Tình Hình Ðất Nước và Vai Trò Của Ðảng Cộng Sản
Trần Ðộ
Kính gửi:
Ðảng
Quốc hội
Và các bạn quan tâm
Tôi xin gửi một bài
viết của tôi. Ðây không phải là một bài viết ngẫu hứng về một vấn đề cụ thể mà
là những ý nghĩ được tích lũy từ lâu về Ðất Nước và về Ðảng, là ý kiến góp với
tất cả các Hội Nghị Trung Ương và Ðại hội 9 sắp tới. Ðây là những giọt máu vắt
ra từ trong tim một người từ nhiều chục năm nay. Ðó là một người chỉ khát khao được
phát biểu và được thảo luận về Ðất Nước và về Ðảng
Thân Kính
Trần Ðộ
1- Cách đây chưa
lâu, qua các phương tiện thông tin đại chúng, tình hình đất nước được mô tả như
đang "ở trên con đường thắng lợi to lớn", như "đã thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội", như "đầy khởi sắc", "đầy
khích lệ", "đầy phấn khởi", "đầy hứa hẹn",... và đang
"chuyển sang giai đoạn phát triển mới, thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp
hóa". Thế rồi, những ngày gần đây, cũng lại qua các phương tiện thông tin đại
chúng, người ta nghe thấy nào sự tăng trưởng kinh tế đã "chững lại",
nào đời sống nhiều vùng, đặc biệt ở nông thôn, gặp nhiều khó khăn, nào tệ nạn
xã hội, đặc biêt là nạn tham nhũng, đang có chiều hướng tăng lên... Những biến động
ở Thái Bình và một vài nơi khác được nói tới một cách hết sức dè dặt, nhưng
cũng đủ cho thấy đất nước đang trải qua những bất ổn mới. Một vài tờ báo muốn
thông tin đúng sự thật của tình hình đã bị phê phán hoặc cấm đoán (như tờ Tiền
Phong sau một loạt bốn bài viết về Thái Bình đã phải "xin lỗi bạn đọc"
vì bài viết chưa thật "sát hợp với thực tế", trong khi thật ra chỉ
mới nói lên một phần nhỏ sự thật đã và đang xảy ra). Trong dư luận xã hội, nổi
lên những băn khoăn lớn: Thế này là như thế nào? Ðất nước đang đi lên hay đang
dừng lại? Mặt sáng là chính hay là mặt tối là chính?
Rõ ràng ở đây có
vấn đề, mà lại là vấn đề rất cơ bản: đánh giá tình hình như thế nào đây? Kinh
nghiệm lịch sử đã cho chúng ta nhiều bài học về mặt này. Ðánh giá đúng thì hành
động đúng, ngược lại, đánh giá không đúng sẽ đẩy tới những hành động không
tránh khỏi sai lầm. Chúng ta còn nhớ như in bài học của đại hội VI của Ðảng:
công cuộc đổi mới chỉ có thể đề ra và tiến hành một cách mạnh mẽ dưới khẩu hiệu
lay động lòng người: "Nhìn thẳng vào sự thật!", dù trước đó chưa lâu,
những bài ca "thắng lợi", "tiến lên" vẫn được hát ồn ào
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với bài học còn nóng hổi ấy, tôi rất
hoan nghênh việc thủ tướng Phan Văn Khải đã nhắc lại phương châm "Nhìn
thẳng vào sự thật" trong báo cáo tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa X
vừa rồi. Ðúng là chỉ có theo phương châm này, chúng ta mới phân tích được đúng
tình hình hiện nay của đất nước.
2- Vậy, tình hình đất
nước hiện nay là như thế nào?
Nói cho đúng, qua
mười năm đổi mới, đất nước đã có nhiều thay đổi tích cực và sự đánh giá về một
số thắng lợi trong công cuộc đổi mới có cơ sở. Tôi xin phép không nêu lại những
thắng lợi có thật đó ở đây, không phải vì tôi "quên" hoặc "coi
nhẹ", mà là vì những thắng lợi đó đã được nói quá nhiều (quá đầy đủ) trên
các diễn đàn chính thức. Chỉ nói riêng trong lĩnh vực kinh tế, ai lại không vui
mừng khi biết rằng, với chính sách "mở cửa" của ta, các nhà đầu tư
nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế đã rót hàng tỷ đô la vào để giúp ta
tạo dựng những cơ cấu hạ tầng ban đầu, những doanh nghiệp liên doanh... hoặc
nước ta từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, bây giờ đã có thể xuất khẩu hàng năm
2- 3 triệu tấn gạo? Mức sống vật chất nói chung đúng là có khá lên đối với một
bộ phận dân cư không nhỏ, vân vân và vân vân.
Ðiều đáng nói là lẽ
ra, bên cạnh sự nêu cao những thắng lợi đó, chúng ta phải phân tích một cách
tỉnh táo ngay từ đầu những mặt xấu, những mâu thuẫn đã lộ rõ hay còn tiềm ẩn,
những nguy cơ lớn đối với bất ổn định và phát triển mà bây giờ chúng ta đang
thấy rõ những điều đó nổi lên thành mặt chủ yếu của tình hình đất nước.
Chỉ cần đặt ra một
số câu hỏi đơn giản là đủ thấy như thế.
- Tại sao luôn luôn
nhấn mạnh "kinh tế quốc doanh là chủ đạo", trong khi đó là một khu
vực kém hiệu quả nhất và là những "ổ" tham nhũng ghê gớm nhất?
- Tại sao không huy
động được nguồn vốn trong nước (như đã dự tính là phải tương đương với nguồn
vốn vay mượn từ nước ngoài) để từ 1996 đến năm 2000 phải có số vốn 40- 50 tỷ đô
la, điều kiện không thể thiếu để đưa GDP đầu người lên 400 đô la một năm vào năm
2000?
- Tại sao có hiện
tương các nhà đầu tư nước ngoài trở nên dè dặt hơn trong việc đưa vốn vào nước
ta, thậm chí một số doanh nghiệp nước ngoài còn rút vốn đi?
- Tại sao không đẩy
lùi được nạn tham nhũng có hiệu quả, mà còn để nó tha hồ hoành hành một cách
rầm rộ và đầy thách thức cũng giống như hiện nay?
- Tại sao người
dân, trong hoàn cảnh mức sống có tăng lên, không thiết tha góp công, góp của
vào công cuộc xây dựng đất nước như Ðảng không ngừng kêu gọi? Thậm chí ở một số
nơi người dân còn chống lại các tổ chức Ðảng và đứng lên đấu tranh (không thể
dùng cách nói nào khác hơn) để bảo vệ quyền lợi của mình?
- Tại sao đường lối
đổi mới và mở cửa đã đưa tới một sự phân hóa xã hội sâu sắc đến thế, đưa đến sự
làm giàu bất chính và đầy thách thức của một bộ phận nhỏ - chủ yếu là trong cán
bộ, đảng viên có chức như thế?
Nhân đây tôi xin nói rằng : cần phải đánh giá hết ý
nghĩa của những biến động đã và đang xảy ra ở Thái Bình. Có thể nói đây là lần đầu
tiên có hàng vạn nông dân tự tập hợp lại để tranh đấu chống "cường hào
mới" một cách mạnh mẽ và đều khắp như vậy. Nông dân Thái Bình, như tôi đã
trực tiếp thể nghiệm, từ lâu vốn là một cơ sở xã hội vững chắc của Ðảng trong đấu
tranh cách mạng, kháng chiến và xây dựng đất nước. Thế mà chính những người
nông dân ấy bây giờ lại quay lưng lại với các tổ chức cơ sở Ðảng (cũng tức là
với Ðảng) để tự bảo vệ, điều mà tôi chưa bao giờ hình dung nổi. Tôi e rằng
những biến động ở Thái Bình có thể báo hiệu một tình trạng nguy hiểm hơn nhiều
với Ðảng, nếu không nghiêm túc rút ra những bài học đúng đắn (và đau đớn nữa)
từ tình hình đó.
- Tại sao để cai
trị đất nước, ta cần nhiều bộ máy đồ sộ đến thế, mà các cuộc vận động (chống
tham nhũng, buôn lậu, tệ nạn xã hội) đều hầu như không có hiệu quả?
Vâng, chỉ cần đặt
ra bấy nhiêu câu hỏi thôi cũng đủ thấy rằng tình hình đất nước hiện nay không
chỉ có những thắng lợi, những thành công, mà còn hiện ra dưới những bộ mặt
ngược lại, khiến cho những người dân bình thường lấy làm lo ngại trước một cuộc
khủng hoảng xã hội mới, có thể còn nghiêm trọng hơn lần trước nhiều.
Tôi không phải là
nhà tiên tri, tôi chỉ nêu ra một giả thuyết có thể có, để cùng nhau suy nghĩ.
