Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn
|
||||||||
Trở về Chương III, Phần Thứ Nhứt
PHẦN THỨ NHỨTLƯỢC-KHẢO VỀ NHỮNG LÝ-THUYẾT CHÁNH-TRỊ ĐÃ LƯU-HÀNH TRÊN THẾ-GIỚI TỪ TRƯỚC ĐẾN NAYCHƯƠNG IVNHỮNG CHỦ-NGHĨA PHẢN-ĐỐI LẠI LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ VÀ LÝ-THUYẾT XÃ-HỘI: CHỦ-NGHĨA PHÁT-XÍT VÀ CHỦ-NGHĨA QUỐC-XÃ
Trong khi người Á-Châu vẫn trung-thành với tư-tưởng thần-quyền và nền lý-luận siêu-hình, từ thế-kỷ thứ 17 trở đi, người Âu-châu đã hướng đến lý-tưởng nhơn-quyền và những khoa-học thực-nghiệm. Do xu-hướng mới này, trong mấy thế-kỷ gần đây, những dân-tộc Âu-châu đã bị lôi kéo vào một phong-trào biến-động không ngừng làm xáo trộn cả đời sống xã-hội của họ. Dẫn đầu trong cuộc thay cũ đổi mới này, là người Anh. Chính họ đã nêu ra trước tiên tư-tưởng dân-chủ tôn-trọng sự tự-do cá-nhơn của người. Chính họ đã đi tiên-phong trong công việc đả phá quyền chuyên-chế của nhà vua và thi-hành chế-độ đại-nghị. Nhưng nhờ những điều-kiện đặc-biệt thuận-tiện, cũng như nhờ những đức-tánh hiếm có của họ, người Anh đã đạt được một thế quân-bình cần-thiết cho sự tiến-hóa thuận-lợi của quốc-gia. Tuy cũng phải chịu những họa-hại của chế-độ tự-do,trải qua những cuộc khủng-hoảng kinh-tế, chứng-kiến việc tư-bản bóc lột vô-sản, nước Anh đã giải-quyết được những vấn-đề xã-hội của mình một cách êm thắm và dung-hòa được xu-hướng canh-tân với xu-hướng bảo-thủ. Tinh-thần ái-quốc của họ vẫn còn nguyên vẹn và sự hùng-cường của quốc-gia họ đã giúp cho họ nhiều phương-tiện để nâng cao đời sống chung lên, làm dịu bớt tánh-cách cay nghiệt của chế-độ tư-bản. Người Pháp đã nối chân người Anh trên con đường cách-mạng dân-chủ. Sự nóng nảy quá-khích của họ làm cho cuộc tranh-đấu họ đeo đuổi có một tánh-cách mãnh-liệt. Hai phái bảo-thủ và canh-tân đã cương-quyết đương đầu nhau đến kỳ cùng. Do đó, người Pháp đã phải phí rất nhiều thì giờ và xương máu mới đặt được một nền tảng vững chắc cho chế-độ đại-nghị ở nước họ. Nhưng chế-độ này không phải nhờ đó mà hoàn-mỹ hơn chế-độ Anh. Những lưu-tệ của chánh-sách dân-chủ tự-do đã hiện ra ở Pháp rõ ràng hơn ở Anh. Cuộc xung-đột tư-tưởng và quyền-lợi cũng mãnh-liệt hơn. Do đó, nước Pháp bị suy yếu nhiều hơn nước Anh. Tuy-nhiên, nhờ chánh-sách thuộc-địa, nước Pháp cũng có nhièu phương-tiện để giải-quyết những vấn-đề xã-hội. Bởi đó, cuộc xung-đột giữa lý-thuyết dân-chủ và lý-thuyết xã-hội trên đất Pháp có mãnh-liệt, nhưng vẫn chưa đến nỗi đưa đến sự hỗn-loạn. Sự phản-ứng của những tổ-chức hữu-phái thiên về kỷ-luật quốc-gia cũng có gây những phong-trào chống chọi lại chế-độ cộng-hòa, nhưng nói một cách khái-quát, những phong-trào này không đủ sức đánh đổ xu-hướng yêu chuộng tự-do của dân-tộc Pháp. Nhờ đó, chế-độ cộng-hòa vẫn còn đứng vững, tuy nước Pháp có kém lần thế-lực trên trường quốc-tế. Tình-thế các nước ở miền trung và nam Âu-châu thì khác hẳn. Tư-tưởng dân-chủ chỉ tràn đến nước họ sau cuộc Đại Cách-mạng Pháp năm 1789, và từ đó, những biến-động ở nước họ thường chỉ là phản-hưởng của những phong-trào phát-khởi từ nước Pháp. Sự xung-đột giữa hai xu-hướng chuyên-chế và tự-do ở những nước này cũng mãnh-liệt không kém gì ở Pháp. Về phía nước Ý, cuộc tranh-đấu cho lý-tưởng dân-chủ đi chung với cuộc tranh-đấu giải phóng dân-tộc và thống-nhứt quốc-gia nên đã huy-động được toàn-dân và cáo-chung bằng sự thắng-lợi của phái tự-do. Chế-độ đại-nghị bắt đầu được thi-hành ở nước này từ khoảng giữa thế-kỷ 19. Ở nước Đức, trái lại, công cuộc vận-động thống-nhứt quốc-gia dựa vào nguyên-tắc quyền-lực nhiều hơn là vào lý-tưởng tự-do. Do đó, cho đến đầu thế-kỷ thứ 20, những nhóm người Đức thờ phụng lý-thuyết dân-chủ và xã-hội chưa hề nắm được phần thắng-lợi, tuy họ đã tranh-đấu một cách mãnh-liệt. Chế-độ cộng-hòa chỉ được thiết-lập ở nước Đức năm 1919, sau một cuộc cách-mạng chống lại nhà vua để chấm dứt trận thế-giới đại-chiến thứ nhứt. Sau trận đại-chiến này, cả hai nước Ý và Đức đều ở vào một tình-trạng khó khăn. Vì không đủ phương-tiện vật-chất, vì thiếu một truyền-thống dân-chủ lâu dài, những nước này không giải-quyết được vấn-đề xã-hội một cách ổn-thỏa. Sự xung-đột giữa hai phái chủ-trương dân-chủ và xã-hội trong nước làm cho tình-thế đã rối loạn càng rối loạn thêm. Do đó, phong-trào phản-ứng lại xu-hướng tự-do phóng-túng cùng tư-tưởng dân-chủ xã-hội phát-khởi lên, và đưa hai nước Ý, Đức trở về chế-độ quyền-lực, dưới sự lãnh-đạo của hai đảng Phát-xít và Quốc-xã. I. CHỦ-NGHĨA PHÁT-XÍTA. TÌNH-TRẠNG NƯỚC Ý SAU TRẬN ĐẠI-CHIẾN 1914-1918Sau khi trận Âu-chiến 1914-1918 chấm dứt, nước Ý ở vào một tình-trạng hết sức khó khăn. Cũng như mọi nước tham-chiến khác, nước ấy bị tàn-phá rất nhiều, và lâm vào một cuộc khủng-hoảng kinh-tế trầm-trọng. Đồng Ý-kim bị mất giá, sự sanh hoạt trở thành mắc mỏ và khó khăn. Một mặt khác, kết-quả của cuộc chiến-tranh đã làm cho dân Ý vô cùng thất-vọng. Người Ý trước kia vốn là bạn đồng-minh của Đức. Họ không bị nước Đức trực-tiếp uy-hiếp và không có lý-do gì chánh đáng để chọi lại nước Đức. Bởi thế, sau khi chiến-tranh khởi-diễn, chánh-phủ Ý đã tiếp-xúc và thương-thảo với cả hai bên đối-địch nhau, để mặc cả những điều-kiện tham-dự của mình. Chỉ đến lúc hai nước Anh và Pháp bí mật chấp-nhận nguyên-tắc thỏa-mãn những yêu-sách của mình về vấn-đề lãnh-thổ, chánh-phủ Ý mới khai-chiến với Đức. Vậy nước Ý tham-chiến vì muốn mở rộng cương-vực mình chớ không phải vì lý-tưởng tự-do. Nhưng các yêu-sách của Ý không phù-hợp với