Đoạn
6 : Những vụ việc ngụy tạo
Thu thập được
nhiều số liệu chứng tỏ sự độc
đoán trắng trợn đối với các cán bộ
đảng, Ban chấp hành trung ương đă lập ra
một ủy ban - hoạt động dưới sự
kiểm soát của Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung ương
đảng - nhằm nghiên cứu những nguyên nhân đă
gây nên các vụ đàn áp hàng loạt đối với
đa số thành viên chính thức và dự khuyết của
Ban chấp hành trung ương do Đại hội nghị
lần thứ XVII bầu ra.
Ủy ban này,
trong quá tŕnh t́m hiểu một số lớn tài liệu lưu
trữ của Bộ Dân ủy Nội vụ (N.K.V.D.)(1) và
các tư liệu khác, đă đi đến nhận
định sau : trong nhiều trường hợp, các
vụ án ngụy tạo được bày đặt
để đàn áp các đảng viên cộng sản,
những lời buộc tội giả trá được
đặt ra, luật pháp xă hội chủ nghĩa bị
xâm phạm trắng trợn, dẫn đến việc
nhiều người vô tội bị sát hại. Rơ ràng là
nhiều chiến sĩ của đảng, của
xô-viết, của các ngành kinh tế - bị lên án là
"kẻ thù" trong những năm 1937- 38(2) - thực ra
họ chưa bao giờ là kẻ thù, là gián điệp, là
kẻ phá hoại v.v... mà luôn luôn là những người
cộng sản chân chính. Nhưng họ đă bị vu
khống và thường thường, v́ không chịu
nổi những đ̣n tra tấn dă man, họ đă tự
gán cho ḿnh (theo lệnh của lũ nhân viên điều tra
man trá) những tội tày đ́nh và vô lư nhất.
Ủy ban đă
đệ tŕnh lên chủ tịch đoàn Ban chấp hành
trung ương một tư liệu đồ sộ và có
cơ sở về các vụ đàn áp đại quy mô
đối với các đại biểu Đại hội
lần thứ XVII và các thành viên Ban chấp hành trung ương
do đại hội đó bầu ra. Đoàn chủ tịch Ban
chấp hành trung ương đă nghiên cứu cặn
kẽ tư liệu trên.
Cuộc
điều tra đă cho thấy 98 người trong số
139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban
chấp hành trung ương do Đại hội thứ XVII
bầu ra, nghĩa là 70 %, đă bị bắt bớ và
bị xử bắn (phần đông vào những năm
1937-38). (Cả pḥng họp xôn xao công phẫn)
Thử xem thành
phần các đại biểu ở Đại hội lần
thứ XVII ra sao ? Ta được biết 80%
đại biểu có quyền biểu quyết ở
Đại hội thứ XVII đă gia nhập đảng trong
những năm đảng c̣n ở trong ṿng bí mật, trước
cuộc cách mạng hoặc trong cuộc nội chiến,
nghĩa là trước năm 1921. Về thành phần xă
hội, đa số các đại biểu ở Đại
hội (60% số đại biểu có quyền bỏ
phiếu) là công nhân.
Chúng ta không
thể tưởng tượng được một
đại hội với thành phần như trên đă
bầu ra một Ban chấp hành trung ương mà đa
số thành viên là kẻ thù của đảng. Lư do
độc nhất làm 70% ủy viên chính thức và dự
khuyết của Ban chấp hành trung ương bị
tố cáo là kẻ thù của đảng và nhân dân là ở
chỗ các chiến sĩ cộng sản trung thực đă
bị vu khống dựa trên những lời buộc
tội bịa đặt, khiến pháp lư cách mạng
bị vi phạm trầm trọng.
Bên cạnh
những ủy viên Ban chấp hành trung ương, đa
số đại biểu Đại hội lần thứ XVII
của đảng cũng chịu số phận ấy.
Trong số 1956 đại biểu đại biểu chính
thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là
đại đa số đại biểu Đại hội)
bị bắt và bị kết án phản cách mạng. Ngay
bản thân sự kiện này chứng tỏ tính phi lư, ngược
đời, trái với lương tri của những
lời buộc tội "phản cách mạng" gán cho
đa số đại biểu Đại hội lần
thứ XVII. (Cả pḥng nhôn nhao phẫn nộ)
Chớ quên
rằng Đại hội lần thứ XVII được
biết đến trong lịch sử như
"đại hội của những người
chiến thắng". Các đại biểu trong Đại
hội này đă từng tham gia tích cực vào công cuộc
xây dựng nhà nước xă hội chủ nghĩa của
chúng ta. Số đông đă chịu đựng gian khổ
và đă đấu tranh cho lợi ích của đảng
trong những năm tiền cách mạng, trong ṿng bí mật
và trên các mặt trận thời cuộc nội chiến. Họ
đă anh dũng chống lại kẻ thù và thường
xuyên trực diện với cái chết. Làm sao chúng ta có
thể tin được những người như
thế lại là những kẻ giả dối và gia
nhập phe thù địch của chủ nghĩa xă hội,
ở thời kỳ mà bè phái Dinôviép, Trốtsky và bọn
hữu khuynh đă bị thủ tiêu về mặt chính
trị và ở thời kỳ mà nhiều công tŕnh xây
dựng xă hội chủ nghĩa đă được
thực hiện.
Đó là hậu quả
của việc Stalin lạm dụng quyền hành, dùng
khủng bố hàng loạt đối với các cán bộ
đảng.
Thử hỏi v́
sao những cuộc đàn áp đại quy mô đối
với cán bộ đảng tích cực lại càng ngày càng
trở nên trầm trọng hơn sau Đại hội
đảng lần thứ XVII ?
Bởi v́ vào
thời kỳ đó, Stalin đă tự đặt ḿnh lên
địa vị tối cao, trên đảng và nhà nước,
và không đếm xỉa ǵ đến Ban chấp hành trung ương
hay đảng nữa. Vào thời kỳ trước
Đại hội thứ XVII, Stalin phần nào c̣n tôn trọng dư
luận của tập thể. Nhưng khi các bè phái Dinôviép,
Trốtsky và Bukharin đă bị thủ tiêu hoàn toàn về
mặt chính trị, khi cuộc đấu tranh đă mang
lại những thắng lợi xă hội chủ nghĩa,
đảng đă xây dựng được sự
thống nhất, th́ Stalin lại càng không đếm
xỉa ǵ đến các thành viên Ban chấp hành trung ương
đảng và ngay cả các ủy viên Bộ Chính trị.
Khi đó, Stalin cho rằng từ nay tự ḿnh có thể
định đoạt được tất cả
mọi việc và chỉ cần đến một số
bù nh́n mà thôi. Trong sự đối xử với mọi người,
Stalin chỉ coi họ có vai tṛ vâng lệnh và tán dương
ḿnh.
