi
đă trả lời: "Đi đến xă hội
chủ nghĩa rồi cộng sản chủ nghĩa chứ
c̣n đi đến đâu nữa!" Tôi trả lời
như vậy là để biến cuộc đối
thoại thành sự đùa cợt, để cho xong
chuyện, với ngụ ư là câu hỏi đó chưa có câu
trả lời. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn
thấy những ư tưởng "chuyên chính vô
sản", "lănh đạo toàn diện, triệt
để", "chính trị là thống soái"...tất
yếu dẫn đến một xă hội không dân chủ,
không có tự do, luôn luôn tụt hậu, đầy sự
bịt bùng và ngu dốt, không có tiền đồ hoặc
tiền đồ rất nguy hiểm. Vấn đề
không phải ở chỗ phủ nhận hay khẳng
định cái này hoặc cái kia, mà là ở chỗ nhận
định cho đúng t́nh h́nh thế giới và trong
nước, để phân tích một cách sâu sắc cho
thấy được những đặc điểm rơ
ràng của t́nh thế mà định ra đường
lối chính sách nhằm đưa đất nước
đi lên.
Cũng
như vậy, vấn đề không quan trọng ở
chỗ vai tṛ lănh đạo của Đảng thấp hay
cao? Và cũng chẳng phải cứ "nêu cao" nó lên
th́ nó sẽ cao, không "nêu cao" th́ nó sẽ thấp. Mà
là phải xem xét xem Đảng nên lănh đạo thế
nào? Việc này một ban chấp hành trung ương
hoặc toàn Đảng cũng không thể giải
quyết được. Đảng ta căn cứ vào
lịch sử lănh đạo cách mạng và chiến tranh
rồi tự hào Đảng là trung tâm trí tuệ của
toàn dân tộc, điều đó đă đúng, nhưng không
thể vĩnh viễn đúng được. Đảng
dù có lớn bao nhiêu th́ cũng chỉ là một bộ
phận của dân tộc. Dù có hơn 3 triệu
đảng viên th́ cũng chưa đủ 1/20 của dân
tộc. Con tôi nó mới nhắc và khen ông Vơ Văn Kiệt
nói một câu hay:"Trong Đảng thiếu nhân tài,
chứ ở ngoài Đảng th́ không thiếu". Đó là
một sự thật. Trong lịch sử hai nước
Trung Quốc và Việt Nam đă có nhiều vua giỏi. Vua
giỏi phần lớn là vua hiền. Vua hiền là vua
biết dùng người tài. Những người tài
thường được nhắc đến là những
thái sư, tể tướng, quân sư, giám nghị,
ngự sử. Những người này được
nhắc đến nhiều hơn các nhà vua. Những nhà
dự báo cho rằng sang thế kỷ 21 vai tṛ của các
chuyên gia cố vấn, các cơ quan tư vấn sẽ ngày
càng quan trọng. Tôi chưa thấy có ai làm dự báo về
vai tṛ của các đảng cộng sản. Đảng
cộng sản Việt nam muốn tiếp tục có vai tṛ
đối với dân tộc, th́ điều chủ yếu
là phải có chính sách khoan dung rộng răi, thu hút và khuyến
khích được nhiều người tài cống
hiến cho đất nước. Nếu làm
được như vậy, sẽ là một sự
cống hiến lớn của Đảng cộng sản
cho dân tộc, giống như trước đây
Đảng đă làm được việc giành thắng
lợi cho dân tộc. Tôi không muốn bàn đến khái
niệm "thế nào là tăng cường sự lănh
đạo của Đảng". Tôi là người
biết rơ vai tṛ của Đảng từ 1940-1975, và tôi
cũng thấy rơ sự vẻ vang của Đảng, và
chính tôi cũng được hưởng sự vẻ
vang đó. Nhưng ngày nay tôi đă tận mắt thấy rơ
rằng t́nh h́nh thế giới và trong nước đă khác
xưa nhiều, v́ kể từ 1975 đến nay th́
cũng đă hơn 20 năm rồi, lư tưởng và
nhiệm vụ của đất nước, của dân
tộc cũng đă khác xưa nhiều lắm.