nguyên-tắc dân-tộc tự-quyết của Tổng-thống Mỹ Wilson nên Hội Quốc-Liên do ông này chủ-trương không chịu chấp-nhận nó. Hai nước Anh, Pháp nhơn cơ-hội này mà nuốt lời hứa hẹn của mình. Hơn nữa, trong việc qui-định những điều-kiện hòa-bình, các cường-quốc Mỹ, Anh, Pháp chỉ để cho nước Ý đóng một vai tuồng hoàn-toàn phụ-thuộc. Chung-qui, sự tham-chiến chỉ đem những họa-hại đến cho nước Ý mà chẳng đưa đến một mối lợi nhỏ nhen nào, cho dẫu là về phương-diện tinh-thần. Những kỳ-vọng về lãnh-thổ của người Ý không thỏa-mãn được, mà giấc mộng được đãi-ngộ như một cường-quốc cũng vỡ tan. Do đó, người Ý vô cùng tức bực, càng tức bực hơn nữa là họ có cảm-tưởng rằng chính nhờ sự tham-chiến của họ mà sự thắng-lợi ngã về phía các nước đồng-minh. Lẽ tự-nhiên là chánh-phủ Ý đã chủ-trương tham-chiến không sao thoát khỏi sự công-kích của quần-chúng về vấn-đề này. Đảng xã-hội Ý trước kia hô-hào bất-tham-chiến, đã nhơn cơ-hội thuận-tiện, đứng ra bài-xích chánh-phủ để bành-trướng thế-lực của mình. Họ gieo rắc tư-tưởng giai-cấp tranh-đấu, kích-thích thợ thuyền, tổ-chức những cuộc bạo-hành, chiếm-cứ các thị-xã, các hãng xưởng. Hàng-ngũ các chiến-sĩ xã-hội ở Ý vốn chưa được chặt chẽ lắm, các lãnh-tụ của họ lại thiếu tài chỉ-huy nên phong-trào họ gây ra có tánh-cách một cuộc manh-động hơn là một cuộc cách-mạng có phương-lược hẳn hòi. Sự thành-công của đảng cách-mạng vô-sản ở Nga còn nung nấu thêm những phần-tử quá-khích, và điểm cho sự hoạt-động của họ một tánh-cách tàn-bạo phũ phàng. Muốn giải-quyết tình-thế khó khăn đó, nước Ý cần một chánh-phủ cương-quyết và mạnh mẽ. Những chế-độ đại-nghị lúc ấy đã tỏ ra bất-lực hoàn-toàn. Trong Nghị-hội, các đảng phái cạnh-tranh nhau kịch-liệt vì quyền-lợi riêng. Không một đảng nào có một chương-trình rõ rệt và xung-đột chỉ quy về cá-nhơn các lãnh-tụ. Do đó, các chánh-khách thay đổi thái-độ rất thường tùy theo đảng họ có nắm được chánh-quyền hay không. Những công việc do một đảng đối-lập chủ-trương, dầu cho có ích quốc lợi dân cũng đều bị nhiệt-liệt công-kích. Trong trường-hợp đó, các chánh-phủ không thể đứng vững được lâu dài và không sao giải-quyết được những vấn-đề nghiêm-trọng đặt ra cho quốc-gia Ý. Chưa lúc nào, sự tệ-hại của chế-độ đại-nghị lại hiện ra rõ ràng đến như thế. Dân-chúng Ý vốn chưa thâm-nhiễm tinh-thần tự-do nên đâm ra thù ghét chánh-thể đại-nghị. Sự hỗn-loạn do những đảng-viên xã-hội gây ra càng làm cho họ mất tín-nhiệm nơi chế-độ đương-hữu. Chủ-trương của đảng Xã-hội đòi hủy-diệt tất cả các nền tảng của xã-hội Ý, cũng như các hành-động quá-khích của họ làm kinh-hoảng một số đông người trưởng-giả, nhưng cũng gây một sức phản-ứng mạnh trong những giới có tinh-thần chiến-đấu hơn. Ban đầu, những lực-lượng phản-động còn tranh-đấu một cách rời rạc mơ hồ. Nhưng sau đó, nó qui-tập lại làm một mối dưới sự điều-khiển của Benito Mussolini làm cho phong-trào Phát-xít do ông này khởi-xướng được thành-công. B. BENITO MUSSOLINI VÀ PHONG-TRÀO PHÁT-XÍTBenito Mussolini, lãnh-tụ phong-trào Phát-xít sanh ngày 29 tháng 07 năm 1883 tại Predappio, tỉnh Romagne. Thân-phụ ông là một đảng-viên xã-hội, nhưng thân-mẫu ông lại là một người đàn bà rất sùng-tín Thiên-chúa-giáo. Lúc thiếu thời, ông làm nghề giáo-viên, nhưng đến năm 1902, không chịu nổi cuộc đời tầm-thường của một viên-chức hạ-cấp, lại không muốn nhập-ngũ, ông bỏ nhà trốn sang Thụy-sĩ. Trong thời-kỳ lưu-lạc tại nước này, ông tìm cách học thêm và làm nghề viết báo, rồi gia-nhập đảng Xã-hội. Bị chánh-phủ Thụy-sĩ trục-xuất, ông phải bỏ sang Pháp. Kế đó, ông trốn trở qua Thụy-sĩ, nhưng ông lại bị đuổi và phải về nước Ý năm 1904. Ông bị gọi nhập-ngũ, nhưng chỉ ít lâu sau đó, ông xin giải-ngũ để phụng-dưỡng cha già. Ông lại làm giáo-viên, nhưng đồng-thời hoạt-động cho đảng Xã-hội. Khoảng năm 1913, ông được xem là một đảng-viên xã-hội quá-khích ở cánh tả. Khi trận Âu-chiến 1914-1918 khởi-diễn, ông nhiệt-liệt bài xích sự tham-chiến của nước Ý. Nhưng sau đó, ông lại đổi ý-kiến và bị trục-xuất ra khỏi đảng Xã-hội. Ông bèn nhận tiền của chánh-phủ Pháp, xuất-bản một tờ báo chủ-trương đưa nước Ý tham-chiến và mạt-sát lại các đồng-chí cũ của mình. Năm 1915, ông lập ra một đảng quốc-gia cách-mạng. Mussolini vốn chủ-trương hợp-tập tất cả những người có xu-hướng quốc-gia lại làm một khối để thực-hiện sự hùng-cường cho Tổ-quốc nên lấy bó búa lịnh của những vệ-binh La-mã xưa kia làm biểu-hiệu cho đảng mình. Bó búa lịnh này tiếng Ý là fascio. Do đó, Mussolini mạng-danh đảng mình là " Fascio d’azione revoluzionare " (nhóm hoạt-động cách-mạng). Vì tiếng fascio, về sau, người ta gọi đảng của ông là đảng phát-xít. Khi nước Ý tuyên-chiến với Đức, Mussolini lại nhập-ngũ và ra chiến-đấu ở tiền-tuyến. Năm 1917, ông bị thương và được đưa về làm việc ở hậu-phương. Từ đó, ông chỉ viết báo và khuyến-khích quân-sĩ tranh-đấu. Năm 1919, ông ra ứng-cử nghị-viên tại Milan, nhưng bị thất-bại. Sau đó, nhơn sự bất-lực của chánh-phủ Ý trước cảnh hỗn-loạn do đảng Xã-hội gây ra, ông phát-động phong-trào chống lại sự bạo-động của những môn-đồ Karl Marx, dùng võ-lực đối-phó với võ-lực. Tất cả những đối-thủ của phái xã-hội, từ những tín-đồ Thiên-chúa-giáo, qua những người tiểu-địa-chủ, tiểu-tư-sản đến những thương-gia, kỹ-nghệ gia và trí-thức, vốn đã kinh sợ sự hỗn-loạn và chế-độ cộng-sản, lại mất tin tưởng nơi lý-tưởng dân-chủ nên sẵn sàng hưởng-ứng theo Mussolini. Năm 1922, sau nhiều lần tổ-chức những cuộc phô-trương lực-lượng để thị-oai, Mussolini