Sau vụ ám sát
Kirốp(3), những cuộc đàn áp hàng loạt và
những hành động vi phạm một cách thô bạo
luật pháp xă hội chủ nghĩa bắt đầu
diễn ra. Tối mùng 1-12-1934, theo đề xuất
của Stalin (không có sự đồng ư của Bộ Chính
trị - Bộ Chính trị chỉ thông qua sau đó hai ngày),
bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ênukítdê đă kư
một chỉ thị như sau :
1. Các cơ quan
điều tra phải xúc tiến việc thực hiện
thủ tục h́nh sự đối với những kẻ
bị kết tội chuẩn bị hoặc tiến hành
các hành động khủng bố.
2. Các cơ quan tư
pháp không được làm chậm trễ việc thi hành
các án tử h́nh v́ cớ muốn xét lại để ân xá
đối với những bị can thuộc loại này.
Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Liên Xô
không chấp nhận việc xét lại để ân xá như
thế.
3. Các cơ quan
của Bộ Dân ủy Nội vụ phải thi hành
tức khắc các bản án tử h́nh đối với
lũ can phạm thuộc loại đă nói trên.
Chỉ thị
này, trong vô số trường hợp, là cơ sở
của những hành động vi phạm pháp chế xă
hội chủ nghĩa.
Trong nhiều
vụ án ngụy tạo, các bị cáo bị buộc
tội "chuẩn bị" những cuộc bạo
động. Bản thân chỉ thị nói trên đă
khiến trường hợp của họ không thể
được thẩm tra lại, cho dù họ đă tuyên
bố trước ṭa án rằng những lời "thú
tội" của họ là do họ bị tra tấn, và
mặc dầu họ đă chứng tỏ một cách xác
đáng rằng những lời buộc tội họ là
bịa đặt.
Phải nhấn
mạnh rằng tới nay, nhiều điều khó hiểu
và bí ẩn trong hoàn cảnh xảy ra vụ ám sát Kirốp
và cần phải được điều tra thật
kỹ càng. Có nhiều lư do để nói Nikôlaiép(4) - kẻ
đă hạ sát Kirốp - đă được một
kẻ trong số những người có nhiệm vụ
bảo vệ cho Kirốp tiếp tay. Một tháng rưỡi
trước ngày xảy ra vụ ám sát, Nikôlaiép bị
bắt v́ bị "t́nh nghi", nhưng rồi được
thả ra, thậm chí cũng không bị thẩm tra ǵ
cả. Đáng nghi ngờ hơn nữa là chuyện một
trinh sát viên Chêka(5) - thuộc đội bảo vệ
Kirốp - "bị tai nạn" xe hơi chết
giữa đường đi lấy khẩu cung ngày
1-12-1934, trong lúc những người cùng ngồi xe hơi
với hắn không hề bị thương tổn ǵ(6).
Sau vụ án Kirốp, những người đứng
đầu N.K.V.D. vùng Lêningrát bị kết án rất
nhẹ, nhưng đến năm 1937, họ đều
bị tử h́nh. Có thể giả thiết bằng việc
bị xử bắn họ, người ta muốn xóa
hết các dấu vết của những kẻ thực
thụ đă tổ chức vụ ám sát Kirốp.(7) (Pḥng
họp xôn xao)
Từ cuối
năm 1936, những cuộc đàn áp hàng loạt ngày càng gia
tăng(8) ở quy mô khủng khiếp. Ngày 25-9-1936, Stalin và
Giơđanốp gửi điện tín từ Sôchi cho
Kaganôvích(9), Môlôtốp(10) và những ủy viên khác của
Bộ Chính trị. Nội dung bức điện ấy như
sau :
Chúng tôi nhận
thấy việc cất nhắc đồng chí Êgiốp vào
cương vị Dân ủy Nội vụ là cần
thiết và cấp bách. Yagôđa(11) đă tỏ ra hoàn toàn
bất lực trong việc vạch mặt khối
Trốtsky - Dinôviép. Cục Chính trị Thống nhất
Quốc gia (O.G.P.U.)(12) đă để vấn đề này
trậm trễ bốn năm. Tất cả mọi
đảng viên và số đông các đại diện
Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đều nhận thấy
điều này.
Phải nhấn
mạnh rằng sự thật là Stalin chẳng bao giờ
tiếp xúc với các đảng viên, như thế làm sao
đồng chí ấy biết được ư kiến
của họ.
Nhận xét
của Stalin - "O.G.P.U. đă trậm trễ bốn
năm" trong việc thi hành đàn áp trên quy mô lớn, và
"phải bù đắp" những thiếu sót - đă
đẩy N.K.V.D. vào con đường bắt bớ và
giết hại hàng loạt.
Đáng lưu ư là
cách diễn đạt nói trên cũng đă được
áp đặt trong hội nghị Ban chấp hành trung ương
đảng vào tháng Hai, tháng Ba năm 1937. Dựa trên căn
bản báo cáo tổng kết "những bài học rút ra
từ các hoạt động phá hoại, xuyên tạc và do
thám của bọn gián điệp Nhật - Đức -
trốt-kít" của Êgiốp, Ban chấp hành trung ương
đă thông qua quyết định sau :
Hội nghị
Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản
(bônsêvích) Liên Xô nhận thấy cuộc điều tra
về trung tâm trốt-kít chống lại nhà nước
xô-viết và những hoạt động của bè lũ
tay chân ở các tỉnh chứng tỏ N.K.V.D. đă có
sự trậm trễ, ít nhất là bốn năm, trong
việc lột mặt nạ những kẻ thù nguy
hiểm nhất của nhân dân(13).
Từ thời
kỳ này, những cuộc đàn áp hàng loạt đă
diễn ra dưới khẩu hiệu chống những người
trốt-kít. Nhưng thử hỏi hồi đó phái
trốt-kít có thực sự nguy hiểm đến thế
đối với đảng và nhà nước xô-viết
không ? Chúng ta cần nhớ rằng vào năm 1927, trước
Đại hội lần thứ XV của đảng, phe
đối lập Trốtsky - Dinôviép chỉ có 4.000 phiếu
trong khi 724.000 phiếu thông qua cương lĩnh của
đảng.
Trong khoảng
thời gian mười năm giữa Đại hội
lần thứ XV và khóa họp tháng Hai, tháng Ba của Ban
chấp hành trung ương, chủ nghĩa trốt-kít
đă hoàn toàn bó giáo quy hàng, nhiều người trốt-kít
đă đoạn tuyệt những quan niệm trước
kia của họ và đă lao động trong mọi lănh
vực xây dựng chủ nghĩa xă hội. Rơ ràng, trong
khung cảnh chủ nghĩa xă hội thắng lợi, không
có lư do ǵ buộc ta phải dùng đến khủng bố
đại quy mô trong cả nước.