Dù sao cũng không thể lẩn tránh vấn đề. Phải đặt nó ra một cách thẳng thắn và
xin nhắc lại, theo huớng "Nhìn thẳng vào sự thật ".
Tình hình chung của
xã hội hiện nay là: tuy đã đạt đuợc những thành tựu quan trọng về mặt tăng
trưởng kinh tế (mà những thành tựu này cũng cần được đánh giá đúng mức, không
thổi phồng lên theo "chủ nghĩa thành tích", một căn bệnh cũ muốn tái
phát trong những điều kiện mới, tinh vi hơn, như trên báo chí có nhắc tới),
nhưng nước ta vẫn là một nước nghèo khổ và lạc hậu, với những nguy cơ tụt hậu
ngày càng lớn, với những hỗn loạn kinh tế và xã hội ngày càng tăng. Hai mục
tiêu trước mắt thường được nhắc đi nhắc lại là Ổn Ðịnh và Phát Triển trên thực
tế đang trở thành những cái đích ngày càng xa hơn. Cộng vào đó, cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ trong vùng Ðông Nam Á và Ðông Áđang gây ra thêm nhiều
khó khăn mới, thậm chí những đình đốn mới, khiến xã hội không yên. Nhìn chung,
không khí xã hội đã mất đi sự hứng khởi ban đầu, thay vào đó là tình trạng lo
âu, chán nản đang choán lấy nhiều tầng lớp dân cư rộng lớn. Mối nguy hiểm là ở
chỗ những tiềm năng bên trong (nội lực) không được phát huy và chúng ta ngày
càng lệ thuộc hơn vào những nguồn vốn bên ngoài đang dần dần co hẹp lại. Trong
khi đó, những tệ nạn xã hội lại phát triển mạnh mẽ tới mức không thể khắc phục được
(ma túy, tham nhũng chẳng hạn), số người làm giàu nhanh chóng một cách bất
chính (trong đó khá nhiều người dựa vào chức quyền) cùng với tình trạng bần
cùng hóa của một bộ phận dân cư ngày càng lớn (chủ yếu ở nông thôn) đang gây ra
một tâm lý bất mãn ngày càng sâu rộng trong xã hội. Tất cả những điều có thể đưa
tới những biến động và xung đột xã hội thật khó lường, như tình hình Thái Bình
cho thấy.
Ðứng trước tình
hình ấy, rất nhiều người tâm huyết (trong đó có những cán bộ cách mạng lão
thành từng gắn bó cả cuộc đời với sự nghiệp giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội) đang băn khoăn tìm hiểu những nguyên nhân đưa tới tình hình ấy. Muốn hay
không đã xuất hiện những nhận thức khác nhau về xã hội hiện nay. Nhưng những
tiếng nói ấy chỉ bó hẹp trong những trao đổi ý kiến trong từng nhóm nhỏ.
Lẽ ra, trong một
hoàn cảnh như vậy, cần có những trao đổi thẳng thắn, xây dựng thật rộng rãi
trên báo chí, trong các tổ chức xã hội, cả trong Ðảng nữa. Nhưng trớ trêu thay,
lúc này lại thấy xuất hiện nhiều sự cấm đoán hơn trong lĩnh vực ngôn luận. Rất
nhiều nguy cơ có thể tránh được, nếu như những vấn đề của đất nước được đem bàn
một cách cởi mở để huy động được sức mạnh trí tuệ của dân tộc. Một số người
viện cớ không để cho kẻ thù xen vào công việc nội bộ của ta, nhưng trên thực tế
hầu hết những mặt tiêu cực của xã hội hiện nay là do chính "ta" gây
ra. (Một điều thật buồn cười là, đã có người giữ cương vị quan trọng nói rằng
"kẻ địch gây ra nạn tham nhũng để phá hoại đất nước ta", trong khi
chính những người được giao trách nhiệm điều tra những biến động ở Thái Bình,
chẳng hạn, đã báo cáo là không thấy có bàn tay kẻ thù đứng đằng sau những chống
đối của nông dân Thái Bình). Vậy mà ta vẫn cho rằng ta rất dân chủ và "xin
nhiều ý kiến" mọi người. Tôi không ngây thơ tưởng rằng hiện nay không có
"kẻ thù" nữa, nhưng đừng cường điệu điều đó để rồi nhìn ai cũng ra
"kẻ thù". Và kinh nghiệm cho thấy rằng "kẻ thù" chỉ có thể
thâm nhập và phá hoại ta được, khi chính chúng ta tự bưng bít sự thật, giống
như một người mắc bệnh lại bưng bít căn bệnh của mình. Nếu chúng ta để cho
"kẻ thù" nắm lấy ngọn cờ "sự thật" thì chúng ta sẽ ngày
càng rơi vào tình trạng hiểm nghèo vì giấu bệnh và không cho ai chuẩn đoán cả.
Tôi chưa nói tới một điều đáng lo ngại nữa là để cho những kẻ cơ hội chủ nghĩa
nhảy ra hạ bệ, nói xấu lung tung, đánh đấm lung tung, bạ ai cũng coi là
"kẻ thù", gây hỗn loạn trong giới trí thức, văn nghệ sỹ, và tiếc thay
có cả một tờ báo của ngành công an đang làm "bệ phóng" cho những kẻ đó.
Xin trở lại với câu
hỏi : Tình trạng xã hội đáng lo ngại như đã nói trên đây là do đâu? Tôi không
có tham vọng phân tích đầy đủ về vấn đề này, chỉ xin nêu ra một số ý kiến:
1- Mặc dầu tuyên bố
mục tiêu của nước ta hiện nay là "phát triển kinh tế, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng và văn minh", nhưng vẫn nhấn mạnh "kiên trì định
hướng xã hội chủ nghĩa". Như vậy, nảy sinh một mâu thuẫn không thể giải
quyết được, bởi vì cả về lý thuyết lẫn về thực tiễn, kinh tế thị trường - điều
kiện tất yếu để phát triển kinh tế - không thể đi đôi với định hướng xã hội chủ
nghĩa được. Cuối cùng, hoặc mặt này loại bỏ mặt kia, hoặc đẻ ra một trạng thái
kinh tế hỗn loạn, không ra kinh tế thị trường, cũng không ra kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Thực tế nhiều năm qua cho thấy rằng: nền kinh tế của ta chỉ mới khởi sắc
được ít lâu, rồi dần dần "chững lại" thậm chí bế tắc, và hỗn loạn. Cơ
cấu "năm thành phần kinh tế" không thể trở thành hiện thực khi vẫn
nhấn mạnh Kinh Tế Quốc Doanh Là Chủ Ðạo. Mọi người đều biết khu vực kinh tế
quốc doanh ấy đã thua lỗ như thế nào, hằng năm nhà nước phải cấp cho nó những
khoản trợ cấp to lớn như thế nào, và nó trở thành một nguồn tham ô, lãng phí
ghê gớm như thế nào? Không thể bỏ kinh tế quốc doanh vì trong một số lĩnh vực
nào đó nó vẫn còn là cần thiết, nhưng đặt nó thành chỉ đạo thì chỉ có nghĩa là
triệt tiêu hoặc làm suy yếu các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế tư
nhân. Người ta rất ngại nói tới phát triển kinh tế tư nhân vì như vậy là "đi
trệch hướng xã hội chủ nghĩa". Do đó, kinh tế quốc doanh thì trở thành một
gánh nặng tài chính của nhà nước, trong khi những khả năng phát triển của các
thành phần kinh tế khác thì bị kìm hãm. Nguồn vốn không tạo ra được từ kinh tế
quốc doanh, còn nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác thì không được khơi
dậy. Ðã nhiều năm rồi, nhà nước đề ra huy động nguồn vốn "trong
dân"nhưng cho đến nay có thể nói nguồn vốn ấy vẫn "ngủ yên".
Người ta rất sợ đầu tư vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, vì những cuộc cải
tạo kinh tế trước đây cũng như "định hướng xã hội chủ nghĩa" hiện
nay, làm cho người ta lo sợ khi bỏ vốn ra. Ðiều rất nguy hiểm nữa là với "định
hướng xã hội chủ nghĩa" kia, Nhà nước rất rộng tay trong việc cấp tín dụng
cho khu vực kinh tế quốc doanh, khiến cho tín dụng không thu hồi được, các ngân
hàng đứng trước nguy cơ phá sản.
Làm thế nào để phát
triển kinh tế khi không có nguồn vốn bên trong làm một chỗ dựa cơ bản? Mở cửa
cho đầu tư nước ngoài, đi vay nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế ư?
Ðúng là hiện nay chúng ta đang làm như vậy. Như vậy là đúng và cần thiết.