được Ý-hoàng mời đứng ra lập nội-các. Ban đầu, Mussolini cũng muốn giữ một hình-thức dân-chủ cho nước Ý và kêu gọi đến sự hợp-tác của những phần-tử còn trung-thành với lý-tưởng tự-do. Nhưng lần lần, sự bất-đồng ý-kiến lại phát-hiện. Để có thể kiến-thiết nước Ý theo nguyện-vọng của mình, ông phải thi-hành chế-độ độc-tài. Năm 1940, Mussolini đứng bên cạnh Hitler tuyên-chiến với đồng-minh. Đến năm 1943, khi trục Bá- linh La-mã bắt đầu núng thế, và quân Đồng-minh đổ bộ lên đảo Sicile, ông bị Ý-hoàng ra lịnh bắt giam. Được người Đức giải-thoát, ông thành-lập một chánh-phủ tân Phát-xít ở Bắc Ý để tổ-chức sự kháng-chiến, nhưng đến năm 1945, ông bị bắt và bị xử tử tại Côme. C. NHỮNG NGUYÊN-TẮC CĂN-BẢN CỦA CHỦ-NGHĨA PHÁT-XÍT.Xét tiểu-sử Mussolini, ta nhận thấy rằng ông là một người hiếu-động. Đối với ông, chỉ có công việc làm là đáng kể, vấn-đề lý-thuyết chỉ là phụ-thuộc mà thôi. Do đó, ông đã nhiều lần thay đổi ý-kiến. Trước, ông theo đảng Xã-hội, sau lại phản đảng ấy ; trước ông chủ-trương chống chiến-tranh, sau lại hô-hào cho nước Ý tham-dự chiến-tranh ; trước ông muốn liên-minh với những người cấp-tiến, sau lại đàn-áp giết hại họ. Tuy vậy, khi đã gây được một phong-trào mạnh mẽ rồi, ông nhận thấy cần phải có một hệ-thống tư-tưởng làm gốc để cố-kết các nhơn-viên ủng-hộ mình. Do dó, ông nêu ra chủ-nghĩa Phát-xít. Tư-tưởng của Mussolini phần lớn dựa vào nền triết-lý của nhà học-giả Ý : Gentile. Ông này sanh năm 1875, chết năm 1944, và là tác-giả thuyết hiện-tại. Theo thuyết ấy, các ngành hoạt-động của tinh-thần người đều qui về một mối, mà tư-tưởng với hành-động người cũng luôn luôn phù-hợp nhau. Tư-tưởng và hành-động người phải dựa vào hiện-tại vì chỉ có cái hiện-tại là thật-sự, chánh-đáng và thiêng liêng. Mà hiện-tại, người sống trong quốc-gia, nên phải lấy quốc-gia làm trọng. Quốc-gia sở-dĩ xây dựng được phần lớn là nhờ nơi ý-chí tinh-thần của người ; do đó, ngưòi cần phải có lòng tin tưởng nơi quốc-gia. Lòng tin tưởng này cần có một tánh-cách tôn-giáo, và ý-niệm tổ-quốc của người phải là một ý-niệm thiên liêng tối thượng. Ngoài ảnh-hưởng của Gentile, Mussolini còn chịu ảnh-hưởng của Malaparte chủ-trương rằng trong một quốc-gia, dân-chúng là một khối thụ-động, kém hèn, và chỉ có những bực anh-hùng hào-kiệt là đáng kể mà thôi. Sau hết, Mussolini cũng muốn dựa vào quá-khứ huy-hoàng của Đế-quốc La-mã để kêu gọi người Ý xây dựng một nước Ý hùng-cường, xứng đáng với tiền-nhơn họ. Noi theo những nguyên-tắc trên này, Mussolini tạo ra chủ-nghĩa Phát-xít. Theo chủ-nghĩa ấy, xã-hội trong đó người sống không phải là nhơn-loại, mà là dân-tộc tổ-chức thành quốc-gia. Quốc-gia không phải chỉ là một hợp-tập những cá-nhơn, nó là một thực-tại có một giá-trị cao hơn những yếu-tố cấu-tạo nên nó. Do đó quốc-gia phải được xem là một thực-thể tối-cao. Chính nó mới là cứu-cánh của mọi hoạt-động xã-hội, chứ không phải cá-nhơn. Nó là nguồn gốc mọi quyền-lực ; quyền của cá-nhơn, quyền của những đoàn-thể đều do nơi quốc-gia mà phát-xuất. Vậy, cá-nhơn phải phục tùng quốc-gia, phải khép mình vào khuôn khổ quốc-gia và tan biến trong quan-niệm quốc-gia, trong ý-tưởng Tổ-quốc. Nền tảng của một quốc-gia là đời sống quá-khứ của nó, là lịch-sử những tục-truyền cổ-kính dạy con người lấy nghị-lực mà chiến-đấu để xứng đáng với chức-trách của mình. Vì dựa vào những quan-niệm trên đây, chủ-nghĩa phát-xít chống với lý-tưởng tự-do cá-nhơn trọng cá-nhơn hơn quốc-gia ; nó cũng nghịch với thuyết duy-vật chú-trọng đến lực-lượng vật-chất nhiều hơn đến giá-trị của tinh-thần. Đối với chủ-nghĩa phát-xít, chỉ có quyền-lợi quốc-gia là trên tất cả, còn hình-thức quốc-gia là một vấn-đề phụ-thuộc, vì chánh-thể chỉ là một trạng-thái tiêu-biểu cho trình-độ chánh-trị, lịch-sử và tâm-lý của một dân-tộc vào một thời-kỳ nhứt-định mà thôi. Nhưng dầu sao, muốn đứng vững được, quốc-gia cũng phải có oai-lực va cơ-quan hành-chánh cũng phải nắm nhiều quyền-thế trong tay. D. CHẾ ĐỘ PHÁT-XÍT.Chủ-trương phát-xít trên này tự-nhiên đưa Mussolini đến chỗ thi-hành chế-độ độc-tài. Ý-hoàng vẫn còn được công-nhận là Quốc-trưởng, song không nắm được một tí quyền gì. Thượng và Hạ Nghị-viện cũng không bị hủy bỏ, Mussolini chỉ sửa đổi cách thức bầu cử lại mà thôi. Trong Thượng Nghị-viện, kế bên những nhơn-viên giữ trách-vụ đến mãn đời, đảng Phát-xít chỉ-định một số nhơn-viên có một nhiệm kỳ hữu-hạn và dễ sai khiến hơn. Nghị-sĩ Hạ Nghị-viện thì được dân-chúng bầu kín trong số những người được các nghiệp-đoàn phát-xít giới-thiệu va được Đại Hội-đồng phát-xít chọn lựa sẵn. Chung-qui, quyền-hành tối-cao trong nước Ý thuộc về Đại Hội-đồng phát-xít này. Trong Đại Hội-đồng ấy, Mussolini đóng vai tuồng thủ-lãnh và trở thành vị chủ-nhơn độc-tài của nước Ý. Để cho chế-độ mình xây dựng được vững chắc, Mussolini hướng tất cả mọi ngành hoạt-động giáo-dục và văn-hóa trong nước vào lý-tưởng phát-xít. Sự huấn-luyện tinh-thần của người dân Ý đã bắ đầu từ tuổi thiếu-niên, với những tổ-chức thiếu-sanh và thanh-niên phát-xít, và tiếp-tục cho kẻ thành-niên với những đoàn-thể được chánh-phủ phát-xít chánh-thức công-nhận. Đặc-điểm của chế-độ phát-xít là sự tôn-trọng cần-lao. Tất cả mọi người đều bắt buộc phải làm việc. Những quyền tự-do và tư-hữu bị khiên-chế chặt chẽ, sự ăn không ngồi rồi bị xỉ mạ và những người địa-chủ không khai-thác sản-nghiệp mình bị bắt buộc phải nộp đất đai cho chánh-phủ. Chế-độ nghiệp-đoàn được khuếch-trương rộng rãi. Các nghiệp-đoàn phát-xít