Báo cáo của
Stalin trong khóa họp của Ban chấp hành trung ương
tháng Hai, tháng Ba năm 1937 về Những thiếu sót trong
công tác đảng và những phương pháp thủ tiêu
bọn trốt-kít và những bọn giả dối khác là
một thử nghiệm đặt nền móng lư thuyết
cho chính sách khủng bố hàng loạt. Viện cớ càng
tiến lên chủ nghĩa xă hội, cuộc đấu
tranh giai cấp nhất thiết càng gia tăng, Stalin cố
chứng tỏ đó là điều lịch sử và Lênin
đă dạy.
Thật ra, Lênin
chỉ rằng việc sử dụng bạo lực cách
mạng là do nhu cầu quyết định, khi các giai
cấp bóc lột ra mặt chống đối ; hơn
nữa, điều này liên quan đến thời kỳ mà
các giai cấp bóc lột c̣n tồn tại và c̣n mạnh. Nhưng
một khi t́nh h́nh chính trị của đất nước
đă tiến triển tốt, khi mà tháng Giêng năm 1920
Hồng quân đă chiếm được Rôstốp và
đạt được thắng lợi quan trọng
nhất - chiến thắng Đênikin(14) -, Lênin ra lệnh
cho Giécginsky(15) đ́nh chỉ khủng bố hàng loạt và
hủy bỏ án tử h́nh. Trong bản báo cáo tại
hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ngày 2-2-1920,
Lênin đă giải thích biện pháp chính trị quan trọng
ấy của nhà nước xô-viết như sau :
Chúng ta đă
buộc phải dùng tới biện pháp khủng bố
để chống lại chủ nghĩa khủng bố
của bọn đế quốc liên minh, khi các cường
quốc - không ngần ngại bất kỳ một phương
tiện ǵ - tấn công chúng ta. Chúng ta không thể cầm
cự nổi trong hai ngày nếu chúng ta không đáp trả
một cách quyết liệt những mưu đồ
của bọn sĩ quan và lũ Bạch vệ, và đây là
khủng bố, nhưng sự khủng bố ấy do
những phương pháp khủng bố của bọn
đế quốc liên minh bắt buộc chúng ta.
Nhưng một
khi chúng ta đạt được những chiến
thắng quyết định, ngay trước khi kết
thúc nội chiến, sau khi chúng ta vừa chiếm được
thành phố Rôstốp, chúng ta đă hủy bỏ án tử
h́nh và bằng hành động này, chúng ta chứng tỏ
chúng ta thực hiện chương tŕnh như lời
đă hứa. Chúng ta nói việc áp dụng bạo lực là
để dẹp tan các giai cấp bóc lột, dẹp tan
bọn đại điền chủ và bọn tư
bản. Khi công việc này xong xuôi, chúng ta dẹp bỏ
hết thảy mọi biện pháp có tính chất
đặc biệt. Chúng ta đă chứng tỏ
điều này bằng hành động cụ thể.
Stalin đă
bỏ qua những lời chỉ giáo sáng suốt và rơ ràng
ấy của Lênin. Stalin buộc đảng và Bộ
Nội vụ (N.K.V.D.) dùng những biện pháp khủng
bố hàng loạt, khi ở trong nước, giai cấp bóc
lột không c̣n chút dấu vết ǵ và không có bất cứ
một lư do chính đáng nào để áp dụng tràn lan
những biện pháp bất thường.
Sự thật,
khủng bố không nhắm mục đích loại trừ
những tàn tích của giai cấp bóc lột đă thất
bại, nó chỉ chống lại những viên chức trung
thực của đảng và nhà nước xô-viết.
Đối với họ, người ta đă ngụy tạo
ra những lời buộc tội vu khống và phi lư như
bảo họ là "giả dối", "gián
điệp","phá hoại","chuẩn bị
những cuộc mưu sát" giả định với
những phương tiện bất hợp pháp v.v...
Trong khóa họp
Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng Ba năm 1937,
nhiều ủy viên Ban chấp hành trung ương đă
thực sự tỏ ư ngờ vực tính chất đúng
đắn của đường lối khủng bố,
dưới cái chiêu bài "chống bọn giả
dối". Đồng chí Pôstưshép(16) đă phát biểu
sự ngờ vực này một cách chí lư như sau :
Tôi nghĩ
rằng những năm đấu tranh khó khăn đă
đi qua, những đảng viên xa rời đường
lối của đảng và chạy theo kẻ thù đă
bị chúng ta đánh gục ; những phần tử
lành mạnh đang tranh đấu cho đảng. Đó là
những năm xây dựng công nghiệp hóa và công cộng
hóa. Tôi không bao giờ nghĩ rằng sau thời kỳ khó
khăn đó, Kácpốp và những người như anh
lại ngả theo kẻ thù (Kácpốp là thành viên Ban
chấp hành trung ương đảng cộng sản
(bônsêvích) Ukraina, bạn của Pôstưshép). Và vừa
đây, theo những bằng chứng, Kácpốp đă gia
nhập bọn trốt-kít từ năm 1934.
Về phần
ḿnh, tôi không tin một đảng viên trung thực như
Kácpốp, đă từng đi trọn con đường
dài của cuộc tranh đấu liên tục chống
kẻ thù, phụng sự đảng và chủ nghĩa xă
hội, năm 1934 lại có thể đứng về phía
kẻ thù. Tôi không tin như thế... Tôi không tưởng tượng
nổi, làm sao một người có thể theo đảng
trong những năm khó khăn để rồi đến
1934 lại gia nhập bọn trốt-kít. Đó là một
điều kỳ lạ. (Cả pḥng họp xôn xao)
Áp dụng
định đề của Stalin - cho rằng càng tiến
gần đến chủ nghĩa xă hội, chúng ta càng có
nhiều kẻ thù - và lợi dụng nghị quyết
của khóa họp Ban chấp hành trung ương tháng Hai,
tháng Ba, về cơ bản được thông qua dựa
trên bản báo cáo của Êgiốp, những tên khiêu khích cùng
với những tên háo danh bất lương trà trộn vào
các cơ quan an ninh quốc gia, nhân danh đảng, chúng
khủng bố các cán bộ đảng, cán bộ nhà nước
xô-viết và thường dân trong nước. Chỉ
cần biết số những người bị bắt
bớ v́ tội "phản cách mạng" đă tăng
lên gấp mười từ năm 1936 tới năm 1937.