Do
vậy, sự lănh đạo của Đảng cứ
giữ nguyên như xưa th́ không được nữa. Và
từ đó tôi tưởng tượng ra sự lănh
đạo của Đảng phải như sau:
-
Đảng không nên và không thể đi sâu giải quyết
các vấn đề cụ thể của tất cả các
lănh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục...Mỗi
lĩnh vực đă có nhiều cơ quan khoa học chuyên
nghành chăm lo. Các cơ quan ấy là nơi tập trung
thông tin và kiến thức để làm cơ sở giải
quyết các vấn đề trong lĩnh vực ấy. Các
cấp uỷ của Đảng (kể cả Trung
ương) chỉ nên tập trung tinh lực để bàn
và quyết định những vấn đề
đường lối và chủ trương chính sách, sao
cho những chủ trương chinh sách làm chuyển
động được t́nh h́nh xă hội nói chung và
từng lĩnh vực nói riêng. Rồi cấp uỷ
Đảng giám sát xem các cơ quan chính phủ, các tổ
chức xă hội có thực hiện đúng chủ
trương ấy không. Những chủ trương chính
sách được quyết định phải thiết
thực và tạo hiệu quả rơ rệt, chứ không nên
chỉ có những phương châm và thành ngữ cho hay, cho
kêu để chứng tỏ sự quan tâm của
Đảng và chứng tỏ "Đảng đă có ư
kiến".
Ví
dụ về giáo dục: Đảng chỉ nên quyết
định những chính sách có tính mục tiêu như: - Xóa
nạn mù chữ. - Phổ cập tiểu học. - Bảo
đảm đời sống giáo viên. - Bảo đảm
chất lượng học tập. - Xă hội hóa sự
nghiệp giáo dục nhằm huy động nhiều
sức lực cả tiền của và trí tuệ của các
tầng lớp nhân dân. C̣n chương tŕnh học tập,
tổ chức thi cử, soạn sách giáo khoa, đào tạo
bồi dưỡng cán bộ ra sao...th́ do các cơ quan chuyên
môn bàn bạc và quyết định. Ví dụ về văn
hóa. Có những vấn đề chuyên môn về văn hóa
như vấn đề bản sắc dân tộc, vấn
đề văn nghệ truyền thống,...th́ nên
để cho các cơ quan có các học giả bàn và giải
quyết về lư thuyết cũng như về thực
tiễn. Những vấn đề đó Ban chấp hành
Trung ương có bàn cũng không bàn được, mà cái
cần phải bàn là những chủ trương chính sách
về tự do sáng tác và tự do phê b́nh, chính sách tôn
trọng nhân cách các văn nghệ sĩ. C̣n không nên bàn
chuyện sáng tác thế nào, phê b́nh thế nào. Việc chuyên
môn đó các văn nghệ sĩ đủ sức giải
quyết, và họ giải quyết tốt hơn bất
cứ cấp uỷ nào, chỉ cần họ được
tự do, được độc lập chịu trách
nhiệm về công việc của ḿnh. Không nên để
cho các thứ tổ chức của Đảng tầng
tầng lớp lớp kiểm tra, kiểm soát, bịt
hết mọi đường tự do. Văn hóa mà không có
tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ c̣n có
một thứ văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa
chết. Như thế, càng tăng cường lănh
đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu,
càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà
văn hóa cao đẹp, nếu không nói là không thể có
được.