được quyền qui-định lương bổng thợ thuyền và được chọn lựa những nhơn-viên ứng-cử vào Hạ Nghị-viện. Tuy-nhiên, sự đình-công bị cấm tuyệt và chủ-trương giai-cấp tranh-đấu bị đàn-áp thẳng tay. Đ. NHỮNG NHƯỢC-ĐIỂM CỦA CHỦ-NGHĨA VÀ CHẾ-ĐỘ PHÁT-XÍT.Tinh-thần của chủ-nghĩa Phát-xít có thể tóm lại trong câu "duy quốc độc tôn". Những nhà lãnh-tụ phát-xít lấy quốc-gia làm cứu-cánh cho mọi hành-động của con người, và bắt cá-nhơn hoàn-toàn lệ-thuộc quốc-gia. Quan-niệm này là một quan-niệm hết sức sai lầm. Thật ra, quốc-gia tự nó không có nghĩa gì cả. Nó chỉ nhờ cá-nhơn mà thành-lập được. Nó chỉ duy-trì được khi dân-chúng vui lòng chấp-nhận nó và chỉ có lý-do tồn-tại khi nó bảo-đảm được quyền-lợi của phần đông dân-chúng. Vậy, nó chỉ là một phương-tiện để mưu-đồ sinh-tồn cho cá-nhơn. Vì đó, mặc dầu cao quý hơn cá-nhơn, nó vẫn phải được phê-phán theo sự ích-lợi nó mang đến cho cá-nhơn. Ý-tưởng lấy quốc-gia làm cứu-cánh cho mọi hành-động không có một nền tảng hợp-lý, và chỉ có thể đưa đến sự chuyên-chế của nhà cầm-quyền, biện-chánh cho sự hà-lạm của họ. Chủ-nghĩa Phát-xít xem thế, chỉ là một chủ-nghĩa quốc-gia cổ-điển không có lý-luận gì đặc-biệt. Nó sở-dĩ được dân Ý chấp-nhận lúc ban đầu không phải vì nó hợp-lý, mà vì nó hiện ra như một cây sào có thể cứu vớt dân-chúng trong khi mọi người bị lôi cuốn trong dòng nước hỗn-loạn. Khi nắm được chánh-quyền rồi, những người theo chủ-trương phát-xít đã kiến-thiét nước Ý thành một nước hùng-cường. Chế-độ họ xây dựng cũng có nhiều điểm tốt đẹp : sự tôn-trọng cần-lao và quan-trọng-hóa các nghiệp-đoàn kể ra cũng là những sáng-kiến hay. Nhưng thật-sự, những đảng-viên phát-xít không có lý lẽ gì vững chắc để đánh đổ lý-thuyết dân-chủ và xã-hội, họ chỉ dùng võ-lực để đàn-áp những người theo hai thuyết ấy mà thôi. Thêm vào đó, cái quá-khứ không được trong sạch của Mussolini cũng làm cho người ta thiếu tin cậy nơi đảng Phát-xít. Những chiến-sĩ của ông ta lại là những kẻ thuộc đủ hạng người hốt-nhiên hợp lại, không có sự chọn lọc về mặt đạo-đức và tinh hần. Đến lúc thành-công, nhiều phần-tử bất lương đã thừa thế làm những điều càn dỡ. Chủ-trương độc-tài của Mussolini khiến cho dân-chúng không có một cách nào để tự-vệ đối với hạng người bất-lương ấy. Do đó, chế-độ phát-xít đã bị nhiệt-liệt chỉ-trích về những hành-vi quá bạo-tàn của nó. Nhiều nhà học-giả nổi danh của Ý phải lén xuất-ngoại để thoát khỏi bầu không-khí khắc-nghiệt của nước mình, và dư-luận thế-giới lần lần mất hết thiện-cảm đối với Mussolini cùng chế-độ của ông. II. CHỦ-NGHĨA QUỐC-XÃ.A. TÌNH-TRẠNG NƯỚC ĐỨC SAU TRẬN ĐẠI-CHIẾN 1914 -1918Sau trận chiến-tranh 1914-1918, nước Đức cũng gặp những nỗi khó khăn như nước Ý. Sự thất trận làm cho đồng "mác" (Đức-kim) hạ giá một cách hãi-hùng. Thêm vào đó, sự sản-xuất kinh-tế bị ngưng-trệ và nước Đức bị lâm vào một cuộc khủng-hoảng lớn lao. Một số đông người trung-lưu bị sạt nghiệp, trong khi một thiểu-số kỹ-nghệ gia thạnh-vượng lên, và tổ-chức những xí-nghiệp tập-trung có thế-lực rất mạnh về mặt kinh-tế. Trong khi đó, những đảng-viên xã-hội lợi dụng tình-thế để bành-trướng thế-lực và mưu toan cướp chánh-quyền. Họ tổ-chức những cuộc hội-họp, những cuộc biểu-tình, những cuộc bạo-động để phô-trương lực-lượng và lôi cuốn những kẻ lưng chừng. Chánh-phủ Cộng-hòa Weimar lúc ấy phải dựa vào quân-đội Đức để giữ gìn trật-tự. Nhưng giữa chánh-phủ và quân-đội không có một sự hợp-tác chặt chẽ, vì chánh-phủ Đức nghiêng về phía lý-tưởng tự-do, còn quân-đội Đức đào-luyện theo tinh-thần cũ lại có xu-hướng độc-tài. Về phần dân-chúng, họ không thích các chánh-khách và những tổ-chức tả-phái. Người Đức vốn có một tinh-thần kỷ-luật mạnh, lại luôn luôn nuôi ước-vọng thấy tổ-quốc họ trở thành bá-chủ hoàn-cầu. Sự thất trận làm cho mộng đế-quốc của họ tan vỡ. Thái-độ của các nước đồng-minh đối với họ lại càng làm cho họ thất-vọng hơn. Khi ký-kết văn-kiện đình-chiến năm 1918, người Đức chưa phải thật-sự đã bại-trận. Họ đã hết hy-vọng thắng Pháp, nhưng hãy còn giữ vững được biên-giới nước mình. Chánh-phủ Weimar đã lật đổ Đúc-hoàng mong rằng, với một chế-độ Cộng-hòa, các nước đồng-minh – vốn tuyên bố tranh-đấu cho lý-tưởng tự-do – tỏ ra khoan-hồng hơn. Nhưng các nước đồng-minh đã đối đãi với Đức một cách khắc-nghiệt, gây ra một sự công-phẫn lớn lao trong quần-chúng Đức. Sự rối loạn tiếp theo đó lại càng làm cho dân Đức oán ghét chánh-phủ Weimar. Một mặt khác, vai tuồng của quân-đội Đức trong sự gìn giữ trật-tự đã tăng thêm uy-tín nó rất nhiều. Do đó, phát sanh ra ý-tưởng cho rằng quân-đội Đức không hề thất-trận, chỉ vì bọn chánh-khách Đức phản-bội, phá rối hậu-phương, mà các tướng lãnh Đức phải buộc lòng xin đình-chiến với các nước đồng-minh. Cuộc đầu-phiếu của dân-chúng Đức đã loại ra khỏi chánh-phủ những phần-tử thiên tả, và đưa lên ghế Tổng-thống Đức : Thống-chế Hindenburg, một quân-nhơn có nhiều uy-tín. Lẽ cố-nhiên là những nhóm xã-hội và cộng-sản phải cố phản-ứng lại, mặc dầu họ đã yếu sức nhiều vì những cuộc đàn-áp đẫm máu. Chính trong bầu không-khí hậu-chiến căng thẳng vì sự cạnh-tranh giữa xu-hướng xã-hội và ý-thức quốc-gia mà đảng Quốc-xã Đức ra đời và phát-triển. B. HITLER VÀ ĐẢNG QUỐC-XÃ.Nhà lãnh-tụ Quốc-xã Đức tên Adolf Hiler. Ông sanh năm 1889 tại Braunau, một châu-thành ở biên-thùy Aó-Đức. Ông là con một công-chức, nhưng không thích làm công-chức như cha, lại muốn trở thành một nhà họa-sĩ. Thuở ông còn bé, một vị giáo-sư lịch-sử đã gây cho ông lòng yêu dân-tộc