Chúng ta được
biết những cán bộ lănh đạo đảng đă
bị đối xử oan uổng và tàn nhẫn như
thế nào. Điều lệ đảng - được
Đại hội đảng lần thứ XVII thông qua,
dựa trên những nguyên tắc lê-nin-nít của Đại
hội lần thứ X - khẳng định : muốn
áp dụng biện pháp kỷ luật tối đa
đối với một ủy viên chính thức hoặc
dự khuyết, hay một thành viên Ủy ban Kiểm tra
của đảng - như khai trừ họ khỏi
đảng -, phải triệu tập hội nghị
toàn thể của Ban chấp hành trung ương, phải
mời mọi ủy viên dự khuyết của Ban
chấp hành trung ương và mọi thành viên của Ủy
ban Kiểm tra đến họp ; chỉ có diễn
đàn tối cao này của các cán bộ đảng có
trọng trách - trong trường hợp hai phần ba đa
số phiếu - mới có quyền quyết định
việc khai trừ một ủy viên Trung ương ra
khỏi đảng. Đa số ủy viên chính thức và
dự khuyết Ban chấp hành trung ương được
bầu trong Đại hội lần thứ XVII và bị
bắt năm 1937-1938, đă bị khai trừ khỏi
đảng một cách bất hợp pháp do sự vi
phạm thô bạo Điều lệ đảng, bởi
vấn đề trục xuất họ chưa bao giờ
được đưa ra xem xét ở một khóa họp
nào của Ban chấp hành trung ương.
Giờ đây,
sau khi khảo sát vài trường hợp của những người
bị dán nhăn "gián điệp" và "phá hoại",
ta có thể thấy rơ những trường hợp nọ
đều là những vụ ngụy tạo. Trong số
những người bị bắt giữ v́ tội
"hoạt động phản cách mạng", nhiều
người phải "thú nhận" v́ bị hành
hạ tàn nhẫn và vô nhân đạo.
Ngoài ra, như các
thành viên Bộ Chính trị hồi đó cho biết, Stalin
không cho họ xem đơn từ của nhiều
đảng viên cốt cán, cụ thể là những đơn
trong đó các bị cáo rút lại những "lời thú
tội" của họ trước Ṭa án Quân sự và
đ̣i hỏi thẩm xét khách quan trường hợp
của họ. Có nhiều đơn đề nghị như
thế và và chắc chắn là Stalin đă biết
đến chúng.
Ban chấp hành
trung ương nhận thấy cần thiết phải
thông báo cho Đại hội về nhiều vụ án ngụy
tạo chống lại những ủy viên Ban chấp hành
trung ương do Đại hội lần thứ XVII bầu
ra.
Một thí dụ
của sự khiêu khích đê hèn, sự man trá bỉ ổi
và sự vi phạm tội lỗi luật pháp cách mạng
là trường hợp của đồng chí Âykhê(17),
chiến sĩ của đảng từ năm 1905, cựu
ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, một cán
bộ xuất sắc của đảng và chính phủ Liên
Xô. (Trong pḥng, mọi người ngạc nhiên)
Đồng chí Âykhê
bị bắt ngày 29-4-1938 trên cơ sở những tài
liệu vu khống, không có lệnh bắt của công
tố viên Liên Xô (lệnh bắt này chỉ có 15 tháng sau khi
Âykhê bị bắt).
Phiên ṭa xét xử
đồng chí Âykhê đă diễn ra với sự vi
phạm trắng trợn nhất pháp chế xô-viết, kèm theo
những bịa đặt có chủ mưu.
Bị tra
tấn, Âykhê bắt buộc phải kư nhận một biên
bản điều tra "thú tội" được
chuẩn bị từ trước, trong đó Âykhê và vài cán
bộ đảng có uy tín khác bị buộc tội
"hoạt động chống lại chính thể
xô-viết".
Ngày 1-10-1939, Âykhê
gửi cho Stalin lá đơn trong đó đồng chí
ấy kiên quyết phủ nhận lời buộc tội
và yêu cầu thẩm xét lại trường hợp của
ḿnh. Trong lá đơn, đồng chí Âykhê viết :
Đối với
tôi, không ǵ đau đớn hơn là bị giam cầm trong
ngục tù của nhà nước mà tôi đă luôn luôn
đấu tranh để xây dựng nó.
Lá đơn
thứ hai của Âykhê gửi cho Stalin ngày 27-10-1939 cũng
được lưu trữ, trong đó Âykhê đưa ra
những bằng chứng và phủ nhận một cách
rất xác đáng những lời buộc tội vu
khống đồng chí. Âykhê chứng tỏ lời
buộc tội mang tính khiêu khích này một phần là
sản phẩm của bọn trốt-kít thực thụ v́
bọn ấy đă bị đồng chí bắt giam trên cương
vị Bí thư thứ nhất thành ủy vùng Tây Sibia và do
đó, chúng âm mưu báo thù đồng chí ; phần kia do
kết quả việc man trá tài liệu điều tra.
Âykhê viết như
sau trong lá đơn này :
Ngày 25-10 năm
nay, vụ điều tra về trường hợp
của tôi đă kết thúc. Tôi được biết
nội dung những tài liệu điều tra. Nếu tôi
chỉ làm một phần trăm những hành vi phạm
pháp mà người ta buộc cho tôi, không bao giờ tôi dám
gửi đến đồng chí lá đơn trước
khi tôi chết. Nhưng tôi không hề phạm một
tội ǵ trong tất cả những tội mà người
ta gán cho tôi. Lương tâm tôi trong sạch, không hề
gợn một vết nhơ. Trong đời tôi, chưa bao
giờ tôi nói dối đồng chí, và ngay cả bây
giờ, khi tôi sắp sửa bước xuống mồ,
tôi cũng không giấu giếm đồng chí một
điều ǵ. Trường hợp của tôi là thí dụ
điển h́nh của một cuộc khiêu khích, vu khống
và vi phạm những điều căn bản nhất
của pháp chế cách mạng.
Những lời
thú tội đă được ghi lại và làm nên
"vụ" của tôi chẳng những phi lư mà nó
chứa đựng những điều vu khống
đối với Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô, với Hội
đồng Dân ủy, bởi những nghị quyết
thực thụ của Ban chấp hành trung ương và
của Hội đồng Dân ủy - vốn không phải
do tôi đề xướng, tôi không tham dự ǵ vào quá tŕnh
thảo luận - đă được tŕnh bày như hành
động thù địch của các tổ chức
phản cách mạng mà tôi là kẻ khởi xướng.
Bây giờ tôi xin
đề cập đến giai đoạn nhục nhă
nhất của đời tôi : một tội lỗi
nặng nề đối với đảng và đối
với đồng chí mà quả thực tôi đă thực
hiện. Ấy là lời thú tội của tôi về
hoạt động phản cách mạng... Nhưng sự
thật là như thế này : v́ không chịu đựng
nổi những sự hành hạ của Ushakốp và
Nikôlaiép, nhất là Ushakốp biết tôi găy xương sườn
và chưa lành hẳn, hắn lợi dụng điều này
trong quá tŕnh thẩm cung, gây cho tôi những đau
đớn khủng khiếp và cưỡng bức tôi
phải tự lừa dối ḿnh và tố cáo những
kẻ khác (bằng lời thú tội của tôi).