Nhưng, một mặt, vốn đầu tư, đầu tư nhiều hay ít không phụ thuộc vào ta, mà vào
những điều kiện làm ăn sinh lãi trên thị trường (kinh nghiệm nhiều nước Ðông Á
và Ðông Nam Á cho thấy các nhà đầu tư sẵn sàng rút vốn rất nhanh một khi họ
không kiếm lãi được, đẩy nền kinh tế các nước đó vào cơn nguy khốn chưa từng
thấy). Mặt khác, không thể thu hút đầu tư nước ngoài, nếu không tạo ra môi
trường đầu tư có lợi, mà môi trường đầu tư ấy cũng phải đáp ứng với yêu cầu của
các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính quốc tế. Và như đã biết, những yêu cầu
này là của kinh tế thị trường tự do trên thế giới, ngược lại với "định
hướng xã hội chủ nghĩa". Càng cố duy trì định hướng này, nguồn đầu tư bên
ngoài càng co lại. Nguồn vốn bên ngoài nếu không mất thì không còn đáng kể.
Chúng ta phải làm
một sự lựa chọn (khá khắc nghiệt đối với những người chủ trương "định
hướng xã hội chủ nghĩa") để có những điều kiện cần thiết cho sự phát triển
kinh tế, và sự lựa chọn này không thể được thực hiện theo lối nói nhập nhằng
"kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Giữa hai cái,
phải chọn lấy một, không thể "bắt cá hai tay". Lấy sự phát triển kinh
tế của đất nước hay lấy định hướng xã hội chủ nghĩa? Câu trả lời sẽ không khó,
Nếu Lấy Lợi Ích Ðất Nước Mà Không Phải Lấy Lợi Ích Của Ðảng Làm Ðầu. Nói cách
khác, sự phát triển kinh tế buộc phải từ bỏ sự lựa chọn theo "hệ tư
tưởng" do Ðảng đề xướng và thực chất là do Ðảng áp đặt lên toàn xã hội.
Kéo dài tình trạng nước đôi, đất nước sẽ không có điều kiện phát triển bình
thường, thay vào đó chỉ là một sự hỗn loạn có lợi cho những kẻ "đục nước
béo cò", không có lợi gì cho tuyệt đại đa số dân cả,
Trên đây tôi chỉ đưa
ra một ví dụ về nguồn vốn để chứng minh. Còn có thể chứng minh bằng nhiều ví dụ
khác.
2- Sự phát triển
kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh thế giới và trong nước đầy biến động hiện nay,
bắt buộc phải có chiến lược phát triển thích hợp và đuợc mọi người, ít ra là
của đa số nhân dân, tán thành. Cho đến nay, chúng ta chưa có một chiến lược như
vậy. Nói cho đúng, Ðảng đã đưa ra chiến lược "phát triển kinh tế, công
nghiệp hóa và hiện đại hóa". Nhưng ngoài những câu chữ chung chung, chưa
có một chiến lược cụ thể và thích hợp có lợi cho toàn dân tộc. Và trên thục tế,
những người cầm quyền đưa nước ta đi theo mô hình những "con hổ",
"con rồng" ở các nước Ðông Á và Ðông Nam Á (Hàn quốc, Thái Lan,
Malaysia...). Chiến lược phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa (mô
hình "xô viết") trước đây đã đẩy đất nước vào một thảm trạng kinh tế
và xã hội, và bây giờ việc theo đuổi theo "mô hình" những con hổ, con
rồng cũng chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả. Làm thế nào để phát triển kinh tế,
để hiện đại hóa một cách phù hợp với những xu thế chung của thời đại, cũng như
với những điều kiện lịch sử và văn hóa nước ta, làm thế nào để mỗi người dân
(không trừ một khu vực nào, dù là thành thị hay nông thôn, dù là miền xuôi hay
miền ngược, dù là phía bắc hay phía nam) đều hào hứng góp phần tham gia và đều được
hưởng những thành quả của hiện đại hóa- đó không phải là những bài toán dễ giải
quyết. Chỉ có huy động được Sức Mạnh Trí Tuệ của mọi tầng lớp xã hội, thậm chí
của các cá nhân, mới có thể làm được điều đó. Và như vậy, không phải chỉ có một
phương án giải quyết mà có thể có rất nhiều phương án khác nhau.
Hiện nay, chúng ta
gần như chỉ có một phương án và phương án ấy được coi là độc tôn, chỉ vì đó là
phương án của Ðảng. Không ai được phép đề xướng những phương án khác, không ai được
thảo luận một cách tự do về phương án duy nhất đã được đưa ra. Ðó là nói về
chiến lược phát triển chung, chưa nói tới những chiến lược cụ thể trong từng
lĩnh vực. Tôi tin rằng trong nhân dân ta, nhất là trong giới trí thức (kể cả trong
và ngoài nước), có rất nhiều ý kiến hay, mà nếu được nói lên, được cọ xát với
nhau, được tranh cãi tự do, thì sẽ phá vỡ được sự bế tắc về trí tuệ, do đó sẽ
có lợi cho việc tìm kiếm một con đường đi thích hợp cho đất nước lúc này. Nói
cách khác, đời sống trí tuệ chưa được cởi mở, gánh nặng độc tôn còn đè nặng lên
đầu óc con người, những ý kiến khác với chính thống bị coi là "chống đối
", đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa tới tình trạng
gần như tắc tị về chiến lược phát triển hiện nay.
3- Về mặt quyền
lực, tuy trên các văn bản chính thức đều nói quyền lực chính trị nước ta
"do dân, vì dân và của dân", rồi "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra", nhưng trên thực tế không phải như vậy. Tất cả mọi cái đều
do Ðảng - nói cho đúng, do những đảng viên có chức có quyền quyết định. Việc
bầu các cơ quan đại diện của dân, kể cả cơ quan quyền lực tối cao, đều vẫn thực
hiện theo lối "Ðảng cử, dân bầu" quen thuộc, tuy có "cải
biên" đôi chút. Ngay các cơ quan dân cử ấy cũng chỉ làm một việc thường được
gọi là "thể chế hóa về mặt nhà nước" các quyết định của Ðảng. Các cơ
quan Ðảng có toàn quyền từ trên xuống dưới không chịu bất cứ một sự kiểm soát
nào về mặt pháp luật cả. Do đó, đẻ ra tình trạng mà không thể nào nói khác hơn
là tình trạng "Ðảng trị" trong một chế độ toàn trị. Hiến pháp quy định
sự lãnh đạo độc tôn của Ðảng, nhung không hề quy định những trách nhiệm pháp lý
của Ðảng đối với nhân dân. Ðảng làm đúng dân nhờ. Ðảng làm sai dân chịu. Mà
trên thực tế, như kinh nghiệm hàng chục năm cho thấy, không phải bao giờ Ðảng
cũng đúng cả. Ðấy là tình trạng Ðảng giữ quyền lực độc tôn, không có cơ chế
giám sát, không có lực lượng nào giám sát. Ðấy chính là nguồn gốc của sự lộng
quyền, tham nhũng mà không có một vận động chống đối nào thực hiện được.
Truớc đây, trong
nhiều nghị quyết của đảng đã có nói tới việc tách đảng ra khỏi các công việc
quản lý của nhà nước, nhưng lời hứa trịnh trọng ấy đã bị lãng quên, và đâu vẫn
hoàn đấy. Trong nhiều nghị quyết của đảng cũng có nói tới "cải cách chính
trị" đi đôi với "cải cách kinh tế ". Và có nói thêm "cải
cách kinh tế đi trước" nhưng rồi sẽ phải tiến hành "cải cách chính
trị " nhưng lại thấy mất tăm, thay vào đó là "cải cách hành
chính" mà suốt nhiều năm qua vẫn chưa di tới đâu.
Theo tôi, cải cách
kinh tế hiện nay đang đòi hỏi phải có cải cách chính trị một cách mạnh mẽ. Và
nếu không cải cách chính trị, thì cải cách kinh tế sẽ bế tắc, đất nước vẫn nằm
mãi trong chế độ Ðảng trị đã lỗi thời, và vai trò lãnh đạo cũng như uy tín của
Ðảng sẽ bị suy yếu không cứu vãn được. Việc tập trung toàn bộ quyền lực vào tay
các cơ quan lãnh đạo của Ðảng, đang làm cho chính Ðảng bị thoái hóa, biến chất,
những đảng viên nắm quyền lực trở thành một tầng lớp thống trị mới trong xã hội
với những lợi ích riêng, đối lập với lợi ích nhân dân. Có thể nói rằng nhiều đảng
viên có chức có quyền, đã thật sự trở thành "những tư bản mới " đầu
cơ quyền lực, biến quyền lực thành của cải, và gây ra một mâu thuẫn xã hội ngày
càng gay gắt, có thể đưa tới những bùng nổ xã hội (như tình hình Thái Bình cho
thấy).
4- Cuối cùng, nhưng
lại là nguyên nhân quan trọng nhất, là ở bản thân Ðảng. Vì trong xã hội và
trong chế độ ta, Ðảng là người lãnh đạo tất cả, thống lĩnh tất cả, quyết định
tất cả, nên mọi thành công hay không thành công phải tìm nguyên nhân ở Ðảng.