Đức và sự oán-hận dòng vua Áo Habsbourg. Mồ côi cha và mẹ vào tuổi thiếu-niên, Hitler rời quê-hương đến Áo-đô là Vienne. Ông thi vào trường mỹ-nghệ không đỗ phải làm thợ để mưu-sanh, sống một cuộc đời rất vất vả. Trong thời-kỳ này, ông tiếp xúc với những thợ thuyền và hết sức ngạc-nhiên khi thấy họ bị ảnh-hưởng của lý-thuyết xã-hội Karl Marx chống tổ-quốc, chống tôn-giáo, chống luân-lý cổ-truyền, những ý-niệm rất được ông tôn-trọng. Đồng-thời, ông dự-kiến những cuộc hội-họp của Nghị-viện Áo và rất nhờm gớm chế-độ đại-nghị. Ông cho rằng mọi họa-hại, từ thái-độ vô tổ-quốc của thợ thuyền đến chế-độ đại-nghị, đều do người Do-thái mà ra. Dân Đức đã bị người Do-thái gạt gẫm và tự gây ra rối loạn trong quốc-gia để cho người Do-thái hưởng. Năm 1912, Hitler bỏ Vienne đến Munich. Ông hãy còn nghèo, nhưng đã có một mực sống khá hơn. Lúc chiến-tranh bùng nổ, ông xin gia-nhập quân-đội Đức, và sau một thời-kỳ tranh-đấu, ông được lên cấp Hạ-sĩ, lại được thưởng "Thiết bội-tinh ". Khi nước Đức thất trận, Hitler được bổ làm sĩ-quan tác-động tinh-thần, và nhơn đó, có dịp nhận-thức tài hùng-biện của mình. Ông tiếp-xúc với đảng thợ-thuyền Đức lúc nó vừa thành-lập, xin gia-nhập nó rồi tổ-chức nó lại, đặt tên nó là đảng "Quốc-gia Xã-hội ", lấy cờ chữ vạn làm biểu-hiệu. Nhờ những đề-tài tuyên-truyền của ông phù-hợp với tâm-trạng và nguyện-vọng của dân Đức lúc bấy giờ, đảng ông bành-trướng rất mau. Ông bèn tổ-chức những đội xung-phong, dùng võ-lực chống lại những nhóm cộng-sản. Ngày 09 tháng 11 năm 1923, Hitler mưu cuộc đảo-chánh ở Munich, nhưng thất-bại, đảng Quốc-Xã bị giải tán và ông bị bắt và bị phạt 5 năm tù. Trong khám, ông viết quyển "Cuộc chiến-đấu của tôi ", thuật lại tiểu-sử mình và trình bày chủ-nghĩa mình. Về sau, án ông được rút xuống còn 13 tháng. Khi ra tù, Hitler hoạt-động chánh-trị trở lại trong vòng hợp-pháp. Đảng ông đưa ra một số khá lớn nghị-sĩ vào Quốc-hội. Trong một cuộc tranh-cử chức Tổng-thống với Hindenburg, ông đã được số phiếu rất cao, tuy không bằng Hindenburg. Bởi đó, năm 1933, khi nước Đức lọt vào những cuộc khủng-hoảng nội-các liên-miên vì không ai giải-quyết được nạn khủng-hoảng kinh-tế và vấn-đề thất nghiệp của thợ thuyền, Tổng-thống Hindenburg phải mời ông ra làm Thủ-tướng. Năm 1934, khi Tổng-thống Hindenburg chết, Hitler kiêm luôn cả chức Quốc-trưởng và trở thành nhà độc-tài của nước Đức. Ông dựa vào đảng Quốc-Xã mà kiến-thiết nước Đức thành một nước hùng-cường, nhưng ý muốn mở rộng cương-giới đưa ông đến chỗ phải khai-chiến với các nước khối dân-chủ. Năm 1945, khi nước Đức thất-trận và thủ-đô Berlin sắp bị chiếm, ông tự-tử với những người thân-tín để khỏi chứng-kiến cái nhục mất nước. C. NHỮNG NGUYÊN-TẮC CĂN-BẢN CỦA CHỦ-NGHĨA QUỐC-XÃ : THUYẾT SIÊU-NHƠN VÀ SIÊU-TỘC.I- NHỮNG TÁC-GIẢ ĐÃ ẢNH-HƯỞNG ĐẾN HITLER.Trong sự xây dựng chủ-nghĩa mình, Hitler đã chịu ảnh-hưởng nhiều triết-gia và học-giả như Nietszche, Gobineau, Vacher de Lapouge và Houston Stewart Chamberlain. a) NIETSZCHE VÀ THUYẾT SIÊU-NHƠNNietszche (1844-1900) là một triết-gia Đức có nghiên-cứu về nền tư-tưởng Ấn-độ chú-trọng đến sức mạnh của tinh-thần người, và đặt bực đạt-đạo lên trên ý-niệm Thiện-Ác. Ông đã dựa vào đó mà nêu ra một nền luận-lý đặt nền tảng trên sự rèn luyện nghị-lực và phát-triển ý-chí cường-lực, đưa người lên địa-vị siêu-nhơn. Quyển " Những lời day của Zarathoustra " ông viết ra có ảnh-hưởng rất nhiều đến những lý-thuyết-gia chủng-tộc của Đức về sau. b) BÁ-TƯỚC GOBINEAU VÀ QUYỂN " TIẺU -LUẬN VỀ SỰ BẤT-BÌNH-ĐẲNG GIỮA CÁC CHỦNG-TỘC ".Trong một quyển sách tựa là "Tiểu-luận về sự bất-bình-đẳng giữa các chủng-tộc ", Gobineau (1816-1882), một nhà ngoại-giao Pháp, cho rằng vấn-đề chủng-tộc là chìa khóa của cả lịch-sử loài người. Theo ông, sự bất-bình-đẳng về chủng-tộc có tánh-cách thiên-nhiên và thường-trực. Trong tất cả các chủng-tộc, chủng-tộc da trắng là trên hết ; trong các chủng-tộc da trắng, dân Aryen là hơn cả, và trong dân Aryen, ngành Nhựt-nhĩ-man (Germain) giữ địa-vị cao nhứt, vì những ngành Xen (Celte) và Tư-lạp- phu (Slave) đã lai các giống da vàng nhiều rồi. Người Nhựt-nhĩ-man, chủng-tộc cao quí nhứt của nhơn-loại đã chinh-phục được đế-quốc La-mã. Nhưng họ cũng bị sự trộn giống mà lần lần suy-đồi. Dân Đức hiện-tại đã mất tánh-cách Nhựt-nhĩ-man nhiều. Do đó, phần máu Arian thuần-túy bớt đi, và nhơn-loại nhứt-định phải đi đến sự thoái-hóa. c) VACHER DE LAPOUGE VÀ QUYỂN " NGƯỜI ARYEN VÀ VAI TUỒNG XÃ-HỘI CỦA HỌ "Sau đó, một học-giả Pháp khác, Vacher de Lapouge xuất-bản năm 1899 quyển " Người Aryen và vai tuồng xã-hội của họ " trong đó ông tiếp-tục thuyết của Gobineau, nhưng đánh đổ sự bi-quan của ông này. Vacher de Lapouge cho rằng với những phương-pháp tuyển-trạch khoa-học tương-tự những phương-pháp áp-dụng cho loài thực-vật và thú-vật, người ta có thể cải-tạo lại loài người với những người Aryen thuần-túy còn sót lại. d) HOUSTON STEWART CHAMBERLAIN VÀ QUYỂN " CƠ-SỞ CỦA THẾ -KỶ THỨ 19 "Cũng trong năm 1899, một học-giả Anh, Houston Stewart Chamberlain cho ra quyển "Cơ-sở của thế-kỷ thứ 19 ". Trong sách này, Chamberlain chủ-trương rằng những tánh-cách thể-chất của người Aryen : tóc vàng, mắt xanh, sọ dài..., chưa phải là tất cả. Điều cốt-yếu cho người Aryen là một ý-thức về chủng-tộc mình. Với tư-cách là một kiến-trúc chánh-trị, quốc-gia có một vai tuồng quyết-định, vì nó tạo ra những điều-kiện cần-thiết cho sự sinh-tồn của các chủng-tộc. Do đó, Chamberlain phản-đối hẳn