Về
tổ chức Đảng, tôi cũng lưu ư tới
tổ chức các Đảng đoàn và Đảng ủy
khối. Tổ chức này cũng dựa vào lư thuyết:
"Đảng phải lănh đạo toàn diện và
tuyệt đối" ở các cơ quan chuyên môn, cho nên
ở các cơ quan này nhất thiết phải có
Đảng đoàn. Đảng đoàn th́ lại do các
cơ quan giúp việc của Đảng chỉ đạo
và chi phối. T́nh h́nh này đẻ ra nghịch lư: những
người không làm được thủ trưởng
cơ quan th́ làm bí thư Đảng đoàn và bí thư
Đảng ủy khối. Kết quả là người
kém lănh đạo người giỏi. Lại nữa, khi
có điều tranh luận về chủ trương công
tác hoặc nhân sự th́ ư kiến của cơ quan
Đảng bao giờ cũng là ư kiến mà mọi
người phải tôn trọng. Kết quả là những
người kém hiểu biết về chuyên môn và về
những con người làm việc trong chuyên môn th́ lại
quyết định những vấn đề chuyên môn và
số phận của con người chuyên môn. ở
nhiều cơ quan có chuyện nhân sự kèn cựa, tranh
chấp nhau, và nhiều trường hợp người
thắng thế chiếm ghế lănh đạo là những
người tŕnh độ thấp nhưng được
ḷng các cấp ủy Đảng. Các cấp uỷ
Đảng trở thành nơi tiếp nhận các tranh
chấp, vô t́nh khuyến khích các sự xu nịnh ton hót,
chạy chọt. Thế là khó thực hiện việc
xếp người đúng việc, đúng chỗ, khó
từ bỏ được t́nh trạng mất đoàn
kết, bất công...
Phải
nói rằng nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng
tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xă hội là
ở cơ chế "lănh đạo toàn diện tuyệt
đối" của Đảng. Tôi càng ngẫm nghĩ
và suy ra, càng thấy đúng là như thế! Có thể c̣n
rất nhiều điều phải quan tâm. Bây giờ
bất cứ nh́n vào đâu, nghe nói chuyện ǵ...đều
có thể từ cái nh́n và cái nghe ấy đặt ra rất
nhiều câu hỏi để t́m hiểu, phân tích, và không
dễ ǵ t́m ngay được câu giải đáp.
Chuyện
này không liên quan ǵ đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ
nghĩa đó vẫn c̣n là một học thuyết có giá
trị trong thế kỷ 20 và thế kỷ 21. Bây giờ
sắp sang thế kỷ 21, ta vẫn c̣n phải t́m
hiểu Khổng tử, Lăo tử..., là v́ những học
thuyết có giá trị bao giờ cũng tồn tại lâu
dài, dù cho chúng có những mặt không c̣n thích hợp. Chỉ
có điều không thể lấy học thuyết Mác-Lênin
làm học thuyết duy nhất để xem xét sự
việc, không thể không cho ai nhận xét, phê phán chủ
nghĩa Mác-Lênin, lại tự cho ḿnh có quyền lên án và xóa
bỏ những ai có ư kiến khác với Mác-Lênin.
Kể
ra những điều cần nói về cuộc sống
hiện nay rất dài và rất nhiều. ở đây tôi
chỉ "nh́n lại" những ǵ đă trải
nghiệm, và cũng chỉ là tự ḿnh nói với ḿnh mà
thôi. Không thể nói hết được, tôi chỉ tóm
tắt ở ba điểm:
*
Vấn đề ư thức giai cấp.
*
Vấn đề vô sản chuyên chính.
* Đi
liền đó là vấn đề tập trung dân chủ.
Về
phương thức "lănh đạo toàn diện
tuyệt đối, triệt để", kèm theo đó
là phương châm "chính trị là thống soái".
Những điểm này trong lịch sử đă có thời
phát huy tính tích cực của nó. Nhưng mỗi sự
vật- có mặt tích cực th́ cũng có mặt tiêu
cực của nó. Khi t́nh h́nh đă thay đổi, mà không
nh́n lại thực tế để thay đổi, cứ
giữ nguyên th́ nó lại trở thành sự trở ngại
ngày càng lớn cho sự phát triển của đất
nước và xă hội. Ḍng suy ngẫm cứ chảy quanh
những vấn đề về t́nh h́nh xă hội th́
bất tận. Ví dụ như đối với câu
trả lời các câu hỏi:
* Có
chống được tham nhũng hay không?