Ðúng là nhiều khó khăn gặp phải trên con dường phát triển kinh tế, và xã hội là
bắt nguồn từ những điều kiện khách quan (thế giới, khu vực) và cả những hoàn
cảnh lịch sử - văn hóa của xã hội nước ta. Nhưng vai trò lãnh đạo của Ðảng
chính là ở chỗ phân tích những điều kiện thuận lợi và khó khăn khách quan để có
những chủ trương nhạy bén kịp thời. Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp,
Ðảng đã không làm được như thế, không giành được thế chủ động, mà chạy theo sự
phát triển của tình hình một cách thụ động.
Hiện nay, nổi bật
lên mấy điểm sau đây có liên quan tới vai trò lãnh đạo của Ðảng:
- Ðảng chưa có một
chiến lược phát tiển xã hội (bao gồm cả kinh tế) một cách thích hợp, như đã nói
ở điểm 1. Nếu hỏi các đảng viên chiến lược phát triển đất nước hiện nay là thế
nào, chắc chắn đại đa số sẽ không thể trả lời được, ngoài mấy câu chữ chung
chung là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh",
"công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định huớng xã hội chủ nghĩa ".
Chừng nào chưa làm rõ, tất nhiên là phải đúng, những khái niệm đó thì chưa thể
thoát khỏi tình trạng thụ động về mặt lãnh đạo được. Xin lấy một ví dụ: thế nào
là dân giàu nước mạnh? "dân" là ai, là tất cả mọi người hay chỉ một
bộ phận nhỏ nào đó? Giàu là thế nào? là nhiều của cải, hay còn
phải giàu về trí tuệ, văn hóa? Thế nào là "nước mạnh"? chỉ
phát triển kinh tế mà thôi không xây dựng được một xã hội công dân, trong đó
mỗi người dân có điều kiện để thực sự làm chủ vận mệnh của mình, trở thành chủ
thể đích thực của đất nước, thì nước có mạnh không, và xét đến cùng, có phát
triển kinh tế được không? Rồi những khái niệm còn rắc rối hơn: "công
nghiệp hóa ", "hiện đại hóa ", thì càng tù mù hơn nữa. Người ta đang
hô lên những khẩu hiệu không có nội dung xác thực.
- Cho đến nay, Ðảng
vẫn giữ vai trò lãnh đạo độc quyền, độc tôn của mình đối với xã hội và đất
nước, khiến cho mọi xu hướng dân chủ xã hội bị ngăn cản. Tôi vẫn tán thành và
ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Ðảng, tôi thấy vai trò đó là cần thiết.
Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị, Ðảng lãnh đạo không có nghĩa là
Ðảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và trên thế giới đã chứng minh rằng
mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hóa, ruỗng nát, tắc tị, không những
của cơ thể xã hội mà cả của cơ thể Ðảng nữa.
- Một bộ phận lớn đảng
viên, trước hết là trong số đảng viên có chức quyền, nắm quyền lực, đã thực sự
trở thành lực cản đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước, kể cả trong lĩnh
vực kinh tế. Không có gì khổ và nhục cho bằng khi người dân "tự
nhiên" thấy trên đầu mình chễm chệ những vị tai to mặt lớn thiếu nhân
cách, thiếu trình độ hiểu biết, hay như thường nói, thiếu cả đức lẫn tài. Chừng
nào còn những người như thế cứ thay nhau nắm giữ và lũng đoạn bộ máy Ðảng và
Nhà Nước, chừng đó các nguồn sinh khí trong Ðảng và trong xã hội không thể khơi
lên được. Nhưng những nguồn sinh khí ấy vẫn tồn tại, vẫn tăng lên cùng với dân
trí, nên đến một lúc nào đó sẽ bùng lên mạnh mẽ, có muốn dập tắt cũng không được.
- Trong nội bộ
Ðảng, vẫn duy trì cái gọi là "chế độ tập trung dân chủ " mà hầu hết
các đảng cộng sản trên thế giới đã từ bỏ, vì về thực chất, sự tập trung quyền
lực bao giờ cũng đưa tới chỗ triệt tiêu dân chủ. Nhiều lắm, dân chủ chỉ trở
thành "đồ rởm", chỉ có tác dụng trang trí cho sự tập trung quyền lực.
- Về hệ tư tưởng,
ta vẫn giữ vai trò độc tôn của chủ nghĩa Mac- Lenin không những trong Ðảng mà
còn cả trong toàn xã hội. Tôi hoàn toàn thừa nhận vai trò chủ nghĩa Mac- Lenin
trong lịch sử cách mạng nước ta, nó đã có những đóng góp quan trọng. Nhưng hiện
nay, ngoài chủ nghĩa Mac- Lenin ra còn có nhiều trào lưu tư tưởng rất đáng
nghiên cứu và tiếp thụ một cách phù hợp với những điều kiện của nước ta. Giữ
vai trò độc tôn của chủ nghĩa Mac- Lenin chỉ đưa tới sự trì trệ về trí tuệ.
Có thể còn những
nguyên nhân khác nữa, nhưng tôi xin dừng lại ở đây, vì chỉ mấy nguyên nhân nói
trên cũng đủ để giải thích tại sao tình hình đất nước đang lâm vào một trạng
thái khủng hoảng mới, gay go hơn, nguy hiểm hơn, cho xã hội, cho đất nước và
cho cả sự nghiệp của Ðảng.
Trong nhiều cuộc
trao đổi về tình hình đất nước, câu hỏi cuối cùng thường được đặt ra là:
"Làm gì?". Làm gì để đất nước tránh được khủng hoảng và tiếp tục phát
triển ổn định và nhanh chóng? Làm gì để vừa có một trạng thái xã hội cởi mở,
mọi người dân cùng nhau xúm vào xây dựng đất nước, lại vừa bảo đảm phát huy vai
trò lãnh đạo của Ðảng trong xã hội? Nói đúng hơn, Ðảng phải thay đổi sự lãnh đạo
của mình như thế nào để có thể lãnh đạo thành công sự phát triển xã hội, để bảo
đảm vai trò được mọi người thừa nhận của mình?
Những câu trả lời
thật không đơn giản, và không ai có thể trả lời được- dù là cấp lãnh đạo cao
nhất đi nữa - những câu hỏi trên. Một yêu cầu hết sức cấp bách, có tầm quan
trọng sống còn là phải Huy Ðộng Sức Mạnh Trí Tuệ Toàn Dân Tộc. Có lúc cũng đã
nghe thấy nói tới điều này trong các bài phát biểu này khác của một số vị lãnh đạo,
nhưng rồi không những sức mạnh trí tuệ không được phát huy mà còn bị đè nén
nhiều hơn.
Trong các văn kiện
của Ðảng vẫn có nói: Cần Ðổi Mới Phương Thức Lãnh Ðạo Của Ðảng. Tôi cho rằng
cần đổi mới như sau: từ bỏ phương thức toàn diện, tuyệt đối, triệt để mà thay
bằng phương thức giữ vai trò lãnh đạo về chính trị, còn lại quốc hội, chính
phủ, mặt trận phải có nhiệm vụ và quyền hạn độc lập của mình.
Ai cũng hiểu rằng,
sức mạnh trí tuệ của toàn dân tộc chỉ có thể được phát huy trên nền tảng những
thể chế dân chủ, không có những thể chế này thì không thể có sự tồn tại của sức
mạnh trí tuệ nữa, chứ không phải chỉ là không thể phát huy. Tôi nhấn mạnh mấy
chữ "thể chế dân chủ ", nghĩa là các quyền dân chủ được thể chế hóa
về mặt pháp luật một cách đầy đủ và bắt buộc mọi người phải tuân theo những thể
chế ấy. Mọi lời hô hào về "ý thức dân chủ " về "vai trò làm chủ
" của nhân dân đều trở thành vô nghĩa nếu không có những thể chế dân chủ
vững chắc.
Xin nhấn mạnh: để
thoát khỏi tình trạng nặng nề hiện nay và bảo đảm cho tương lai sáng sủa của đất
nước, thì một điều cơ bản, một điều then chốt, một điều quyết định là phải thực
sự dân chủ hóa, thực sự thực hành dân chủ để cho nhân dân có quyền lực thực sự
trong khi thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của mình.