Gobineau, và công-nhận rằng dân Đức hiện-thời đáng làm những kẻ kế-thừa của người Aryen Nhựt-nhĩ-man. 2- THUYẾT CHỦNG-TỘC CỦA HITLER.a) THUYẾT SIÊU-NHƠNTheo thuyết siêu-nhơn của Hitler, những công việc vĩ đại, những hành-vi anh-dõng đã xảy ra từ trước đến giờ đều là công-trạng của những cá-nhơn chứ không phải của quần-chúng. Từ sự tìm ra tia lửa đầu tiên giúp cho người luyện những khí-giới kim-loại trong thời-kỳ tiền-sử cho đến những phát-minh khoa-học sau này biến-cải hẳn mặt địa-cầu, từ sự tổ-chức xã-hội cho đến sự tạo-lập những nền luân-lý, đạo-đức đã làm cho người càng ngày càng tiến-hóa về mặt tinh-thần, cái nào cũng do sáng-kiến của một khối óc mà ra. Tất cả những công-nghiệp vĩ-đại, những biến cố quan-trọng trong lịch-sử đều dính dáng vào tên một vĩ-nhơn. Quần-chúng chỉ là một khối thụ-động, nhắm mắt tuân theo lịnh vĩ-nhơn hay chỉ ngồi không thụ-hưởng kết-quả công việc làm của vĩ-nhơn. Những bậc vĩ-nhơn cố-nhiên phải có một tài-năng xuất-chúng, một trí thông-minh phi-phàm, một nghị-lực khác thường : tóm lại, họ là những siêu-nhơn. Họ có nhiệm-vụ hướng dẫn nhơn-loại đi trên đường tiến-bộ. Nhưng muốn cho họ thành-công được, những người tầm-thường phải phụng-sự họ và tuân theo lịnh họ. b) SỰ PHÂN-BIỆT NHỮNG CHỦNG-TỘC RA LÀM BA LOẠI : TẠO-LẬP, DUY-TRÌ VÀ PHÁ-HOẠI VĂN-MINHSự bất-bình-đẳng không những chỉ phát-hiện giữa những cá-nhơn mà thôi ; nó còn hiện ra giữa chủng-tộc nữa. Trong nhơn-loại, có chủng-tộc rất thông-minh tài-trí, có óc sáng-kiến, lại nhiều nghị-lực, mỗi khi gặp cơ-hội thuận-tiện thì phát-triển được hết năng-lực của mình, tạo ra những yếu-tố mà toàn-thể hợp lại làm nền văn-minh. Đó là những chủng-tộc tạo-lập văn-minh. Nhiều chủng-tộc khác không có trí thông-minh xuất-chúng, không đủ sức phát-huy hay sáng-tạo điều gì, chỉ có thể học hỏi, bắt chước những việc làm của chủng-tộc trên. Nhưng họ thường bắt chước những siêu-tộc một cách ngu-muội, chỉ noi theo người ta một cách mù quáng, nô-lệ, không biết tùy theo hoàn-cảnh mà sửa đổi thêm bớt vào nền văn-minh, không biết đem sự kinh-tân hoán-cải theo thời-gian mà gây cho nền văn-minh một sanh-khí dồi-dào là động-lực của tiến-hóa. Những chủng-tộc này chỉ có thể gọi là những chủng-tộc duy-trì văn-minh. Sau cùng có một loại chủng-tộc, đã không tạo-lập nền văn-minh mà cũng không thể và không muốn duy-trì nó, họ luôn tìm cách tàn-phá, hủy-hoại những biểu-hiệu của văn-minh. Đó là những chủng-tộc phá-hoại văn-minh. c) DÂN ARYEN LÀ CHỦNG-TỘC ĐỘC- NHỨT TẠO-LẬP VĂN-MINHSau khi phân chia các chủng-tộc làm 3 loại : tạo-lập văn-minh, duy-trì văn-minh và phá-hoại văn-minh, Hitler bảo rằng sự nghiên-cứu lịch-sử văn-minh thế-giới đã chứng-nhận rằng tất cả những công-trình biểu-hiệu cho những nền văn-minh đã xuất-hiện đều do nơi chủng-tộc Aryen mà ra. Những chủng-tộc khác chỉ bắt chước chủng-tộc Aryen, và chỉ là hạng duy-trì văn-minh mà thôi. Chủng-tộc Aryen quả xứng đáng là một chủng-tộc siêu-đẳng, một siêu-tộc làm thầy cả thế-giới. Nó có cái sứ-mạng thống-nhứt hoàn-cầu, dìu dắt những chủng-tộc khác trên đường văn-minh, tạo-lập nền hòa-bình và hạnh-phúc cho nhơn-loại. Hòa-bình và hạnh-phúc này không thể thâu-hoạch được bằng những nhánh ô-liu mà người ta vừa phe phẩy, vừa khóc sụt sùi ở các hội-nghị quốc-tế. Nó chỉ có thể thâu-hoạch được bằng một lưỡi kiếm đặt tất cả mọi người dưới một trật-tự nghiêm-khắc, trong ấy một chủng-tộc đặc-biệt tài giỏi chỉ dẫn cho những chủng-tộc khác phụng-sự một nền văn-minh cao cả. Cái sứ-mạng thống-nhứt thế-giới này, chủng-tộc Aryen có thể thi-hành được và phải đứng ra thi-hành. d) ĐIỀU-KIỆN QUYẾT-THẮNG CHO SIÊU-TỘC : MỘT DÒNG MÁU THUẦN TÚYNhưng muốn thi-hành được cái sứ-mạng thiêng liêng của mình, chủng-tộc Aryen phải giữ cho dòng máu của mình hoàn-toàn trong sạch, không được pha trộn với chủng-tộc nào khác. Hitler cho rằng Tạo-hóa sanh ra những chủng-tộc khác nhau không phải để cho nó trộn lộn vào nhau. Những giống vật bao giờ cũng giao-hợp giữa đồng-loại với nhau : không bao giờ một con thú giao-hợp với một con thú khác loài với nó. Con gà bao giờ cũng đạp mái một con gà, không đạp mái một con vịt. Nếu vì sự tù hãm hay vì một lẽ gì khác mà một sanh-vật không tìm được con đực hay cái cùng loài với nó và phải giao-hợp với một sanh-vật dị-loại thì Tạo-hóa trừng-phạt nó ngay. Hai sanh-vật khác loài nhau mà giao-hợp nhau thì không sanh con được, mà có sanh con được đi nữa thì sanh-vật con ấy cũng thường tuyệt sự sanh-dục, hay ít nữa cũng sanh-dục rất ít và luôn luôn kém sức tranh-đấu để sinh-tồn. Con lừa và con ngựa giao-hợp nhau thì sanh ra con la, một con vật ngu-si mà không có con được. Xem thế, ý muốn Tạo-hóa là giữ cho các chủng-loại phân-biệt nhau để nó cạnh-tranh lẫn nhau mà tiến-hóa, vì sự tiến-hóa không thể đạt được bằng cách trộn lộn các chủng-loại, nó chỉ thâu-hoạch được bằng sự hoàn-toàn thắng-lợi của chủng-loại có giá-trị nhứt. Nhiệm-vụ kẻ mạnh là thống-trị chớ không phải là hy-sinh sự cao quí của mình để trôn lộn với đám đông bạc-nhược. Kết-quả của cái xu-hướng thiên-nhiên muốn duy-trì sự thuần-túy của chủng-loại là sự sai-dị rõ rệt giữa hình-thể các chủng-loại khác nhau và sự tương-tự lớn lao giữa những tánh-cách đặc-biệt của mỗi chủng-loại. Con chồn vẫn luôn luôn là con chồn, con ngỗng vẫn luôn luôn là con ngỗng, và những sự sai-biệt giữa những sanh-vật cùng loài chỉ do nơi số nghị-lực, thông-minh, khôn khéo nhiều ít khác nhau mà thôi. Ta không thể nào tìm được một con chồn có