* Có
chống được t́nh trạng mất đoàn kết
nội bộ hay không?
* Có
chấm dứt được t́nh trạng kém chất
lượng sinh hoạt Đảng hay không?
* Có
chấm dứt được t́nh trạng mất ḷng tin
vào Đảng hay không?
* Có
chấm dứt được các tệ nạn buôn
lậu, ma tuư trộm cướp hay không? vv...và vv...
Tôi có
thể tự trả lời một cách thẳng thắn
rằng: "Nếu cứ dùng nhùng h́nh thức và
phương pháp cũ th́ dứt khoát là không chống
được, không chấm dứt được các
tệ nạn xă hội, c̣n ngược lại nữa là
khác. Tôi cho rằng phải có sự phân tích và nhận
định ở tầm triết học, ở tầm
học thuyết mới có thể t́m ra bản chất
của các vấn đề. Có t́m ra đúng bản chất
của vấn đề mới có cách giải quyết
đúng. Nó giống sự chuẩn đoán bệnh. Tôi
được biết rất nhiều trường
hợp bệnh nhân chỉ mắc bệnh đơn
giản, nhưng thầy thuốc chuẩn đoán sai làm
bệnh nhân khuynh gia bại sản, thậm chí tử vong.
Muốn khỏi bệnh phải "gặp thầy
gặp thuốc", nghĩa là được chuẩn
đoán chính xác. Hiện nay nếu cứ loay hoay với các
bài bản cũ th́ chúng ta vẫn loay hoay trong
đường hầm không ánh sáng. Tŕnh độ nhận
thức của loài người ngày nay đă cao và càng ngày
càng cao, không thể dùng bất cứ một hay hai học
thuyết nào thay thế được.
Nh́n vào
thực trạng đất nước ta hiện nay tôi
thấy Đảng cộng sản không phải là nơi
tập trung và thu hút được tinh hoa trí tuệ
của dân tộc và cũng không có một cá nhân kiệt
xuất nào có thể đủ hiểu biết và sáng
suốt để giải quyết vấn đề
vận mệnh của dân tộc. Đáng lẽ
Đảng cộng sản có thể làm được
một sự nghiệp vẻ vang là quy tụ, tập
hợp và phát huy được hết trí tuệ và tài
năng của cả dân tộc. Làm được việc
đó th́ mới thật xứng đáng với vai tṛ và
lịch sử của Đảng. C̣n nếu cứ loay hoay
hô hào và dùng mọi thủ đoạn "kể cả
dối trá và lừa bịp" để tăng
cường và củng cố hoặc giữ vững vai tṛ
của ḿnh th́ đều là không được.
Muốn
vậy, Đảng cộng sản có thể làm
được một việc rất vĩ đại là
xây dựng một đất nước, một xă hội
dân chủ mà Đảng là một thành viên trong đó.
Đảng có thể làm được điều đó
và Đảng sẽ vẻ vang. Dân chủ, dân chủ và dân
chủ!! Mỗi người trong xă hội đều có
quyền tự do ngôn luận và tự do mưu cầu
hạnh phúc. Đảng cần phải khắc phục
những nhận thức máy móc và sai lầm như: "dân
chủ phải có lănh đạo". Câu nói đó có
nghĩa là dân chủ phải "không dân chủ". Lănh
đạo giỏi nhất là đảm bảo
được dân chủ cho mọi người. Không
phải Đảng là người có sẵn cái dân chủ
trong túi rồi th́ nay Đảng ban phát cho mọi
người. Cũng không phải là dân th́ phải quỵ
luỵ xin xỏ từng tí dân chủ một ở
Đảng. Đảng chỉ là một bộ phận
nhỏ của nhân dân, của dân tộc. Đảng tự
nguyện lănh đạo để đảm bảo và mang
đến lợi ích cho nhân dân và dân tộc, Đảng là
công bộc của nhân dân, như Hồ Chí Minh đă nói. V́
vậy không thể bất cứ lúc nào và bất cứ
ở đâu Đảng cũng tự nhận là
người thay mặt nhân dân. Bất cứ lúc nào và
bất cứ ở đâu Đảng cũng không
được nhân danh nhân dân mà cai trị nhân dân. Như
thế mới là phát huy truyền thống anh hùng của Đảng
và của dân tộc. Cho đến nay Đảng đă có
những lời nói hết sức tốt đẹp về
dân chủ:
* Nhà
nước của dân, do dân, v́ dân.