Muốn thế, trước hết
phải thay đổi tư duy về dân chủ, ít ra trên mấy điểm sau đây:
- Một : Trong quan niệm về dân chủ, không nên cứng
nhắc chia ra: "dân chủ tư sản" và "dân chủ vô sản", và cho
rằng hai cái đó cứ phải loại trừ nhau. Phải thừa nhận rằng, dù đã có và đang có nhiều hạn
chế, nhưng các nước phát triển, mà ta thường gọi là các nước "tư bản
phương Tây" đã có nhiều thành công về xây dựng và hoàn thiện chế độ dân
chủ, đáng để ta nghiên cứu. Không phải các nước đó làm gì ta cũng làm theo,
nhưng không phải cái gì họ làm đều là phản động, là xấu xa, là lừa bịp cả. Dân
chủ ở các nước đó không được ai ban phát cho, nó là thành quả đấu tranh của các
tầng lớp nhân dân rộng lớn trong nhiều thế kỷ liền. Các quyền tự do, dân chủ,
các quyền con người, nhà nước pháp quyền,v.v... là những cái chúng ta chưa làm
và cũng chưa biết cách làm, cần phải học tập. Cần phải thừa nhận nhân loại hiện
nay có những giá trị dân chủ chung mà ta nhất thiết phải thực hiện để bảo đảm
quyền lực và quyền lợi gắn liền với trách nhiệm của nhân dân. Chúng ta phải lưu
tâm học tập Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trọng các giá trị dân chủ
của nhân loại, đã trích dẫn hai câu quan trọng về dân chủ và nhân quyền từ hai
bản Tuyên Bố và Tuyên Ngôn của cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp thế kỷ XVIII, để
mở đầu bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chúng ta phải tiếp
tục suy nghĩ, như bác Hồ đã suy nghĩ, về vấn dề thực thi dân chủ ở nước ta ngày
nay. (Tôi dám khẳng định: nếu trong những ngày đầu cách mạng, chúng ta không
nêu cao chế độ dân chủ, thì không thể tập hợp được các tầng lớp nhân dân đông đảo.
Không lẽ chúng ta chỉ nói dân chủ mà không làm dân chủ như đã hứa thủa ban đầu?)
- Hai : Ta thường tự hào "chế độ ta là chế độ dân
chủ cao gấp nhiều lần dân chủ tư sản". vậy ta phải thực hành điều đó rõ rệt. Không thể để xảy
ra tình trạng những người sống trong xã hội ta cứ cảm thấy bị gò bó, không
thoải mái bằng sống trong các xã hội tư bản. Nhiều cán bộ lãnh đạo của nước ta
sang thăm các nước tư bản về, đều phải nhận xét rằng, đời sống người dân các
nước ấy vừa cởi mở, tự do hơn, vừa tuân theo pháp luật một cách nghiêm túc hơn.
Mọi người được pháp luật bảo vệ, không để cho các quyền tự do dân chủ của mình
bị xâm phạm. Trong khi đó thì ở nước ta, luật pháp đã thiếu lại không nghiêm
minh, nhiều người có trách nhiệm bảo vệ luật pháp lại vi phạm luật pháp đến mức
nghiêm trọng (trong những năm gần đây, ngồi ghế bị cáo trước các tòa án ngày
càng có nhiều cán bộ công an, kiểm tra và cả tòa án nữa). Có lúc ta đề xướng
"Nhà Nước Pháp Quyền " (có thêm mấy chữ xã hội chủ nghĩa), nhưng chưa
kịp hiểu đó là cái gì thì lại "thu hồi ", hoặc chỉ nhắc tới hời hợt
và chiếu lệ, ở đây, cần phải khắc phục một quan niệm sai lầm là : sợ có dân chủ
thì mất kỷ cương, đưa tới hỗn loạn. Ngược lại mới đúng, thiếu dân chủ mới chính
là nguyên nhân đưa tới mất kỷ cương, hỗn loạn. Còn dân chủ, với luật pháp rõ
ràng và nghiêm minh lại là điều kiện bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã
hội. Thực hành dân chủ tới nơi tới chốn, sẽ tước bỏ ngọn cờ dân chủ và nhân
quyền của những "thế lực thù nghịch". Ngọn cờ đó phải thuộc về chúng
ta.
- Ba : Nước ta trong nhiều thập niên liền quen sống
trong những điều kiện chiến tranh, người dân sẵn sàng phục tùng sự chỉ huy từ
trên xuống để thực hiện "tất cả cho chiến thắng". Người dân đã tự nguyện thu hẹp, thậm
chí hy sinh những quyền tự do dân chủ của mình. Ðây là việc ta hoãn lại một món
nợ đã vay của dân, đến thời hạn, ta phải trả nợ sòng phẳng. Trong hoàn cảnh hòa
bình xây dựng đất nước hiện nay, chế độ mà người dân từng hy sinh để bảo vệ
phải thực hiện trọn vẹn phương châm "do dân, của dân, vì dân" không
thể để chế độ trở thành "do một nhóm nhỏ, vì một nhóm nhỏ, của một nhóm
nhỏ". Nếu không làm như vậy, người dân sẽ không coi chế độ là của mình
nữa.
- Bốn : Gần đây có người đề xướng rằng phải làm kinh
tế trước đã, rồi sau đó mới nói tới dân chủ. Thực tế cho thấy hoàn toàn ngược lại. Trong hoàn cảnh đất
nước nghèo khổ và lạc hậu như nước ta, muốn xây dựng đất nước, phải huy động
toàn bộ nội lực. Không thể huy động nội lực được, khi người dân không có các
quyền dân chủ, dù là tối thiểu. Người dân phải có quyền biết và quyết định
mình phải đóng góp những gì, bao nhiêu, những đóng góp của mình (vay vốn bên
ngoài cuối cùng cũng là sự đóng góp của dân) được chi vào những gì, có hợp lý
hay không, và những đóng góp của mình sẽ mang lại cho mình những gì. Không
thể để của xã hội cho một số ít người thao túng. Tệ nạn tham nhũng gần như vô
phương cứu chữa hiện nay chính là do sự thao túng ấy đẻ ra. Kinh nghiệm nóng
hổi của một số nước Ðông Á và Ðông Nam Á đã cho thấy sự thao túng tài chính -
tiền tệ của một nhóm người (liên kết giữa một số quan chức chính phủ và những
ngân hàng đầu sỏ thành một hệ thống khép kín) là một trong những nguyên nhân
sụp đổ của các nền kinh tế tưởng chừng rất mạnh. Các cuộc khủng hoảng đó, như đã
thấy, chính là do thiếu dân chủ, do dân chủ nửa vời, do không có những thể chế
dân chủ đầy đủ để mỗi người dân có thể kiểm soát được những hoạt động tài
chính- tiền tệ.
Ðúng là dân chủ
không thể xây dựng trong một ngày. Phải hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm
mới xây dựng được những thể chế dân chủ vững chắc. Nhưng đó không phải là lý do
để trì hoãn việc xây dựng các thể chế dân chủ và thực thi dân chủ.
Tình hình đất nước đang
đòi hỏi dân chủ hóa một cách bức thiết. Tôi không nói rằng dân chủ hóa là thuốc
trị bách bệnh, còn phải làm những việc khác nữa mới đưa đất nước lên con đường
phát triển như mọi người đều mong muốn, mới rửa được cái nhục nghèo khổ và tụt
hậu. Nhưng dân chủ hóa là điều kiện không thể thiếu, điều kiện đầu tiên để đảm
bảo sự phát triển của đất nước. Khi người dân không có tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tức những quyền tự do tối thiểu của
một chế độ dân chủ, thì mọi bàn luận về sự phát triển của đất nước, về hiện đại
hóa đất nước chỉ là vô ích.
Bởi vì, như đã nói
ở trên, chỉ có những quyền tự do này mới tạo nên được sức mạnh trí tuệ toàn dân
tộc, và chỉ có sức mạnh này mới đưa tới sự phát triển của đất nước.
Tất cả những điều
tôi vừa nói là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp 1992 của nước ta, trong đó đã
quy định rõ các quyền tự do ấy. Vấn đề bây giờ là nghiêm chỉnh thực hiện Hiến
pháp này.
1- Ta cần có một
cái nhìn tổng quát về Tình Trạng Ðất Nước. Ðất nước ta vốn là một trong số ít
nước nghèo khó và lạc hậu nhất thế giới, lại phải trải qua hơn 30 năm chiến
tranh tàn khốc liên miên. Thêm vào đó do nhiều lý do, những năm đầu của thập
niên 80 đất nước ta đã ở bên bờ vực thẳm. Cuộc đổi mới khởi phát từ năm 1986 đã
đưa nước ta ra xa khỏi bờ vực thẳm đó. Hơn 10 năm ta đã có một số thành tích và
tiến bộ, nhưng về cơ bản Nước Ta Vẫn Là Môt Ðất Nước Nghèo Khổ Và Lạc Hậu. Một
số thay đổi tốt ở một số thành phố chỉ mới là dấu hiệu của một bước tiến bộ
bước đầu. Nhưng đó là những điều kiện tốt đẹp để ta đưa đất nước ta phát triển
lên!