bẩm-tánh làm cho nó lấy lòng bác-ái mà ở với con ngỗng, cũng không thể kiếm được con mèo nào tự-nhiên mến loài chuột. Một chủng-tộc cao-cấp mà trộn lộn với một chủng-tộc hạ-cấp thì sanh ra một giống lai-căn không giỏi bằng chủng-tộc cao-cấp và sẽ bị đào-thải trong cuộc cạnh-tranh để sinh-tồn. Đã vậy, sự trộn giống ấy lại làm cho nhơn-loại thoái-hóa nữa. Lịch-sử đã chứng tỏ rằng chủng-tộc Ayren là chủng-tộc cao-cấp duy-nhứt đã xây đắp tất cả những nền văn-minh trên thế-giới. Nhưng vì ít dân số quá, nên muốn làm xong công-nghiệp tạo-lập văn-minh ấy, người Ayren phải dùng nhơn-công thuộc chủng-tộc khác. Ban đầu, giữa họ và những chủng-tộc hạ-cấp kia có một sự cách-biệt rõ ràng nên nền văn-minh xây đắp được có một sanh-khí mạnh mẽ. Nhưng lần lần, người Ayren trộn lộn với những chủng-tộc hạ-cấp, thành ra dòng máu của họ phai đi không còn tinh-túy nữa. Vì đó, nền văn-minh của người Ayren chánh-tông dựng lên mất cả vượng-khí, trở nên khô khan, và sau cùng phải đổ nát. Vậy, muốn giữ cho nèn văn-minh mình xây đắp khỏi tan rã, chủng-tộc Ayren phải giữ cho máu mình thuần-túy, không pha trộn với chủng-tộc nào khác. Một điều đáng tiếc là sự lầm lạc từ trước đến nay đã làm cho chủng-tộc Ayren tạo-lập văn-minh lai mất nhiều rồi. Hiện giờ, trong chủng-tộc Ayren xây đắp văn-minh, chỉ còn có nhóm dân Đức là chưa trộn lẫn với chủng-tộc nào khác. Giọt máu họ còn thuần-túy, và chỉ có họ là đủ sức hướng dẫn nhơn-loại trên đường tiến-bộ. Sứ-mạng người Đức là thống-nhứt hoàn-cầu, đem hạnh-phúc lại cho thế-giới. Nhưng vết xe đổ của người xưa, họ phải biết xem vào mà tránh : muốn cho sứ-mạng họ hoàn-thành, họ không được chung chạ trộn lẫn với chủng-tộc nào khác. đ) PHONG-TRÀO BÀI DO-THÁI VÀ QUI-TẬP NGƯỜI THUỘC MÁU ĐỨC VỀ MỘT KHỐI.Một điều nguy-hiểm cho sự tinh-túy của dòng máu Đức là những người Do-thái tràn lan trên đất Đức. Đó là một chủng-tộc từ xưa đến nay luôn luôn phá-hoại văn-minh. Họ không kiến-thiết được cái gì vĩ-đại để lại cho loài người. Họ chỉ chú-trọng vào sự an-hưởng vật-chất, và không có một lý-tưởng gì khác hơn là sự kiếm tiền. Họ lại chuyên-môn gây sự thù hiềm chia rẽ bên trong các dân-tộc, cố gieo rắc mầm nộI-loạn ở khắp nơi để mưu-đồ tư-lợi. Phần lớn những nhà tư-bản bóc lột nhơn-công là người Do-thái, mà những lãnh-tụ chủ-trương giai-cấp tranh-đấu, từ Karl Marx đến Lénine, cũng là người Do-thái. Để cho dân Do-thái tự-do sống trong nước Đức thì thế nào họ cũng làm cho nước Đức suy-vi tan nát. Họ lại trộn lẫn với dân Đức, làm cho người Đức kém hèn đi, không xứng đáng làm bá-chủ thế-giới nữa. Lấy cớ này, Hitler ra lịnh bài-trừ Do-thái. Những người Đức đã lầm lỡ lai giống với người Do-thái tất-nhiên phải bị gạt qua một bên. Những phần-tử không lai giống, nhưng đã bạc-nhược, cũng bị chánh-phủ dùng những phương-pháp khoa-học mà làm cho tuyệt sự sanh-dục đi, để cho quốc-gia Đức sau này tránh cái nạn phải nuôi những công-dân ươn hèn yếu đuối. Một mặt khác, tất cả những người mang dòng máu Đức phải được đặt dưới sự quản-trị của chánh-phủ Đức. Như thế, những đất đai có người Đức ở, phải sáp-nhập vào lãnh-thổ Đức. D. CHẾ-ĐỘ QUỐC-XÃSau khi nắm được chánh-quyền ở Đức, Hitler thi-hành một chế-độ hết sức gắt gao. Ông sửa đổi cách tuyển chọn nhơn-viên Nghị-viện để có một Quốc-hội dễ bảo, sẵn sàng chấp-nhận hết những mạng-lịnh của mình. Ông khuếch-trương những tổ-chức xung-phong của đảng Quốc-xã, và tổ-chức thêm các cơ-quan trinh-sát, để dò xét đàn-áp tất cả những người có xu-hướng đối-lập với ông. Cũng như Mussolini, Hitler tìm cách huy-động lực-lượng toàn-dân, bằng cách tạo ra những tổ-chức phụ-thuộc ở khắp nơi, bắt đầu từ những đoàn thiếu-sinh và thanh-niên Quốc-xã, đào-luyện những thiếu-niên theo tinh-thần thờ phụng và tuân lịnh Hitler. Đi xa hơn Mussolini trong sự đàn-áp đối-lập, ông bày ra những trại tập-trung, giam giữ những kẻ thù của chế-độ ông. Nhưng có lẽ hành-động tàn-bạo nhứt của ông là sự bài-trừ Do-thái. Những công-dân gốc Do-thái bị truy ra, đều bị bắt bớ, đày ải, giết hại hàng vạn ; số người sót lại phải bỏ nước Đức trốn đi. Cách cư-xử của các nhơn-viên Quốc-xã đối với những người chỉ có mỗi một cái tội là sanh ra trong một gia-đình Do-thái ở các trại giam và lò sát-sanh, đã làm sôi lòng công-phẫn của cả thế-giới. Nhưng đối với quốc-gia Đức, Hitler đã thi-hành một chương-trình kiến-thiết vĩ-đại. Chỉ trong một thời-gian ngắn, nền kinh-tế Đức đã phát-triển một cách vô cùng mạnh mẽ, nạn thất-nghiệp được giải-quyết, nền kỹ-nghệ hết sức mở mang và được hướng về sự sản-xuất chiến-tranh. Một mặt khác, Hitler chặt đứt những xiềng xích của Hòa-ước Versailles rèn ra để trói buộc dân Đức. Ông tuyên-bố không nhìn nhận sự hạn-chế quân-lực Đức, và thi-hành lịnh cưỡng-bách tòng-quân, tạo ra cho nước Đức một đạo quân hùng mạnh. Nhờ một nền kinh-tế vững chắc, trù-phú, một kỹ-nghệ rất cao, một chánh-sách hướng mọi sự hoạt-động về sự chuẩn-bị chiến-tranh, đạo quân này đã được võ-trang một cách đầy đủ. Chánh-sách dự-chiến này làm cho Hitler không thể thi-hành trọn vẹn chương-trình nâng cao mức sanh-hoạt của lao-động. Tuy thế, đời sống hạng cần-lao cũng được cải-thiện nhiều, nhờ sự thạnh-vượng mà chế-độ mới mang đến cho quốc-gia Đức. Đ. NHỮNG NHƯỢC-ĐIỂM CỦA CHỦ-NGHĨA VÀ CHẾ-ĐỘ QUỐC-XÃ Thuyết siêu-tộc làm nền tảng cho chủ-nghĩa Quốc-xã của Hitler kể ra cũng có những lý-luận chặt chẽ, nhưng nó không hợp với khoa-học. Thật-sự, không có điều gì chứng-nhận rằng những nền văn-minh đều do nơi