Phần lớn
những lời thú tội của tôi là do Ushakốp
"đề nghị" hoặc trắng trợn
đọc cho tôi viết, phần kia là do tôi nhớ lại
tập hồ sơ do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Tây
Sibia thu thập và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về
chúng. Mỗi lần trong truyền thuyết do Ushakốp
bịa đặt và buộc tôi phải kư nhận, có
những điều ǵ không khớp với nhau, th́ người
ta lại bắt tôi kư nhận một dị bản hoang
đường khác và cứ thế tiếp diễn. Người
ta cũng làm như thế đối với Rukhimôvích :
thoạt tiên đồng chí ấy bị coi là thành viên
của một mạng lưới trù bị, sau đó người
ta gạch tên đồng chí ấy đi nhưng lại
không hề nói cho tôi biết. Củng như trường
hợp một người bị coi là người lănh
đạo mạng lưới trù bị, tuồng như do
Bukharin thành lập năm 1935. Buổi đầu tôi
phải kư nhận, tự xưng là người lănh
đạo nọ ; sau đó người ta ra lệnh
thay tên tôi bằng Mêgiơlaúc. C̣n nhiều những thí
dụ tương tự như vậy.
Tôi yêu cầu
đồng chí, tôi van xin đồng chí hăy xét lại trường
hợp của tôi, không phải tôi mong muốn được
tha thứ, mà để vạch mặt âm mưu khiêu khích
hèn hạ này, nó như con rắn cuốn lấy nhiều người
do sự yếu hèn của tôi và sự vu khống
đầy tội lỗi của tôi. Tôi thề không bao
giờ phản bội đồng chí. Tôi không bao giờ
phản bội đảng. Tôi biết tôi sắp ra đi
v́ những vu cáo xảo quyệt, đê tiện chống
tôi, do kẻ thù của đảng và nhân dân bày đặt
ra.
Một lá đơn
quan trọng như thế thiết tưởng phải
được Ban chấp hành trung ương biết
đến và thế nào cũng phải được bàn
bạc. Nhưng điều đó đă không xảy ra. Lá
đơn được chuyển đến tay Bêrya và
đồng chí Âykhê - ủy viên dự khuyết Bộ Chính
trị - vẫn bị tiếp tục tra tấn tàn
nhẫn.
Phiên ṭa xử
đồng chí Âykhê diễn ra ngày 2-2-1940. Trước ṭa,
Âykhê không nhận một tội lỗi nào. Đồng chí tuyên
bố như sau :
Trong tất
cả cái gọi là "lời thú tội" của tôi,
không một từ nào là sự thật, không một chữ
nào tự tay tôi viết ra, ngoại trừ chữ kư
của tôi ở dưới tờ biên bản mà người
ta đă dùng nhục h́nh để cưỡng bức tôi.
Tên công an điều tra, là tên đă hành hạ tôi từ ngày
tôi bị bắt, đă buộc tôi phải "thú
nhận". Sau những lần bị tra tấn, tôi đă
kư nhận tất cả những điều thô thiển
này... Điều quan trọng là tôi phải tuyên bố trước
ṭa án, trước đảng và trước Stalin : tôi
vô tội. Tôi không bao giờ chủ trương một âm mưu
nào cả. Tôi sẽ chết với ḷng tin tưởng
ở chính sách đúng đắn của đảng,
cũng như tôi đă tin tưởng trong suốt cuộc
đời tôi.
Âykhê bị hành
quyết ngày 4-2. (Phẫn nộ trong pḥng)
Hiện nay, chúng
ta biết chính xác : vụ án Âykhê hoàn toàn bịa
đặt, ngụy tạo. Đồng chí đă được
phục hồi sau khi mất.
Đồng chí
Rútdutác, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị,
đảng viên từ năm 1905 và là người đă
từng bị mười năm tù khổ sai dưới
chế độ Nga hoàng, đứng trước toà án
cũng cương quyết rút lại những lời thú
tội bị ép buộc của ḿnh. Biên bản khóa họp
Ṭa án Quân sự Tối cao đă ghi chép lời tuyên bố
sau đây của Rútdutác :
... Đề
nghị duy nhất của y với ṭa án : Ṭa hăy thông báo
cho Ban chấp hành trung ương đảng cộng
sản (bônsêvích) Liên Xô biết ở Bộ Nội vụ
(N.K.V.D.), có một trung tâm chưa được thủ
tiêu. Trung tâm này vẫn bịa đặt, chế tạo
một cách tinh vi các vụ án, buộc những kẻ vô
tội phải thú nhận những tội không bao giờ họ
vi phạm ; các bị cáo không hề có một phương
tiện nào để chứng minh họ không tham gia
những hành vi phạm pháp được nhắc
đến trong lời thú nhận do bị tra tấn mà khai
ra của nhiều người khác nhau.
Những phương
pháp điều tra đă đi tới chỗ cưỡng
ép người ta phải dối trá và vu khống cho
những người hoàn toàn vô tội ; chưa kể
chuyện vu khống những người đă bị
buộc tội.
Y yêu cầu Ṭa
cho phép y viết thư thông báo điều này cho Ban chấp
hành trung ương đảng. Y cam đoan với Ṭa
rằng bản thân y không bao giờ có ư đồ thù
địch đối với chính sách của đảng,
v́ y luôn đồng t́nh với đường lối
của đảng trên mọi lĩnh vực của công
cuộc xây dựng kinh tế và văn hóa.
Không ai để
ư đến lời tuyên bố nói trên của Rútdutác,
mặc dầu thời kỳ đó Rútdutác là chủ
tịch Ủy ban Kiểm tra Trung ương, được
thành lập theo ư Lênin để đấu tranh cho sự
thống nhất của đảng. Người
đứng đầu một cơ quan cao cấp,
đầy uy tín của đảng đă bị triệt
hạ như thế đấy ; trở thành nạn
nhân của sự độc đoán, Rútdutác c̣n không được
mời đến dự hội nghị Bộ Chính trị
bởi Stalin không muốn nói chuyện với đồng
chí ấy. Bản án tử h́nh được đưa ra
trong ṿng 20 phút và Rútdutác bị xử bắn. (Cả pḥng
họp xôn xao phẫn nộ)
Năm 1955, sau khi
thẩm tra kỹ trường hợp này, chúng ta được
biết những lời buộc tội đồng chí
Rútdutác là gian dối và dựa trên những tài liệu có tính
cách vu khống. Đồng chí Rútdutác đă được
phục hồi danh dự sau khi mất.
Phương pháp
khiêu khích do những cựu nhân viên Bộ Nội vụ
(N.K.V.D.) sử dụng để bày đặt ra
"những trung tâm chống lại nhà nước
xô-viết" và những "khối" giả mạo
đă được vạch rơ qua lời "thú
tội" của đồng chí Rôdenblum, đảng viên
từ năm 1906, bị N.K.V.D. bắt vào năm 1937 ở
Lêningrát.