* Dân
biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
* Dân làm
chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân.
*
Việt nam muốn làm bạn với tất cả các
nước. vân vân ...và vân vân...
Nhưng
nh́n vào trong thực tiễn th́ thực tiễn diễn ra
luôn ngược lại với những lời nói hay,
đẹp đó.
Rất
nhiều việc làm dối trá, tàn bạo, ngang
ngược, ngu dốt của một số cán bộ
Đảng viên mà không thể được coi là thuộc
về bản chất của Đảng. Nhưng
Đảng có lỗi là không có những cơ chế giám sát
và bó buộc các hành vi ứng xử của tổ chức
Đảng đối với dân phải tuân thủ
chủ trương của Đảng, để
đến nỗi Đảng mất dần ḷng tin của
dân và dân càng ngày càng xa Đảng. Đảng đă
để cho những kẻ có quyền lực nhân danh
Đảng làm bậy.
Bây
giờ Đảng đang kêu gọi "tự phê
b́nh". Tôi rất tán thành. Nhưng trước hết
phải tiến hành tự phê b́nh chung đă. Nội dung
của tự phê b́nh đó là: Đảng đă làm những
ǵ để thực hiện những khẩu hiệu
tốt đẹp đă được Đảng
đề ra. Đảng đă phạm khuyết
điểm thế nào để đến nỗi
những lời đẹp đẽ đó không được
thực hiện. Cuộc tự phê b́nh này không những phát
động trong Đảng mà c̣n phải yêu cầu toàn dân
phát biểu ư kiến rộng răi và công khai. Đảng
vẫn tự thấy ḿnh là của nhân dân, của dân tộc
kia mà. Việc mỗi Đảng viên tự phê b́nh ít có ư
nghĩa lắm. Nhiều người bạn tôi nói họ
chẳng có khuyết điểm ǵ cả nên không biết
tự phê b́nh thế nào và để làm ǵ. Hăy thực
hiện một cuộc tự phê b́nh chung hết sức
nghiêm túc, sâu sắc và nhất là hết sức dân chủ.
Dân chủ, dân chủ và dân chủ! Tiếng thét của
lương tri cộng sản và lương tri dân tộc
là như vậy đó. Nếu có cuộc tự phê b́nh chung
th́ thiên bút kư này của tôi là ư kiến phát biểu trong
cuộc tự phê b́nh đó.
Càng
nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới và
đến thực trạng Đảng ta, tôi càng lo
lắng bồn chồn, đến nỗi nhiều lúc
phải chống bút mà ứa nước mắt, không
cầm được. H́nh như có tờ báo nào đó
ở nước ngoài có viết rằng:" Trần
Độ chẳng qua là một con ngựa già đang ra
sức đem sức tàn ra bảo vệ Đảng
của ḿnh". Té ra người ngoài Đảng, lại
ở ngoài nước mà lại có những nhận xét thông
minh hơn những kẻ gọi là người trong
Đảng. Sắp sang thế kỷ 21, các học giả
và các nhà khoa học thế giới đang nói đến
tư duy của thế kỷ 21, đang nói đến
phương thức tư duy, đổi mới tư duy
v..v. ở Việt nam ta, trong đại hội VI (1986)
Đảng ta đă nói là đổi mới th́ trước
hết và thực chất là đổi mới tư duy. Tôi
cho đó là một tư tưởng rất đúng.
