Đoạn 9 :
Diệt chủng và khủng bố
Thưa các
đồng chí,
Bây giờ tôi xin
được đề cập đến vài sự
việc khác. Liên bang xô-viết đă được đánh
giá là tấm gương một quốc gia gồm nhiều
dân tộc v́ trong thực tế, chúng ta đă đảm
bảo quyền b́nh đẳng và t́nh đoàn kết
giữa tất cả các dân tộc sống chung trên tổ
quốc rộng lớn của chúng ta.
Như thế, ta
càng thấy những hành động do Stalin đề
xướng - đă vi phạm trắng trợn những
nguyên tắc lê-nin-nít căn bản về chính sách cùng chung
sống giữa các dân tộc của nhà nước Liên Xô -
mới kinh khủng biết nhường nào ! Chúng tôi
muốn nói đến việc đày ải hàng loạt các
dân tộc khỏi mảnh đất quê hương
của họ, trong số đó có cả những
người cộng sản, những đoàn viên Komsomol, không
loại trừ một ai ; không một quan điểm
quân sự nào có thể biện minh cho sự đày ải
đó.
Chẳng hạn,
cuối năm 1943, khi những cuộc tấn công liên
tục trên các trận tuyến của cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại đă quyết
định kết thúc cuộc chiến, một nghị
quyết được đưa ra nhằm đày ải
dân tộc Karachai(1) khỏi những mảnh đất
họ đang cư trú. Quyết định này đă
được thực hiện.
Cũng vào
thời kỳ đó, khoảng cuối tháng 12-1943, tất
cả dân chúng nước Cộng ḥa Tự trị
Kanmức(2) cũng chịu chung một số phận. Tháng
3-1944, tất cả dân tộc Chêchen và Ingushơ(3) bị
xua đuổi, c̣n nước Cộng ḥa Tự trị
Chêchen-Ingushơ bị giải tán.
Tháng 4-1944,
tất cả dân Bankarơ bị đuổi khỏi lănh
thổ nước Cộng ḥa Tự trị
Kabácđô-Bankarơ đến các vùng khác, bản thân
nước cộng ḥa này bị đổi tên thành Cộng
ḥa Tự trị Kabácđô.
Dân tộc Ukraina
chỉ thoát được số phận trên bởi
họ quá đông và không biết đưa họ đi
đâu. Nếu không th́ họ cũng bị đày ải
rồi. (Tiếng cười và náo động trong pḥng)
Không chỉ
người mác-xít - lê-nin-nít mà ai ai có chút suy nghĩ cũng
không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội
phản bội cho cả một dân tộc, kể cả
phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người
cộng sản, đoàn viên Komsomol, v.v... ; làm sao có
thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả
đũa đối với cả một dân tộc -
khiến họ phải đau khổ và chịu
đựng - v́ những hành vi của một số
người hay một số tập đoàn chống
lại ta.(4)
Sau cuộc
chiến tranh cứu quốc, đất nước ta
đă tự hào nhớ lại những chiến thắng
vẻ vang, đạt được nhờ sự hy sinh
vô bờ bến và những cố gắng vĩ đại
của toàn dân. Cả nước như sống trong
một cơn sảng khoái chính trị. Đảng ta sau
chiến tranh lại càng gắn bó hơn trước. Trong
lửa đạn chiến tranh, đội ngũ cán
bộ đảng đă được tôi luyện và
vững mạnh. Trong những điều kiện đó,
không ai trong đảng có thể nghĩ tới khả
năng một âm mưu ǵ.
Và chính trong
thời kỳ này, cái gọi là "vụ án Lêningrát"
đă nảy ra. Ngày nay chúng ta đă chứng tỏ
được đây chỉ là một vụ ngụy
tạo. Trong số các đồng chí bị sát hại hoàn
toàn oan uổng, có Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp,
Rôđiônốp, Pốpkốp(5) và nhiều người
khác.
Như chúng ta
đă biết, đồng chí Vôdơnêsensky và
Kudơnétsốp là những lănh đạo tài ba và xuất
sắc. Họ đă có lúc rất gần gũi Stalin.
Chỉ cần nhắc đến việc Stalin đă giao
phó trọng trách Phó chủ tịch thứ nhất Hội
đồng Chính phủ cho đồng chí Vôdơnêsensky và
đồng chí Kudơnétsốp đă được
bầu làm bí thư Ban chấp hành trung ương
đảng. Ngay việc Stalin ủy nhiệm
Kudơnétsốp lănh đạo các tổ chức an ninh nhà
nước(6) cũng chứng tỏ Kudơnétsốp
được tin cẩn đến mức nào.
Làm sao có thể
xảy ra chuyện những người này bị tố
cáo là "kẻ thù của nhân dân" và bị thủ
tiêu ? Những sự kiện xảy ra đă chứng
minh "vụ án Lêningrát" là một biểu hiện
của sự độc đoán sta-lin-nít đối
với các cán bộ đảng.