Năm 1955, trong
phiên ṭa phúc thẩm trường hợp của đồng
chí Kômarốp(18), Rôdenblum đă tiết lộ sự
thật sau đây : khi bị bắt vào năm 1937,
đồng chí đă phải chịu đựng những
cuộc tra tấn khủng khiếp và buộc phải xác
nhận những điều bịa đặt về
đồng chí cũng như về một số người
khác. Rôdenblum bị gọi vào văn pḥng của
Dakốpsky(19) và được tên này hứa sẽ trả
tự do nếu trước ṭa án, đồng chí chịu
thú nhận những "hoạt động phá hoại,
gián điệp và gây rối" do "trung tâm khủng
bố ở Lêningrát" tổ chức. Cả vụ
việc này do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) bày đặt ra
năm 1937. (Cả pḥng họp xôn xao)
Bằng một
cách trơ tráo không thể tưởng tượng nổi,
Dakốpsky đă giảng giải "bộ máy" ghê
tởm mà người ta dùng để dựng nên những
"âm mưu chống Liên Xô".
Đồng chí
Rôdenblum kể lại :
Để tôi có
thể h́nh dung được cơ chế đó,
Dakốpsky đă đưa ra vài giả thuyết khả
dĩ về cách tổ chức "trung tâm" này và các chi
nhánh của nó.
Sau khi mô tả
chi tiết, Dakốpsky nói Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
đang sửa soạn vụ án trung tâm này và y nói thêm :
vụ án sẽ được xử công khai.
Trước ṭa
án, người ta đưa tới bốn hay năm thành
viên của trung tâm giả mạo này : Chuđốp,
Ugarốp, Smôrôđin, Pôdécnơ, Shapôgiơnikôva (vợ
Chuđốp)(20) và những người khác, cùng hai ba thành
viên những chi nhánh của trung tâm...
Hồ sơ
vụ án trung tâm Lêningrát phải được biên soạn
một cách kỹ càng và v́ vậy, cần thiết lời
khai của các nhân chứng. Nguồn gốc xă hội (trong
quá khứ, cố nhiên) và chức vụ trong đảng
của những chứng nhân đóng một vai tṛ không
nhỏ.
Bản thân anh -
Dakốpsky nói - không cần phải đặt chuyện ǵ
cả. N.K.V.D. sẽ sửa soạn sẵn cho anh một sơ
đồ về mọi chi nhánh của trung tâm. Anh phải
nghiên cứu kỹ càng và phải nhớ rơ mọi câu
hỏi và trả lời mà ṭa án sẽ đặt ra cho anh.
Hồ sơ vụ này sẽ được xếp
đặt trong ṿng bốn, năm hoặc sáu tháng. Anh
phải tận dụng mọi thời gian để
chuẩn bị, đừng để liên lụy
đến người điều tra và bản thân anh.
Số phận sắp tới của anh phụ thuộc vào
tiến tŕnh và kết quả của phiên ṭa. Nếu anh
nhầm lẫn và khai báo sai, anh sẽ thiệt mạng.
Nếu anh vượt qua thử thách, anh cứu được
mạng ḿnh, chúng tôi sẽ chu cấp cho anh đến
cuối đời.
Thế
đấy, những việc ghê tởm như thế
xảy ra vào hồi đó. (Cả pḥng họp xôn xao)
Ở tỉnh
lỵ, việc giả mạo c̣n thô bạo hơn nữa.
Pḥng N.K.V.D. tỉnh Svéclốpsk đă "phát hiện"
một nhóm người gọi là "bộ tham mưu
của phong trào khởi nghĩa vùng Uran", tổ chức
của khối trốt-kít, hữu khuynh, xă hội cách
mạng và tăng lữ. Kabakốp(21) - bí thư
đảng bộ tỉnh Svéclốpsk, ủy viên Ban
chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên
Xô, gia nhập đảng từ năm 1914 - bị coi là người
lănh đạo giả tưởng của tổ chức
này. Những hồ sơ điều tra thời ấy cho
ta thấy trong hầu hết các vùng biên ải, các
huyện, các nước cộng ḥa đều có những
tổ chức và trung tâm gián điệp, khủng bố,
biệt kích và phá hoại (giả tưởng) của
bọn trốt-kít và bọn hữu khuynh. Thường thường,
đứng đầu những tổ chức này, không
biết v́ lư do ǵ, đều là các bí thư thứ nhất
đảng ủy các vùng, các địa hạt biên ải
hoặc các nước cộng ḥa. (Cả pḥng họp xôn
xao)
Hàng ngàn chiến
sĩ cộng sản trung thực và vô tội đă bị
giết hại do những "vụ án" ngụy
tạo khủng khiếp như thế, do người ta
dùng đến những lời buộc tội mang tính vu
khống và do việc áp dụng các biện pháp điều
tra để cưỡng bức các bị can phải đưa
ra những lời "thú nhận" buộc tội chính
ḿnh và những người khác. Bằng cách đó, người
ta bày đặt các vụ án xử các lănh tụ uy tín
của đảng và nhà nước như Kốtsiô(22),
Chuba(23), Pôstưshép, Kốtsarép(24) và nhiều người
khác.
Trong những
năm đó, những cuộc đàn áp khủng bố trên
quy mô lớn đă xảy ra, không dựa trên một
bằng chứng cụ thể nào, gây ra tổn thất
rất nặng nề trong hàng ngũ cán bộ đảng.
Một cách
đáng lên án, Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đă sửa
soạn các danh sách về những người sau đó
trở thành bị cáo dưới thẩm quyền của
Ṭa án Quân sự. Hơn nữa, những bản án cũng
được định đoạt trước khi
xử. Êgiốp thường xuyên đệ tŕnh những
danh sách này lên Stalin và nói chung, Stalin chuẩn y những h́nh
phạt được đề nghị. Năm 1937-1938,
có 383 danh sách - mang tên hàng ngàn thành viên của đảng,
của các xô-viết, của Đoàn Thanh niên cộng sản
Lênin (Komsomol), của quân đội và các cơ quan kinh
tế - như thế đă được gửi
đến tay Stalin.
Số lớn
những vụ án nói trên hiện đang được
thẩm xét lại, và đa số đă bị bác bỏ v́
chúng được dựng nên trên cơ sở những
điều bịa đặt và không có bất cứ
một sở cứ nào. Chỉ cần nói rằng từ
năm 1954 đến nay, Ủy ban Quân sự của Ṭa án Tối
cao đă phục hồi cho 7.679 người, trong đó
nhiều người đă thiệt mạng.