Ta đang phát triển
một cách đầy ngập ngừng bất trắc và phức tạp, xã hội ta đang gặp phải những tệ
nạn và bệnh hoạn nguy hiểm. Tinh thần chung các tầng lớp nhân dân là thiếu lòng
tin, thờ ơ, nặng về vị kỷ, thiếu một hùng khí yêu nước để đẩy đất nước lên. Cần
phải nhìn tình hình với con mắt khách quan, toàn cục và bình tĩnh như vậy, từ đó
mà xem xét, toan tính bước đi lên cho thật thích hợp.
a) Nếu không ra khỏi cái bùng nhùng, bệnh hoạn thì sẽ
bị sụp đổ, mà là một sự sụp đổ không ai cứu nổi.
b) Nếu cứ để bùng nhùng kéo dài thì tình hình xã hội
sẽ mất ổn định ngày càng lớn, Ðảng lại buộc phải đối phó, đàn áp và cuối cùng
CŨNG TAN RÃ. Nguy cơ hiện nay là cực kỳ nghiêm trọng, không phải là nhận định 4 nguy
cơ "nhẹ nhàng" như trước :
- Tụt hậu ư? Không phải nguy cơ mà là ta đang tụt
thật.
- Tham nhũng ư? Không phải là nguy cơ mà đang là quốc nạn.
- Kẻ thù bên ngoài ư? Không có gì rõ rệt, chỉ có ta đang tự làm hại ta.
- Chệch hướng ư? Hướng nào? Hướng tư bản chủ nghĩa ư?
- Thế là phản động, phản cách mạng?
- Hướng xã hội chủ nghĩa ư? Ðấy là thất bại, là ngõ cụt! Ta đã có hướng rõ đâu
mà chệch, ta đang chệnh choạng.
3- Hội nghị trung ương 4 đề ra "phát huy nội
lực" đó là một tiền đề đúng. Nhưng phải nâng khẩu hiệu đó lên thành ra
những tư tưởng chiến lược và tư tưởng chung, không phải ở mức chiến thuật cứu
nguy, không phải chỉ là kinh tế. Cần quan niệm:
- Nội lực gồm kinh tế (vốn trong dân, tài năng kinh
doanh, tài nguyên đất nước, lao động), chính trị, văn hóa (tự do, dân chủ thật
sự và rõ ràng), trí tuệ và tài năng (cũng yêu cầu tự do dân chủ). Vì vậy, phát
huy nội lực phải dân chủ hóa mạnh mẽ, dân chủ hóa mạnh mẽ sẽ tạo nên hùng khí
yêu nước, rửa nhục nghèo khổ, lạc hậu, tài năng nở rộ, nội lực sẽ phát triển
mạnh mẽ.
- Ta không nên sợ có giai cấp tư sản, mà phải tạo mọi điều
kiện để hình thành một tầng lớp kinh doanh giỏi. Ðó cũng là một nội lực.
Trên cơ sở quan
niệm đó, mà điều chỉnh hướng đi cho phù hợp với các trào lưu và kinh nghiệm thế
giới. Chắc chắn ta sẽ tiến mạnh không cần nhiều khẩu hiệu.
Muốn được như vậy,
thì Ðảng là yếu tố quyết định: Ðảng phải tổ chức thảo luận những vấn đề chung
và có nhiều phương án.
Cần xác định một tư
tưởng chỉ đạo bao trùm cao nhất là "Phát triển đất nước là thiêng liêng
nhất, cao nhất, hơn bất cứ cái gì khác". Bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng cũng
cần nằm trong tư tưởng chỉ đạo đó và Ðảng cần làm tròn vai trò quyết định của
mình bằng phải kiên quyết, chủ động tự đổi mới. Như thế, vai trò của Ðảng càng được
bảo đảm, không những thế, càng được nâng cao!!
Nói Về Ðảng :
1- Cần khẳng định
là Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã có vai trò tuyệt vời trong cuộc đấu tranh dành độc
lập và thống nhất nước nhà. Giai đoạn này Ðảng được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên lý xây dựng Ðảng chiến đấu. Ðiều đó đã tạo cho Ðảng một sức mạnh
chiến đấu vô địch và Ðảng đã cùng nhân dân chiến đấu oanh liệt dành thắng lợi
lớn.
Những nguyên lý phù
hợp với tình thế cách mạng võ trang và chiến tranh thì như thế. Nhưng trong
tình thế xây dựng trong hòa bình mà máy móc áp dụng những nguyên lý đó thì tạo
ra nhiều yếu tố làm suy yếu sức mạnh của Ðảng và làm cho Ðảng xa dần nhân dân,
mất dần lòng tin trong nhân dân.
2- Nay có câu hỏi
của nhiều thế hệ đặt ra (và nhiều hơn là ở thế hệ lão thành) là: Tại sao Ðảng
bây giờ khác Ðảng ngày xưa? Cái khác rõ ràng là:
a) Ngày xưa Ðảng Với Dân Là Một, nguyện vọng, ý chí
của từng đảng viên cũng là ý chí, nguyện vọng của mỗi người dân. Ðảng sống
trong dân, Ðảng là dân, dân nuôi Ðảng, bảo vệ Ðảng, chia sẻ ngọt bùi, chia đạn,
chia máu với Ðảng. Vì vậy thật tốt đẹp. Ai đã sống qua đều tha thiết, tiếc nuối
mối quan hệ đó.
b) Ngày nay Ðảng Với Dân Là Hai. Ðảng là ai? Ðảng là
những người cai trị có quyền lực, cai trị dân và dân vẫn như ngày xưa, là những
người bị cai trị, thấp cổ bé họng.
Ngay trong Ðảng
cũng chia thành hai: Một lớp đảng viên lãnh đạo có quyền lực và quyền lực cao
hơn, còn đa số đảng viên thường vẫn chỉ sống với nguyên tắc dân chủ tập trung:
chỉ biết quán triệt các đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, và chấp
hành vô điều kiện. Không có điều kiện bàn bạc, và không thể bàn luận gì được (kể cả các đảng
viên lão thành).
Tại sao lại có tình
hình Một Thành Hai như vậy?
Xin tạm thời lý
giải:
1- Trước đây, nhiệm
vụ chung của mọi người là đấu tranh cho độc lập, thống nhất. Ngày nay, người có
nhiệm vụ lãnh đạo, cai trị, người có nhiệm vụ phục tùng sự cai trị.
2- Lẽ ra, từ chỗ
ÐẢNG - DÂN, dành được chính quyền rồi thì Ðảng cần thiết phải có một thời gian
là ÐẢNG - NHÀ NƯỚC, rồi khi Nhà Nước đã lớn mạnh thì Ðảng lại phải tách ra và
trở lại là ÐẢNG - DÂN, chỉ làm việc lãnh đạo chính trị thôi, còn việc quản lý,
cai trị và chuyên môn là việc của nhà nước, để nhà nước làm, mà trong Nhà nước
cũng đã có nhiều đảng viên rồi. Nhưng ta đã không làm thế, ta cứ làm ÐẢNG - NHÀ
NƯỚC mãi.
Thật là phúc lớn
cho đất nước và cho cả những đảng viên đã suốt đời vì Ðảng, nếu Ðảng nhìn rõ
tình hình, tự mình đổi mới, tự mình chủ động cải cách, nếu không hậu quả thật
khó lường.
Thêm vào đó, các đảng
viên của nước ta, đặc biệt các đảng viên có vị trí lãnh đạo cao, đều bị tiêm
nhiễm rất nặng nề (mà không biết) tâm lý tiểu nông (nhỏ nhen, tủn mủn, kèn cựa,
ganh tỵ) và tâm lý thói xấu của xã hội phong kiến (hiếu danh, đẳng cấp). Thế
trong cuộc sống cứ "Ðảng hóa" và "Lenin hóa" các tâm lý và
thói xấu đó để "đấu tranh". Vì vậy, không thể chấm dứt được tình
trạng "mất đoàn kết" và các thứ vận động "xây dựng Ðảng" đều
trở thành hình thức một cách thảm hại. Ta có rất nhiều "Ðảng bộ trong
sạch, vững mạnh" mà tình hình tệ nạn, bệnh hoạn xã hội, không giảm lại cứ
tăng lên.
3- Khi ÐẢNG - DÂN
(Ðảng và Dân là một) thì phương thức lãnh đạo của Ðảng là toàn diện, triệt để.
Nay phải "thay đổi phương thức lãnh đạo ", như nhiều nghị quyết của
Ðảng đã nói thì phương thức lãnh đạo của Ðảng cần đổi mới.
Tiếc thay, hiện nay
Ðảng là Ðảng Trị, Lại Ðộc Tôn, không có bất cứ một cơ chế giám sát nào, không
có bất cứ một lực lượng giám sát nào, kể cả những người ở trong Ðảng. Ðã độc
tôn thì tất yếu đi tới lộng quyền.