chủng-tộc Ayren tạo-lập ra. Những dân-tộc da vàng mà Hitler cho là rất kém hèn so với người da trắng từng tạo ra những nền văn-minh rực rỡ. Hơn nữa, đến ngày nay, người ta cũng vẫn chưa biêt rõ phần tham-dự của những chủng-tộc xưa kia vào nền văn-minh hiện tại là bao nhiêu, vì sự tiếp-xúc chặt chẽ giữa các chủng-tộc trong mấy ngàn năm đã hỗn-hợp những nền văn-minh lại và gán cho nó một tánh-cách đại-đồng. Bởi đó, ngoạI-trừ một số đặc-điểm làm màu sắc địa-phương, người ta rất khó đoán chắc điều gì là do dân-tộc nào phát-minh trước nhứt. Về thuyết cho rằng máu Đức là một thứ máu Aryen thuần-túy, ta không thể tin được, vì sau mấy mươi thế-kỷ chung lộn nhau, chen chúc nhau trên mặt địa-cầu, không một dân-tộc nào có thể tự-hào rằng dòng máu mình còn nguyên vẹn, không trộn lẫn với giống khác, càng không thể nữa là dân Đức, một giống dân sống ở giữa Âu-châu, trên con đường qua lại của những dân-tộc đông tây. Vả lại, sự trộn lộn nhau giữa các chủng-tộc cũng chưa hẳn là một điều có hại cho sự tiến-hóa của nhơn-loại. Sự giao-hợp giữa dị-loại đã đành là không đưa đến kết-quả tốt. Nhưng sự thuần-túy của chủng-tộc chưa chắc đã là một việc hay. Người trong thân-quyến thông-hôn nhau thường sanh ra những đứa con ngu-độn, bịnh-tật. Những nhà mục-súc đã nhận thấy rằng một chủng-loại giữ thuần-túy mãi mãi thì lần lần suy kém đi. Họ đã dùng phương-pháp trộn giống, để mang một nguồn sanh-khí mới đến cho những thú chăn nuôi. Có phải chăng vì nhận thấy những điều này mà những vị thủy-tổ của lễ-giáo phương đông cấm tuyệt hôn-nhơn giữa người đồng tánh, cốt để cho các dòng họ do nơi các bộ-lạc mà ra, lần lần trộn lẫn với nhau ? Gần ta hơn nữa, óc kinh-dinh, chí mạo-hiểm, trí sáng-kiến và sự phồn-thịnh của dân-tộc Mỹ là một dân-tộc do nhiều người thuộc nhiều dân-tộc khác nhau hỗn-hợp lại mà thành cũng là một luận-cứ vững chắc để chứng-nhận rằng thuyết siêu-tộc là sai. Sau cùng, ta nhận thấy rằng dân Do-thái không đến nỗi tệ như Hitler đã bảo. Bị mất nước hơn hai ngàn năm, tứ tán ở bốn phương trời, lang thang khắp các nước trên thế-giới, người Do-thái đã không đồng-hóa với những dân-tộc chứa chấp họ, đã duy-trì được những bản-sắc của nòi giống, mà lại còn giữ vững được tinh-thần ái-quốc, không bao giờ quên lãng Tổ-quốc. Măc dầu luôn luôn bị đàn-áp, họ không lúc nào chán nản, và cần-cù nhẫn-nại, họ lần lần chiếm lấy những nguồn lợi lớn lao trong nước họ ngụ-cư. Những vĩ-nhơn, danh sĩ người Do-thái cũng không phải ít. Tuy đúng như lời tố-cáo của Hitler, họ chuyên-môn gieo rắc mầm chia rẽ ở các nơi, nhưng đó cũng là một lợI-khí họ có quyền dùng để mưu-đồ sự sinh-tồn cho họ. Cứ công-bình mà nói, dân Do-thái cũng là một dân-tộc đáng được sống còn và chẳng kém dân-tộc nào trên thế-giới. Thuyết siêu-tộc của Hitler tuy chẳng đúng với khoa-học nhưng lại hợp với óc thần-bí của người Đức và tánh tự-tôn tự-đại của họ. Nó đánh vào cái ước-vọng âm thầm mà họ mơn trớn từ bấy lâu nay, là mộng xâm-chiếm hoàn-cầu. Vì đó, nó được dân-tộc Đức ồ ạt hưởng-ứng. Với tánh-cách quá-khích của nó, nó nung nấu tinh-thần người Đức, làm cho họ phấn-khởi lên, và xây dựng nước Đức thành một nước hùng-cường. Nhưng nó không kìm nổi cái đà xô đẩy dân Đức. Nó đưa họ đến nhiều tham-vọng quá cao, lại làm cho họ có một óc kỳ-thị sai lầm đối với những dân-tộc hùng-cường khác, nhứt là dân Mỹ, một giống dân lai, và do đó bị xem là hèn kém, đáng khinh. Những điều này đã đưa dân-tộc Đức vào một cuộc phiêu-lưu khủng-khiếp. Một mặt khác, chủ-trương độc-tài từ thuyết siêu-tộc thoát- thai ra chẳng những làm khổ cho dân Đức, mà còn đưa họ đến những hành-động vô-nhơn-đạo đối với người Do-thái, làm cho cả hoàn-cầu đều có ác-cảm với nước Đức. Đó là những mầm mống làm cho chế-độ quốc-xã phải thất-bại sau này. Vậy chỗ mạnh của thuyết siêu-tộc cũng lại là chỗ yếu của nó vậy. III. KẾT-LUẬN VỀ CHỦ-NGHĨA PHÁT-XÍT VÀ QUỐC-XÃTrong những xã-hội đang lăn lộn trong sự hỗn-loạn do sự xung-đột giữa những lý-thuyết dân-chủ và xã-hội gây nên, phong-trào Phát-xít và Quốc-xã tượng trưng cho sự phản-động của ý-thức quốc-gia nguy-khốn. Đối với cái văn-minh vật-chất dựa vào số đông vô-ý-thức, dựa vào phần lượng, nó đem một nền văn-minh tinh-thần dựa vào phần phẩm để chống lại. Đối với nguyên-tắc phóng-túng, nó đem nguyên-tắc quyền-lực để chống lại, đối với chủ-trương cá-nhơn vị-kỷ, nó đem chủ-trương quốc-gia chủng-tộc để chống lại. Nó đã thành-công được ở những nước chưa có một truyền-thống dân-chủ vững chắc và gặp nhiều khó khăn trong sự giải-quyết những vấn-đề nộI-bộ. Trong những nước này, nó gây ra một xúc-động tâm-lý mạnh mẽ, ghép người vào một kỷ-luật gắt gao, và nhờ đó mà xây dựng được sự hùng-cường cho quốc-gia. Thành-thật mà nói, những phong-trào Phát-xít và Quốc-xã cũng có nêu ra vài nguyên-tắc tốt đẹp. Nhưng sự phủ-nhận nhơn-cách con người, hủy-diệt sự tự-do cá-nhơn, bắt con người lệ-thuộc quốc-gia một cách chặt chẽ, đã đưa chủ-trương Phát-xít và Quốc-xã đến những sự tàn-bạo phũ phàng. Xét về phương-diện hành-động, những đảng Phát-xít và Quốc-xã không hơn gì đảng Cộng-sản Đệ Tam Quốc-tế, xét về phương-diện lý-thuyết, những chủ-nghĩa Phát-xít và Quốc-xã còn kém chủ-nghĩa Cộng-sản rất xa. Do đó, tư-tưởng phát-xít và quốc-xã không sao thoát khỏi sự thất-bại, và những người khởi-xướng những phong-trào phát-xít và quốc-xã cũng không tránh khỏi sự nguyền rủa của nhơn-loại sau khi phong-trào ấy bị đổ vỡ và tiêu-diệt. Xem tiếp Chương V, Phần Thứ Nhứt
|
||||||||
|