Việc bắt
bớ hàng loạt những cán bộ của đảng,
của xô-viết, của nền kinh tế và quân sự
đă gây nên thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước
ta và cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă
hội.
Những vụ
khủng bố đại quy mô đă ảnh hưởng
lớn đến t́nh h́nh đạo đức-chính
trị của đảng, tạo ra bầu không khí hoang
mang, góp phần làm tăng hoài nghi không tốt, reo rắc
sự ngờ vực lẫn nhau giữa những người
cộng sản. Điều này có lợi cho việc thăng
tiến của lũ người vu khống và mưu
lợi thuộc đủ mọi hạng.
Nghị quyết
của khóa họp Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản Liên Xô tháng 1-1938 phần nào
đă sửa đổi hiện trạng nội bộ
của các cấp bộ đảng. Nhưng những
vụ đàn áp hàng loạt vẫn tiếp diễn trong
năm 1938.
Chỉ nhờ
sức mạnh đạo đức-chính trị to
lớn, Đảng ta mới vượt nổi những
thử thách nặng nề của những năm 1937-1938 và
đă huấn luyện được nhiều cán bộ
mới. Tuy vậy, một điều chắc
chắn : đà tiến của chúng ta đến
chủ nghĩa xă hội và công cuộc pḥng bị quốc
gia c̣n thành công hơn nhiều, nếu đội ngũ cán
bộ của ta không bị những tổn thương
lớn bởi các cuộc thanh trừng hoàn toàn vô nghĩa
thời kỳ 1937-1938.
(1) Bộ Dân
ủy Nội vụ, cơ quan trung ương phụ trách
nội vụ và an ninh quốc gia ở Liên Xô, hậu
duệ của O.G.P.U., thành lập năm 1934, hoạt
động như Bộ Nội vụ trong thời gian
1946-1953.
(2) Khrushốp nói
tới nhiều "vụ án" do Stalin bày đặt
trong những năm 1937-1938. Nhưng ông vẫn giấu
giếm, không đả động tới những
"vụ án" Mạc Tư Khoa từ 1935 đến
1936, trong đó đại đa số cựu đồng
chí của Lênin bị triệt ha :
·
Tháng Giêng 1935 : "vụ án"
một số người bị buộc tội
"tả khuynh" và "chịu trách nhiệm tinh
thần về vụ ám sát Kirốp".
·
Tháng Tám 1936 : "vụ án"
Dinôviép và Kamênép và 14 đồng phạm (đều là
ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính
trị). Tất cả các bị cáo, do bị tra tấn tàn
bạo, đă thú nhận họ là "gián điệp cho cơ
quan t́nh báo Gestapo Đức" và đều bị tử h́nh.
·
Tháng Giêng 1937 : "vụ án"
Rađếch, Piatakốp và đồng phạm (các ủy
viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị).
Họ bị buộc tội "tổ chức những
trung tâm trốt-kít phản cách mạng". Tất cả
đều thú nhận những "tội lỗi" mà
họ không làm. 13 (trên tổng số 17) bị cáo bị
tử h́nh.
·
Tháng Sáu 1937 : "vụ án"
Tổng tư lệnh Hồng quân - nguyên soái Tukhachépsky - và
bảy đại tướng. Bị buộc tội
"làm gián điệp cho ngoại bang", tất cả
đều bị xử bắn.
·
Tháng Ba 1938 : "vụ án"
Bukharin, Rưkốp và 19 đồng phạm, bị
buộc tội "hữu khuynh và trốt-kít". 18 người
bị xử bắn. C̣n nhiều vụ án nữa tiếp
theo, mục đích tảy trừ "tả",
"hữu". Nhưng mục đích chính là nhằm
chống lại Trốtsky (bị lưu đày ở nước
ngoài). Tất cả các "vụ án" nói trên, tuy là vu
khống, bịa đặt, nhưng đă được
mọi đảng cộng sản trên thế giới
(kể cả đảng cộng sản Việt Nam) và
một số đông nhân sĩ năm châu ủng hộ. Sau
những "vụ án" ấy, ba phần tư số
đồng chí kỳ cựu của Lênin đă bị sát
hại.
(3) Sécgây
M. Kirốp (1886-1934) : đảng viên từ năm
1904, thành viên Ban chấp hành Trung ương năm 1923, bí thư
thành ủy Lêningrát năm 1926, ủy viên Bộ Chính trị
từ năm 1930, bí thư Ban chấp hành Trung ương
đảng Cộng sản (bônsêvích) Nga, bị ám sát ngày
1-12-1934.
(4) "Hung
thủ" Nikôlaiép là một đảng viên cộng
sản trẻ. Y đă hai lần bị các vệ sĩ
Kirốp bắt v́ có hành động khả nghi. Khi bị
bắt, người ta t́m thấy trong chiếc túi da
của y một khẩu súng lục đă lên đạn và
tấm sơ đồ những con đường
Kirốp hay đi. Sau khi hỏi cung Nikôlaiép, Dapôrôgiétxơ -
phó pḥng N.K.V.D. vùng Lêningrát - gọi điện lên Mạc Tư
Khoa và báo cáo t́nh h́nh cho Yagôđa. Nhưng vài giờ sau,
Yagôđa hạ lệnh trả tự do cho Nikôlaiép.
(5) Theo truyền
thống, người ta vẫn gọi các nhân viên những
cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô là "trinh sát viên
Chêka", dù Chêka đă được thay thế bởi
(O). G.P.U., N.K.V.D., K.G.B., ... "Trinh sát viên Chêka" này -
vốn là một nhân viên N.K.V.D., chỉ huy đám vệ
sĩ của Kirốp - tên là Bôrisốp. Nghi ngờ v́
sự "dễ dăi" của N.K.V.D. trong việc thả
tự do hai lần cho Nikôlaiép, Bôrisốp đă kể
mọi chuyện cho Kirốp biết. Đó là lư do khiến
Bôrisốp bị sát hại về sau này. (Xin xem bài Vụ ám
sát Kirốp của R. Métvêđép)
(6) Theo sử gia
Liên Xô R. Métvêđép, tên này bị đánh chết bằng
gậy sắt, nhưng các bác sĩ đưa ra ư kiến
giám định ngụy tạo, như thể y chết
trong tai nạn xe hơi ngày 2-12-1934, trên đường
về Lêningrát để lấy khẩu cung. (Xin xem bài
Vụ ám sát Kirốp của R. Métvêđép)
(7) Khrushốp có
ư nói vụ ám sát Kirốp là do N.K.V.D. tổ chức và do
Stalin gián tiếp hay trực tiếp điếu khiển.