Cần phải thực hiện
phương thức:
Ðảng Chỉ Nên Là
Lãnh Ðạo Chính Trị, còn các tổ chức khác: chính phủ, quốc hội, Mặt Trận phải có
nhiệm vụ và công việc của mình. Các tổ chức đó phải độc lập giải quyết lấy việc của mình. Sinh hoạt của
Ðảng trước đây chủ yếu là "quán triệt, chấp hành" thì nay sinh hoạt
Ðảng nên chủ yếu là bàn luận, thảo luận trong Ðảng, thảo luận với Dân (qua tự
do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản)
Như vậy, vai trò
của Ðảng không giảm, không mất, mà lại càng được củng cố và nâng cao. Nếu cứ
giữ mãi cảnh ÐẢNG - NHÀ NƯỚC thì dân ngày càng xa Ðảng, uy tín và vai trò của
Ðảng ngày càng thấp và mất dần.
Hiện nay, có thể
nói một cách chắc chắn rằng, không có một thế lực nào ở trong nước hay ngoài
nước có thể phá được Ðảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có Ðảng tự mình không thích
ứng làm suy yếu mình thôi.
Muối giải quyết các
vấn đề trên thì việc cốt tử là phải dân chủ hóa. Dân chủ hóa là làm từng bước,
có những việc "cần làm ngay ". Xin kèm đây một phụ lục về hai việc
cần làm ngay.
Cuối 1997 đầu 1998
Trần Ðộ
Phụ Lục :
Ðể thực hiện một
nền dân chủ tiến bộ làm cho đất nước có thể sánh ngang với thế giới, không cần
làm nhiều việc phức tạp, cần nhiều thời gian mà chỉ cần làm hai việc đơn giản
rất hiện thực và khả thi, đó là những điều đã ghi trong Hiến pháp, mà ta chưa
thực hiện.
Thực hiện việc này,
chỉ cần bổ xung hoặc thay đổi hai bộ luật đã có là luật báo chí và luật xuất
bản. Hai luật đã có này đều đã đi ngược lại tinh thần và lời văn của Hiến pháp
1992 và cả các bản Hiến pháp có trước, nhất là Hiến pháp 1946. Bây giờ cần có
luật cho phép tư nhân có quyền ra báo chí và lập nhà xuất bản chỉ cần thông báo
cho cơ quan nhà nước và chấp hành mọi luật lệ của nhà nước, không phải xin phép
ai. Ðó là điều mà nhân dân ta đã có ngay trong thời Pháp thuộc. Gần đây anh
Nguyễn Văn Trấn đã viết một cuốn sách dài "Gửi Quốc Hội và Mẹ" cũng
chủ yếu nói có điều này và tỏ lòng ước vọng sao cho nhân dân ta được Dân Chủ
Bằng Thời Pháp Thuộc! Thật mỉa mai! Báo chí sẽ được độc lập với Nhà Nước, không
bị bất cứ một sự chỉ đạo, kiểm soát nào. Luật của ta (đã có) nhấn mạnh điều
"không kiểm duyệt trước khi in", làm như đó là chứng tỏ sự dân chủ
nghê gớm. Thực ra các cơ chế "thống nhất quản lý " báo chí của Ðảng
và Nhà Nước (chủ yếu là ở các cấp ủy và cơ quan của Ðảng) còn gay gắt và ngặt
nghèo hơn hàng ngàn lần là có kiểm duyệt. Vì có kiểm duyệt thì tình hình nó lại
rõ ràng và sòng phẳng, hơn rất nhiều lần lối kiểm duyệt vô hình.
- Thực hiện điều
này, trước hết là thực hiện được việc "Nhân dân có tiếng nói thực sự
" và tiếng nói này trước hết là tiếng nói của các tầng lớp trí thức và lão
thành, có tiếng nói này được phát biểu mạnh mẽ thì sẽ có một lực lượng đông đảo
giám sát, ngăn chặn nạn tham nhũng và các tiêu cực khác mà ta có lập hàng trăm,
ngàn cơ quan Ủy ban, Hội đồng... cũng không có tác dụng bằng mà còn làm cho
tham nhũng càng phức tạp thêm.
- Có tiếng nói kiểu
này là thực hiện việc giám sát các cơ quan nhà nước, và cả các cơ quan Ðảng (và
nhất là các cơ quan Ðảng hiện nay không chịu bất cứ một sự giám sát nào, và đã
có nhiều biểu hiện lộng quyền, muốn làm ngược làm xuôi thế nào, nói ngược, nói
xuôi thế nào cũng được, cũng bắt người ta phải theo) có sự giám sát này mới
thực hiện được đúng khẩu hiệu: Do dân, của dân, vì dân. Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra.
Quốc hội hiện nay
không làm được việc giám sát Chính phủ, không thực hiện được chức năng
"quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước" mà thường bị Chính
phủ "tiền trảm hậu tấu ", bị động. Quốc hội làm ra luật, nhưng làm ra
luật để làm gì, nếu có nhiều người cứ làm ngược lại luật, làm sai luật, mà Quốc
hội đành bất lực không có chút quyền lực nào can thiệp, thì thành tích làm luật
cũng bằng không.
- Thực hiện tự do
ngôn luận, tự do báo chí, mọi người hăng hái đua nhau phát biểu ý kiến về nhưng
vấn đề đất nước, từ đó ta sẽ phát hiện được nhân tài, nhân dân sẽ phát hiện được
người hay hay kẻ dở, giúp cho Ðảng thu thập được nhiều ý kiến, phát hiện được
nhiều vấn đề và phát hiện được nhiều nhân tài.
Có người ngại rằng
tự do báo chí thì sẽ tự do lung tung, lộn xộn, kẻ xấu kích động, kẻ thù lợi
dụng, là mất ổn định chính trị. Sự sợ hãi đó là không căn cứ. Sự việc ở Thái
Bình về cơ bản là xuất phát từ nguyên vọng chính đáng, và sự bất bình cũng
chính đáng của nhân dân.
Nếu ta cứ thiếu dân
chủ thì có nhiều kẻ địch sẽ kích động và lợi dụng mạnh hơn. Nếu ta thực thi dân
chủ, thì chính là một đòn đánh mạnh vào các thế lực thù địch và gây được nhiều
cảm tình với nhân dân thế giới. Trình độ dân chủ thế giới đã tiến tới trình độ
bầu cử tự do và phổ biến, nhân dân có quyền phản đối các bộ luật dự kiến thông
qua, tuyên bố không chấp hành đạo luật nào đã thông qua mà ảnh hưởng xấu đến
quyền lợi nhân dân.
Trong tình hình đó,
thực thi dân chủ rộng rãi và mạnh mẽ là ta tích cực hòa nhập vào thế giới.
Trong khi ta đã có
400 tờ báo trong các tổ chức "được thống nhất quản lý", nếu có 1,2 tờ
báo độc lập thì sinh hoạt tư tưởng của xã hội sẽ sôi động và tốt đẹp hơn, các
bậc trí thức, các vị lão thành có chỗ phát biểu ý kiến. Ðảng và Nhà nước có
nhiều điểm tham khảo và ngăn ngừa, Ðảng và Nhà nước sẽ tốt đẹp hơn lên, không
cần có những vụ án gây xôn xao như vụ Hoàng Minh Chính, Hà Sỹ Phu và vụ đang
quản thúc nhà thơ Bùi Minh Quốc.
Cho rằng thực hành
dân chủ, sẽ mất ổn đinh chính trị là sự ngược đời. Chỉ có mất dân chủ, mở rộng tham nhũng, mới làm cho xã
hội, nhân dân ấm ức, bất bình, từ đó xã hội không thể ổn định được.
Bầu cử và ứng cử là
một thể chế then chốt quan trọng của chế độ dân chủ. Thực hiện dân chủ tập
trung cũng phải qua bầu cử, ứng cử. Bầu cử càng tốt, càng chính xác thì chế độ
dân chủ tập trung càng vững mạnh. Hơn bất cứ một lời kêu gọi nào! Không thể
không nhìn qua tình hình bầu cử, ứng cử của ta hiện nay. Ta đang nói nhiều đến
"dân chủ trực tiếp" và "dân chủ đại biểu ", bàn về điều đó
không có ý nghĩa gì, mà nhìn qua vào tình hình bầu cử, ứng cử của ta để đề xuất
một thể chế tốt hơn, thì hay hơn.
Tình hình bầu cử và
ứng cử của ta có mấy nét tóm tắt mà nhân dân ai cũng biết, ai cũng không tán
thành, nhưng cứ phải làm theo:
- Rất coi trọng cơ cấu, định cơ cấu xong mới tính đến
nhân sự. Trong cơ cấu thì phải thỏa mãn nhiều cân đối.
- Ðảng viên, không đảng viên, địa phương, dân tộc,
nam, nữ, tuổi trẻ. Trong khi dồn sức lực vào việc cơ cấu, tất yếu là rất ít chú
trọng đến chất lượng người ứng cử.
- Việc đề ra tiêu chuẩn thường là chung chung, mơ hồ,
hiểu thế nào cũng được, không có những yêu cầu kiểm chứng cụ thể. Tình hình này
rất khó cho người bầu cử cân nhắc và lựa chọn. Mọi người đều "đi bầu cho
xong việc" mặc cho các phương tiện tuyên truyền về "ngày hội ",
nhưng không ai thấy trong lòng mình một tý "ngày hội " nào.