Nếu hồi
đó, trong Ban chấp hành trung ương và Bộ Chính
trị t́nh h́nh diễn ra b́nh thường th́ những
việc như thế đă được bàn bạc theo
cách làm thực tiễn của đảng và những
sự việc liên quan đến nó đă được
cân nhắc. Như thế, vụ việc này - cũng
như các vụ tương tự - đă không thể nào
xảy ra được.
Tôi cần
phải nói rằng sau chiến tranh, t́nh h́nh ngày càng phức
tạp. Stalin ngày càng thất thường hơn, nóng
nảy hơn và hung hăn hơn ; đặc biệt là
tính đa nghi ngày càng tăng lên. Căn bệnh săn
đuổi cuồng bạo của đồng chí ấy
đă đạt tới mức độ không thể
tưởng tượng được. Trước
mắt Stalin, nhiều cộng sự đă trở thành
kẻ thù. Sau chiến tranh, Stalin ngày càng tách rời tập
thể. Stalin một ḿnh định đoạt mọi
việc, không để ư đến một ai hoặc
một sự kiện nào cả.
Tính đa nghi
không thể tưởng tượng nổi này của
Stalin được một tên khiêu khích hạ đẳng
và đê tiện là Bêrya lạm dụng một cách rất
khôn khéo. Y đă sát hại hàng ngàn người cộng
sản và thường dân xô-viết trung thành. Sự
thăng chức nhanh chóng của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp
khiến Bêrya lo ngại. Cũng như hiện nay, ta đă
có bằng chứng Bêrya là người đă "xung
phong" phục vụ Stalin về việc y và các
đồng sự đă bày đặt một tài liệu
dưới h́nh thức những lời tuyên bố,
những thư nặc danh cùng mọi thứ đồn
đại và đơm đặt khác.(7)
Ban chấp hành
trung ương đảng đă xem xét lại vụ án
giả mạo mà người ta gọi là "vụ án
Lêningrát" ; những người vô tội bị hành
hạ đă được minh oan và danh dự vẻ vang
của tổ chức đảng vùng Lêningrát
được phục hồi. Những kẻ bày
đặt vụ án này như Abakumốp(8) và bè lũ
bị đưa ra ṭa án ; chúng bị xét xử ở
Lêningrát và đă đền tội một cách đích
đáng.
Có người
đặt câu hỏi : tại sao đến giờ
chúng ta mới thấy rơ cốt lơi của vụ này,
tại sao trước kia - lúc sanh thời Stalin - chúng ta
không làm ǵ để ngăn cản việc những
người vô tội bị giết hại ? Bởi
Stalin đă đích thân để tâm đến "vụ
án Lêningrát" và đa số ủy viên Bộ Chính trị
hồi đó đă không biết mọi chi tiết của
vụ này, v́ vậy họ không thể can thiệp.
Khi Stalin nhận
được những tài liệu do Bêrya và Abakumốp
chuyển đến, đồng chí ấy không hề xem
xét những lời vu khống mà lập tức hạ lệnh
chấm dứt mọi điều tra về "vụ việc"
của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp. Điều này
định đoạt số phận của họ.
Trên phương
diện này, vụ án tổ chức quốc gia Mingrêlia -
dường như hoạt động ở vùng Grudya -
cũng rất có tính tiêu biểu. Như chúng ta biết, những
nghị quyết về vụ này đă được Ban
chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên
Xô thông qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng không hề
được thảo luận trước ở Bộ
Chính trị. Stalin đă đích thân đọc chúng cho
người ta viết, và những nghị quyết ấy
đă kết án rất nặng nề nhiều người
cộng sản nhiệt huyết. Theo những tài liệu
được đưa ra, người ta bảo rằng
ở Grudya có một tổ chức quốc gia đặt
mục đích thủ tiêu chính quyền xô-viết với
sự viện trợ của các siêu cường đế
quốc.
Dựa vào đó,
hàng loạt cán bộ lănh đạo đảng và
xô-viết đă bị bắt giam. Sau này, chúng ta có những
bằng cớ chứng tỏ đây chỉ là chuyện vu
khống nhằm chống lại tổ chức
đảng ở Grudya.
Chúng ta biết
ở Grudya cũng như tại nhiều vùng khác, thỉnh
thoảng chủ nghĩa quốc gia tư sản mang tính
địa phương lại bùng lên. Một câu hỏi được
đề ra : thử hỏi ở vào thời kỳ
những nghị quyết nói trên được thông qua,
những xu hướng quốc gia có đến mức
khiến việc Grudya tách rời khỏi Liên bang Xô Viết
và sát nhập với Thổ Nhĩ Kỳ trở thành
một mối họa thực sự hay không ? (Tiếng
ồn ào và tiếng cười trong pḥng họp )
Dĩ nhiên,
tất cả những điều ấy chỉ là nhảm
nhí. Hoàn toàn loại trừ khả năng có người nào
đó nghĩ đến một chuyện như thế. Ai cũng
biết vùng Grudya đă phát triển như thế nào trên
địa hạt kinh tế và văn hóa dưới sự
chế độ xô-viết. Sản lượng công nghiệp
của Cộng ḥa Grudya đă tăng gấp 27 lần so
với thời kỳ trước cách mạng. Nhiều
ngành công nghiệp mới - trước đây không có ở
Grudya - đă xuất hiện : công nghiệp gang thép, công
nghiệp dầu lửa, chế tạo cơ khí, v.v...