Thế mà đầu năm 1997, trong một cuộc
"học nghị quyết", tôi lại
được nghe "lên lớp" về hai phe, bốn
mâu thuẫn. Tôi buồn quá và nghĩ rằng cái" tư
duy hai phe" đó không sửa đổi th́ nói đổi
mới cũng như không! Cho đến bây giờ cái
"tư duy hai phe" vẫn c̣n ngự trị trong
những người "gọi là đảng viên cộng
sản" và đang nắm quyền quản lư xă hội
trong tay.
Đài
phát thanh của ta hàng ngày đang ra rả đọc lên
khẩu hiệu: "Xây dựng và đổi mới
Đảng cho ngang tầm nhiệm vụ". Tôi nghe
nhiều lần và mỗi lần nghe th́ trong ḷng le lói
một niềm vui, nhưng lại tràn ngập những
nỗi lo âu. Tôi lại tự hỏi người
đọc khẩu hiệu đó một cách rất
đĩnh đạc có hiểu "tầm nhiệm
vụ" hiện nay là cái ǵ không? Kể cả
người chỉ đạo cái khẩu hiệu đó
nữa, có hiểu không? Nếu không hiểu th́ làm sao
hiểu được nội dung của"đổi
mới Đảng". Quả thật là cần phải
"đổi mới Đảng". Đó là cấp
thiết và cơ bản. Nhưng tại sao lại phải
đổi mới và đổi mới thế nào,
đổi mới những ǵ? Nếu cứ c̣n tư duy
"hai phe, bốn mâu thuẫn" th́ không có ǵ đổi
mới được cả. Thế giới bây giờ
không có hai phe mà là có nhiều phương, nhiều cực,
nhiều khu vực, và tất cả phải nh́n vào xu
thế toàn cầu hoá của kinh tế. Kinh tế toàn
cầu hoá kéo theo toàn cầu hoá chính trị, văn
hoá...Đến nỗi toàn trái đất bây giờ gần
gũi nhau và thu nhỏ lại như một cái làng.
"Làng trái đất". Việt nam đứng
trước xu thế đó đă phải nói rằng
"muốn làm bạn với tất cả các
nước". Nói thế, nhưng trong ư thức một
số người trong Đảng lại muốn Việt
nam như một phe trên thế giới, một phe có
tất cả độc đáo về tư tởng,
về chính trị, về văn hoá...chơi với một
phe khác là phần c̣n lại của trái đất. Thật
là tự cao một cách điên rồ và vô cùng dốt nát. Tôi
rất tán thành và hoan nghênh phải đổi mới
Đảng. Nhưng đổi mới Đảng không
phải chỉ là cải tiến vài cái sinh hoạt, từ
sinh hoạt chi bộ đến đại hội. Thông
thường mỗi lần ta hô "cải tiến"
th́ lại xuất hiện t́nh thế "cải lùi".
Phải đổi mới! Và đổi mới phải
tính đến những chuyện:
* Tính
chất chính trị của đảng.
*
Nền tảng tư tưởng của đảng.
* Nguyên
tắc tổ chức của đảng.
*
Phương thức lănh đạo của đảng.
* Phong
cách công tác của Đảng.
Có
thực hiện được như vậy th́ sự
đổi mới mới nghiêm túc và có thực chất
của nó.
Càng ngày
càng rơ rằng Đảng không thể có trí tuệ của
cả dân tộc , nhưng Đảng có vai tṛ thu hút
tập hợp và phát huy mọi trí tuệ của dân
tộc. Đảng phải là một ông vua hiền mà tôn
trọng và sử dụng tốt trí tuệ, tài năng
của dân tộc. Như thế Đảng mới bảo
tồn và phát huy được truyền thống của
ḿnh. Cần phải thấy rơ nguy cơ tụt hậu.
Đất nước th́ tụt hậu với thế
giới, c̣n Đảng th́ tụt hậu với xă hội
và dân tộc. Phải vượt qua nguy cơ đó
bằng quan niệm: đổi mới là dân chủ hoá trong
Đảng cũng như dân chủ hóa toàn xă hội.
Phải quan niệm như vậy và hành động đúng
như vậy.
Viết
xong trong ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 76.
23-9-1998
Trần
Độ