- Mọi phương án nhân sự đều do một trung tâm xếp đặt,
chỉ đạo. Tất cả những người đi bầu chỉ biết làm theo. Dân đã có câu: "Ðảng
cử, dân bầu ", như vậy thì ta hô "dân làm chủ ", nhưng thực ra
chỉ có Ðảng làm chủ thôi.
- Tuyên bố cho "ứng cử tự do ", nhưng không
một ứng cử viên tự do nào được độc lập. Kết quả thường chỉ có vài người, gọi là
ứng cử tự do, nhưng thường là không bao giờ trúng được.
- Chế độ "hiệp thương" ở Mặt Trận Tổ Quốc là
một chế độ chắt lọc rất hữu hiệu để gạt tất cả những người ứng cử tự do không để
họ có cơ hội lọt vào danh sách. Ai cũng biết thế, nên nhiều người dú có muốn ra
làm việc cho dân cho nước, cũng chán nản mà co lại không muốn đua tranh. Việc
quy định ở quốc hội, chỉ có 80% đảng viên là chứng tỏ một thiện chí của Ðảng.
Nhưng thế giới họ nhận xét: 70 triệu dân chỉ có 20% đại biểu trong quốc hội,
còn 2- 3 triệu đảng viên lại có đến 80% đại biểu. Ðó không phải là họ nói xấu,
họ kích động, mà họ nói lên một sự thật. Theo cách nhìn của họ, ta không tán
thành cách nhìn đó, nhưng cũng chẳng làm cách nào thay đổi được sự thật đó.
Ðó là chủ yếu nói
vế cuộc bầu cử quốc hội, nhưng chế độ bầu cử của ta ở trong Ðảng hay ngoài
Ðảng, ở bất cứ cấp nào cũng đại khái thế cả. Tuyệt nhiên, không thể coi đó là
một chế độ bầu cử dân chủ.
Tôi đề nghị một chế
độ bầu cử, ứng cử có mấy điểm như sau, tạm đặt tên là "Bầu Cử Nhiều
Vòng" có thể thực hiện ở mọi cấp, mọi ngành:
1- Việc giới thiệu
ứng cử viên, không nên hạn chế ở một số cơ quan có quyền lực, mà nên thực hiện:
nhiều vòng giời thiệu:
- Vòng một: Công bố yêu cầu của ứng cử viên (thay cho đề
ra tiêu chuẩn) tôi xin nói sau, yêu cầu mọi người có liên quan giới thiệu danh
sách. Tất nhiên sự
giới thiệu sẽ đưa ra một số lượng khổng lồ. Ví dụ cần có 10 người, thì danh
sách giới thiệu có thể lên hàng ngàn.
- Vòng hai: Trên kết quả của sự giới thiệu đó, công bố
rộng rãi (đến khắp mọi người có liên quan) và yêu cầu nói rõ là chỉ cần bầu có
10 người vậy mọi người giới thiệu hãy lựa chọn trong số hàng ngàn người đó lấy
ra một danh sách độ 30 người. Và yêu cầu giới thiệu lại lần thứ hai một danh
sách 30 người.
Sau khi trưng cầu
thế rồi, tất nhiên danh sách vẫn có thể có quá nhiều, đến 80 - 100 thì lại
trưng cầu lần thứ ba, yêu cầu mọi người căn cứ vào danh sách đã tổng hợp lần
thứ hai, chọn một danh sách giới thiệu 10 người. Sau đợt này thì số danh sách
còn lại độ 20 - 30 người hoặc 40 - 50 người là một số lượng có thể chấp nhận, đưa
ra thành danh sách bầu cử. Tất cả mọi bước đều làm công khai, tất cả mọi người đều
biết và đều theo dõi được quá trình.
Như vậy là tất cả
cử tri tham gia lập danh sách ứng cử viên, mà không phải bất cứ một sự hiệp
thương nào, ở cơ quan nào cả. Cơ quan tổ chức, hoặc cơ quan bầu cử chỉ còn việc
thẩm tra tư cách và yêu cầu của một số ứng cử viên có hạn, và không còn phải
vắt óc tìm ứng cử viên. Như thế mới bỏ được tư tưởng "cơ cấu " mà vì
theo tư tưởng đó nhiều khi mọi người phải bầu những người hoàn toàn không xứng đáng.
Vòng 3, vòng 4 là sự bầu cử trên một danh sách mà tất cả các cử tri đã tham gia
cân nhắc và chọn lựa.
2- Về cái gọi là
tiêu chuẩn ứng cử viên, tôi đề nghị bỏ khái niệm tiêu chuẩn vì đã là tiêu chuẩn
thì phải đong đếm được, đằng này nêu những tiêu chuẩn với một con người cụ thể
mà có nhiều cách trình bầy khác nhau thì nó rất mơ hồ và rất không chính xác,
nó chỉ thích hợp với sự tùy tiện của những người có quyền lực quyết định:
"Yêu nhau củ ấu cũng tròn", thay vào đó nên đề ra "yêu cầu
", đại để như :
Yêu cầu về đức:
- Không phản quốc, không phạm tội, hoặc đã phạm tội
nhưng đã được xóa án
- Có tinh thần tận tụy với công việc
- Có tinh thần tích cực học tập luôn cầu tiến
- Có tinh thần khiêm nhường, thân ái và quý trọng mọi
người
- Ăn ở tử tế với ông bà, cha mẹ, vợ con, và những
người xung quanh.
- Hiểu biết và tôn trọng đạo lý làm người
- Có lòng trung thực, năng động trong công việc, biết
chịu trách nhiệm về ý kiến của mình
Yêu cầu về tài :
- Có trình độ học vấn, có trình độ kiến thức, chuyên
môn, có kinh nghiệm trong công tác chuyên môn
- Có tinh thần khiêm tốn, trách nhiệm cao đối với công
việc
- Có năng lực thuyết phục và động viên, thu hút mọi
người say sưa với công tác chung.
- Có chính kiến rõ ràng về các công việc mình phụ
trách.
- Về tuổi, nên yêu cầu đối với cấp toàn quốc, đại biểu
cần trên 40 tuổi, đối với cấp dưới và cơ sở, yêu cầu trên 30 tuổi, không nên
tính chuyện "cơ cấu" những người ứng cử trên dưới 20 tuổi, thực chất
là hình thức thực hiện trẻ hóa một cách máy móc.
Những yêu cầu trên
không cần phân ra phần đức phần tài, vì theo yêu cầu đó đều là những yêu cầu về
phẩm chất một cán bộ lãnh đạo và quản lý, những phẩm chất đó đều cần có những
chứng thực cụ thể: thể hiện trong hành động hàng ngày của công việc đang phụ
trách, ý kiến dư luận của những đồng nghiệp và của những công nhân viên dưới
quyền, tuyệt nhiên không thể là một nhận xét suông của một người hay một cơ
quan nào!
Những người ứng cử
tự do, được quyền độc lập với các cơ quan quyền lực, tùy theo sự quan trọng của
từng cơ quan từng cấp mà người ấy ứng cử, người ấy phải được một số chữ ký ủng
hộ việc ứng cử của người ấy. Sau đó tên người ấy được nhập vào danh sách giới thiệu và được tham gia
lựa chọn qua các vòng.
Như vậy mới thật cụ
thể cái gọi là "làm chủ của dân ". Nhân dân thực sự tham gia giới
thiệu người ứng cử và được bầu cử thực sự tự do, thực sự có sự làm chủ, sự lựa
chọn của mình. Thực hiện việc này chỉ cần thời gian chuẩn bị lâu hơn, còn không
có bất cứ sự bất tiện và sự giả dối nào.
Thực hiện việc dân
chủ còn nhiều việc phải làm. Trên đây là 2 việc có thể làm được ngay và hoàn
toàn có thể làm được không có bất cứ một sự phiêu lưu, mạo hiểm nào. Nếu ta
thật sự tin vào nhân dân, thì ta không sợ bất cứ một ý kiến xấu nào được dân
chấp nhận, không sợ dân bỏ qua một âm mưu nào bằng lời và bằng người của các
loại kẻ địch.
Tất nhiên còn rất
nhiều việc làm để hoàn thiện một nền dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhưng đây là 2 việc cụ thể cần làm ngay và có thể làm được ngay, ít nhất là nó
ngăn ngừa được những suy nghĩ và hành động làm tổn thương đến nền dân chủ của
chúng ta mà bác Hồ và toàn dân ta đã tốn bao xương máu để xây dựng nên như ngày
nay. Cần rất thấm thía sâu sắc lời nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là: "Ðộc
lập mà không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa "
Muốn có tự do, hạnh phúc phải có dân chủ!
Trần Ðộ