Nạn mù chữ, trước cách mạng chiếm tỷ
lệ 78% dân chúng Grudya, đă được thanh toán từ
lâu.
Khó có thể
tưởng tượng được dân Grudya lại
đi phấn đấu để sát nhập với
Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi so sánh hoàn cảnh của
họ với t́nh cảnh nặng nề của quần
chúng lao động Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1955, tính theo
đầu người, Grudya sản xuất thép gấp 18
lần Thổ Nhĩ Kỳ. Về điện lực,
Grudya sản xuất gấp chín lần Thổ Nhĩ
Kỳ, cũng tính theo đầu người. Theo kê khai dân
số năm 1950, 65% dân số Thổ Nhĩ Kỳ mù
chữ ; tỉ lệ này lên đến 80% ở phụ
nữ. Nước Grudya có 19 trường đại học
và cao đẳng với 39 ngàn sinh viên, nghĩa là nhiều
gấp tám lần Thổ Nhĩ Kỳ (tính theo một ngàn
nhân khẩu). Đời sống sung túc của công nhân
nước Grudya được nâng cao chưa từng
thấy dưới chế độ xô-viết.
Hiển nhiên là
khi nền kinh tế và văn hóa - cũng như nhận
thức chủ nghĩa xă hội của quần chúng lao
động - phát triển ở nước Grudya, nguồn
suối nuôi dưỡng động lực của chủ
nghĩa quốc gia tư sản càng bị cạn kiệt.
Những biến
cố xảy ra sau đó chứng tỏ không có một
tổ chức quốc gia nào ở Grudya cả. Hàng ngàn
người vô tội đă trở thành nạn nhân của
chính sách độc đoán và vô luật pháp. Và tất
cả những điều này đă xảy ra dưới
sự lănh đạo "thiên tài" của Stalin,
"người con vĩ đại của dân tộc
Grudya", như dân chúng Grudya vẫn thích gọi Stalin
như thế. (Pḥng họp náo động)
(1) Người
Karachai xuất xứ từ một dân tộc thiểu
số Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Tây Kápkadơ,
bị Nga chiếm vào thế kỷ 19. Dân tộc này có
chừng 75.000 người. Phần lớn đất
đai của họ bị sát nhập vào nước Grudya.
(2) Dân tộc
Kanmức sống ở vùng thảo nguyên phía Tây cửa sông
Vônga, tiếng nói của họ thuộc hệ Mông Cổ.
(3) Chêchen và
Ingushơ là hai dân tộc sống ở phía Bắc
sườn núi Kápkadơ, có tiếng nói thuộc hệ ngôn
ngữ Kápkadơ.
(4) Người
phụ trách việc đày ải các dân tộc này là Bêrya.
Sau khi chiếm được vùng Kápkadơ, phát-xít Đức
hứa sẽ mang lại nền độc lập cho
người Chêchen,Ingushơ, Banka và Kanmức ; v́
vậy, một số người thuộc các dân tộc
này theo quân Đức. Dựa vào cớ đó, Stalin đă
thực hiện những vụ đày ải đại quy
mô và đẫm máu đối với các dân tộc nói trên.
(5) Nikôlai Vôdơnêsensky
(1903-1950) : viện sĩ, ủy viên Ban chấp hành Trung
ương năm 1939, chủ tịch Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước, ủy viên Bộ Chính trị
năm 1947, phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng.
·
Alếchxây Kudơnétxốp : bí
thư thành ủy Lêningrát năm 1945, bí thư Ban chấp
hành Trung ương và ủy viên phụ trách Ban tổ
chức Trung ương năm 1946.
·
Mikhain Rôđinốp : thủ
tướng Cộng ḥa Liên Xô, ủy viên phụ trách Ban
tổ chức Trung ương năm 1946.
·
Piốt Pốpkốp : ủy
viên Ban chấp hành Trung ương năm 1939, bí thư
thứ nhất thành ủy Lêningrát năm 1949.
(6)
Kudơnétxốp lănh đạo hai cơ quan an ninh :
Bộ An ninh Quốc gia và Bộ Nội vụ.
(7) Đổ cho Bêrya
và Abakumốp mọi tội lỗi trong "vụ án
Lêningrát" là một quan điểm thường thấy
ở Liên Xô ngày xưa. Kỳ thực, Stalin chỉ đạo
trực tiếp vụ này, v́ ông ta lo ngại Vôdơnêsensky
và Kudơnétxốp, hai nhà lănh đạotrẻ xuất
sắc và có tầm nh́n độc lập sẽ có thể
trở nên một đe dọa cho quyền uy của ḿnh.
(8) Victor S.
Abakumốp : bộ trưởng Bộ An ninh Quốc
gia thời kỳ 1947-1951, bị xử tử năm 1954.