Stalin đă lợi dụng vụ Kirốp để mở
cuộc thanh trừng các địch thủ khác, quan
trọng hơn, như Dinôviép, Kamênép, Bukharin, Rađếch,
Tômsky, Rưkốp, Piatakốp, v.v... Ngày 20-1-1935, Ṭa án Quân
sự Tối cao buộc tội các nhân viên trách nhiệm
Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Lêningrát (Métvêđép và
đồng sự) "không đề pḥng cẩn mật,
để xảy ra vụ ám sát Kirốp". Các bị cáo
bị tù từ hai đến ba năm, trừ Banxêvích
bị mười năm. Tới năm 1937, tất cả
những người này - trừ Dapôrôgiétxơ - đều
bị giải về Lêningrát rồi bị xử bắn.
(8) Những
cuộc "đàn áp hàng loạt" chia làm hai thời
kỳ :
·
Thời kỳ thứ nhất :
bắt đầu từ vụ ám sát Kirốp tới mùa thu
năm 1936. Dân ủy Nội vụ lúc ấy là Yagôđa,
kiêm phụ trách Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
·
Thời kỳ thứ hai :
Êgiốp được cử thay thế Yagôđa, tới
năm 1938 cũng bị cách chức và bị xử
bắn. Người thay thế là Bêrya.
(9) Lada L. Kaganôvích
(1893-1991) : gia nhập đảng năm 1911, ủy viên
Ban chấp hành Trung ương từ năm 1923, bí thư
Ban chấp hành Trung ương năm 1924, bí thư thành
ủy Mạc Tư Khoa năm 1930, phó chủ tịch
Hội đồng Dân ủy từ năm 1944, cộng
sự trung thành của Stalin.
(10) Viachesláp
M. Môlôtốp (1890-1986) : chủ tịch Hội
đồng Dân ủy từ năm 1930, Dân ủy Ngoại
vụ thời kỳ 1939-1940, bộ trưởng Bộ
Ngoại giao 1953-1956, một trong những cộng sự
thân tín của Stalin.
(11) Ghenrích
Yagôđa (1891-1938) : lănh đạo G.P.U. trong thập niên
30, tổ chức vụ án ngụy tạo Mạc Tư Khoa
năm 1936, bị cách chức ngày 29-9-1936 rồi bị
tử h́nh trong vụ án Bukharin.
(12) Cơ quan an
ninh quốc gia Liên Xô, thành lập năm 1922, hậu duệ
của Chêka.
(13) Hội
nghị này chính thức bắt đầu ngày 23-2 và kéo dài
đến ngày 5-3-1937. Nhưng thực ra nó bắt
đầu từ ngày 10-2. Công khai chỉ có một nghị
quyết được chuẩn y, dựa theo báo cáo
của Giơđanốp về "nhiệm vụ
của các tổ chức đảng trong cuộc bầu
cử theo Hiến pháp mới". Sự thật, hội
nghị có mục đích thông qua hai báo cáo chính : một
của Êgiốp (Dân ủy Nội vụ) về "việc
tổ chức O.G.P.U." và một của Stalin về
"thiếu sót trong công tác thủ tiêu bọn
trốt-kít". Chính trong giai đoạn này, Óocgiônikítdê,
bạn thân của Stalin đă "tự vẫn"
hoặc bị ám sát.
(14) A.I. Đênikin
(1872-1947) : tướng Bạch vệ, tổ chức và
chỉ huy Đạo quân Tự nguyện vùng sông Đông chống
chính quyền bônsêvích, thua trận và trốn ra nước
ngoài năm 1920.
(15) Phêlích E. Giécginsky
(1877-1926) : gốc Ba Lan, đảng viên đảng Xă
hội Dân chủ Ba Lan, bị Nga hoàng đày đi Sibérie
năm 1897. Sau đó bị giam ở Mạc Tư Khoa, được
cách mạng tháng Hai giải phóng năm 1917. Tham gia cách
mạng tháng Mười, ủy viên Ban chấp hành Trung ương
từ năm 1917, được Lênin giao trách nhiệm lănh
đạo Chêka và G.P.U., giữ chức Dân ủy Giao thông và
chủ tịch Hội đồng Kinh tế Nhân dân.
(16) Paven P. Pôstưshép
(1888-1938) : xuất thân công nhân, gia nhập đảng
năm 1904, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị sau
Đại hội lần thứ XVII. Bị bắt rồi
bị xử tử năm 1938.
(17) Rôbe J.
Âykhê(1890-1940) : đảng viên bônsêvích năm 1905,
nhiều lần bị tù tội và đày ải biệt
xứ dưới thời Nga hoàng. Ủy viên Ban chấp
hành Trung ương năm 1930, ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị năm 1935.
(18) Nikôlai
P.Kômarốp (1886-1937) : đảng viên năm 1909, ủy
viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương sau
Đại hội lần thứ XII (1923). Bạn thân của
Kirốp. Bị bắt năm 1937.
(19) Lêpít
Dakốpsky : chủ tịch N.K.V.D. ở Lêningrát
(1934-1938) rồi ở Mạc Tư Khoa, là một tên sát nhân
không gờm tay. Bị bắt và mất tích sau khi Bêrya lên
chức Dân ủy Nội vụ.
(20) Mikhain
S.Chuđốp (1893-1937) : đảng viên từ năm
1913, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
·
Phiôđô Y. Ugarốp (1887-1937) :
đảng viên từ năm 1905, bí thư Thành ủy
Lêningrát.
·
Piốt P. Smôrôđin (1897-1937) :
đảng viên từ năm 1917, ủy viên Thành ủy
Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
·
Bôrít P.Pôdécnơ (1881-1937) :
đảng viên từ năm 1903, có nhiều công lao trong
cuộc nội chiến, bí thư Thành ủy Lêningrát,
ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1934.
·
Lútmila K. Shapôgiơnikôva
(1895-1937) ; đảng viên từ năm 1917, bí thư
Công đoàn Lêningrát, thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương
đảng. Tất cả các "thành viên" kể trên
của "trung tâm chống Liên Xô" ở Lêningrát
đều là người thân cận Kirốp, bị
bắt và tử h́nh năm 1937.
(21) Ivan
D.Kabakốp (1891-1938) : bí thư đảng ủy
miền Uran, ủy viên Ban chấp hành Trung ương
từ năm 1925, bị bắt năm 1937.
(22) Stanisláp
V.Kôssiô (1891-1938) : nhập đảng từ năm 1907,
ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1924, bí thư Ban
chấp hành Trung ương trong thời gian 1925-1928,
tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Ukraina
từ năm 1928. Bị bắt năm 1938.
(23) Vlát Y. Chuba
(1892-1938) : đảng viên từ năm 1907, bí thư
Hội đồng Dân ủy Ukraina thời gian 1923-1932,
ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị từ năm
1932. Bị bắt năm 1938.
(24)
Alếchsanđrơ V. Kốtsarép (1903-1939) :
đảng viên từ năm 1919, ủy viên Ban chấp hành
Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Lênin, bị
tử h́nh năm 1939.